Chương VII
Căn phòng bệnh viện mà Thư Hương nằm, nhìn ra một bãi cỏ xanh mướt. Chiếc cửa kính đóng lại suốt ngày, để giữ điều hoà cho chiếc máy lạnh chạy rì rầm cả ngày, cả đêm. Mái tóc Thư Hương xoã tung trên gối, màu đen tuyền của tóc nổi bật trên màu trắng của gối, giường bệnh viện. Nàng đã khóc rất nhiều…Cuộc đời của nàng khổ quá.
Khi mà người con gái đang ở một cái tuổi chứa chan hy vọng như nàng mà đi tìm cái chết, thì cái khổ ấy đã thấm sâu vào máu vào tim, không còn có thể chịu nổi. Nàng không còn thiết sống nữa rồi.
Không phải tới bây giờ Thư Hương mới khổ và buồn. Sự buồn khổ đã gậm nhấm trong tim nàng cách đây từ mấy tháng. Ngày đó, cuộc đời tưng bừng như nở hoa. Thư Hương có cảm tưởng rằng nàng là một đứa con gái sung sướng nhất đời.
Anh Tâm, anh của nàng, sau bao nhiêu ngày tháng không nhận được tin tức, đã trở về, như đem lại cho gia đình nàng một sự đổi đời. Cha mẹ nàng vui vẻ hẳn lên và mẹ nàng trong một lúc hân hoan, đã nói:
– Bây giờ mà nói dại, mẹ có nằm xuống, cũng đủ lắm rồi. Mẹ không ước mong một điều gì nữa.
– Mẹ còn phải sống ít nhất là mấy chục năm nữa, để chơi với cháu ngoại, cháu nội của mẹ chứ…
Bà cụ Phủ đã cười rung thớ thịt hai bên má, hồi này bà lên cân trông thấy. Mới có vài ba tháng mà những chiếc áo mặc trong nhà đã chật. Bà vuốt tóc Thư Hương:
– Chắc là mẹ có cháu ngoại trước khi có cháu nội rồi. Có bạn nào ngoan, làm mai mối cho anh mầy để tao lo cả một thể…
Thư Hương cười rất tươi, nói với mẹ:
– Thôi đi, mẹ ơi!… Ông tướng ấy, thì ai dám làm mai, làm mối. Con không nghe chửi được. Lũ bạn của con ngán anh Tâm quá xá rồi…
Nói như vậy với mẹ, không phải là nàng chê trách gì Tâm. Bạn bè của nàng, những cô sinh viên mắt thật đen, tóc thật dài, cũng không phải là không có cảm tình với Tâm. Nhìn ánh mắt của bạn, nàng cũng biết rằng có vài ba cô bạn sẵn sàng gật đầu, nếu Tâm, anh nàng ngỏ lời. Nhưng Tâm cứ giữ một thái độ lừng khừng đến chán đời. Đi qua phòng khách, nếu thấy có các cô ngồi ở đó, Tâm chào một cách dửng dưng rồi đi thẳng về phòng mình. Thư Hương muốn giới thiệu với Tâm vài ba cô bạn, nhưng chỉ một vài lần, rồi những lần sau không dám nữa. Tâm có một lối phê bình nhan sắc phụ nữ rất phũ phàng, tàn nhẫn, mà lại nói thẳng vào mặt những nàng con gái… Nhiều lúc, Thư Hương phải xin lỗi bạn đến có thể phát khóc lên được.
Nghĩ tới anh Tâm, anh Dưong, rồi nàng lại nghĩ tới Hoạt. Nàng đã định rằng không bao giờ thèm nghĩ tới cái “thằng khốn nạn” ấy, mà không sao ngăn cấm được giòng tư tưởng. Nghĩ tới Hoạt, là nghĩ tới tội lỗi. Nàng nhắm mắt, thở dài… Giữ gìn bao nhiêu năm rồi sự phạm tội chỉ tới trong khoảnh khắc, phá nát tất cả công trình gìn vàng giữ ngọc.
Nàng nhớ bắt đầu từ buổi chiều hôm đó, xin phép mẹ đi chơi. Ngồi trên xe với Hoạt, nàng thấy mình như mọc cánh, và bàn tay nàng đã như nắm được hạnh phúc của cuộc đời. Hoạt thì có vẻ còn như tức bực về buổi ăn vừa rồi ở nhà nàng. Hoạt đã nhăn mặt nói với Thư Hương:
– Hai anh chàng lính tẩy ấy, có vẻ như ghét anh. Nhưng anh cũng chẳng cần để ý. Có ghét anh, thì cũng chẳng làm cho anh ra hụt mất một “kí lô” thịt nào…
Thư Hương vội cải chính cho hai ông anh:
– Tại sao anh lại nghĩ vậy. Anh Tâm với anh Dương có vẻ quí anh lẳm. Em còn lạ gì tính hai ông ấy. Không bằng lòng ai, họ đốp chát ngay thẳng vào mặt, chẳng có kiêng nể gì. Họ nói chuyện vui vẻ với anh, tức là họ cũng đã có cảm tình với anh rồi…
Tiếp theo, nàng đi một đường tán tụng ông bạn của anh nàng:
– Anh Dương là thầy dạy của em năm Đệ Tứ. Hồi ấy, có nhiều đứa bạn em, mê anh chàng thầy giáo này bằng thích. Không hiểu sao, anh chàng lại bỏ nghề bảng đen, phấn trắng, đi lính để theo một cái nghề dễ sợ là nghề lái tàu bay.
Hoạt lái một đường vòng tròn tuyệt đẹp và ngâm:
– “Xếp bút nghiên theo việc… phi công.”
Chiếc xe ngừng lại một chút ở ngã tư xa lộ rẽ vào Thủ Đức. Từ một con đường rộng thênh thang, chiếc xe đi vào một con đường mấp mô sỏi đá. Cạnh đường là một nghĩa trang, cỏ mọc um tùm, trông thê lương đến lạnh người. Hoạt kể:
– Anh đã thả một đứa con gái xuống đây vào lúc đêm khuya.
– Tại sao vậy?.
– Tại vì anh ghét nó.
Rồi Hoạt kể tiếp:
– Chắc em biết con Nguyệt học bên Luật… Chỉ vì ghét cái tính kênh kiệu của nó, mà anh đã cho nó một trận. Anh mời nó đi ăn ở Thủ Đức. Ngày đó, anh còn chiếc “Vét-pa” cà là tàng. Cô nàng được mời, hí hửng lắm. Tới chỗ này, anh giả vờ tắt máy xe rồi nói là xe hư. Cô nàng vừa xuống là anh gài số, đẩy cho máy nổ, rồi chạy mất…
Kể đến đấy, Hoạt cười vang thích thú. Thư Hương chỉ hơi nhếch miệng cười, vì nghĩ thương cho Nguyệt. Đứng một mình nơi đêm tối mà ở chỗ này, thì chỉ có sợ cũng đủ đứng tim mà chết. Nàng thẫn thờ hỏi:
– Rồi Nguyệt nó làm cách nào mà về nhà?
– Anh đâu biết.
– Thế từ đó đến nay, anh có gặp Nguyệt nữa không?
– Có gặp vài lần, nhưng anh tránh mặt. Tội gì mà giáp mặt với nó, để nó mắng cho. Anh đâu có dại!
Rồi anh chàng lại ngâm:
– “Còn tình chi nữa, mà thù đấy thôi!”.
Bữa nay. anh chàng nổi hứng, cứ thích đọc thơ. Có lẽ là để lấy le với cô gái học Sư Phạm. Ra cái điều, ta đây học Y Khoa, nhưng cũng biết thế nào là văn clurơng, thi phú. Chiếc xe quẹo vào một con đường rợp bóng tre, nồng mùi cỏ úa.
– Anh định đưa Thư Hương đi đâu đây?
Hoạt biểu diễn một bộ mặt bí mật:
– Có một chỗ này, thơ mộng lắm. Tới đó rồi em sẽ yêu ngay. Một nơi mà bề ngoài thì đầy chất Á đông nhưng bên trong thì lại đầy chất Tây Phương. Ngồi ở đó, Thư Hương sẽ tưởng như mình lạc một vùng quê bên Tây, có những nàng con gái hái nho đi theo chiếc xe bò vào những mùa Thu miền Nam nước Pháp. Có bao giờ em nghe thấy tên quán “Con Nai Vàng”?…
– Em chưa bao giờ được nghe!…
Tội nghiệp cho Thư Hương. Từ nhỏ tới lớn, nàng sống trong bốn bức tường lễ giáo, đâu có bao giờ được thoát ra ngoài.
Đường đi vào đây, có những cành tre lả ngọn. Thỉnh thoảng, Hoạt lại phải lái xe tránh những con trâu, đứng nghênh ngang giữa đường, hay những chú mục đồng ngơ ngác nhìn hai người thành phố ngồi trên chiếc xe hơi.
Thư Hương cười, nói trêu Hoạt:
– Chưa thấy “Con Nai Vàng” nào hết, mà chỉ thấy vài con trâu đen ngơ ngác. Hay là anh Hoạt đi lầm đường rồi.
Hoạt cũng cườỉ:
– Có một con nai vàng ngơ ngác đấy thôi! Con nai vàng ấy là cô Thư Hương.
Rồi Hoạt lái xe vào hẳn vệ đường trả về số, quay sang nhìn đôi mắt nai mở lớn của Thư Hương. Tự nhiên Thư Hương chớp nhanh đôi mắt thẫn thờ. Vòng tay của Hoạt dần xiết chặt. Thư Hương nhìn thấy khuôn mặt của Hoạt sát lại gần, thật gần.
Tất cả như nhoè nhoẹt hẳn, chỉ một cái gì thật êm thật ấm, truyền vào đôi môi Thư Hương, để bắt Thư Hương phải ngửa mặt lên đón nhận, và từ dó, những cảm giác tê dại như luồn vào từng trong thớ thịt, làn da. Mắt Thư Hương nhắm chặt, nhưng cảm giác như bắt đầu thức dậy, và những cảm giác ấy vẫn như còn vương vương, luyến tiếc khi Hoạt nới lỏng vòng tay.
Thư Hương cúi mặt e thẹn:
– Anh làm em ngạt thở. Ban ngày ở đây, anh làm thế, lỡ ai trông thấy thì sao?
Bàn tay Hoạt chưa rời khỏi đôi vai tròn của Thư Hương, ve vuốt lên trên đó. Làm cho Thư Hương nổi lên từng khoảng da gà. Rồi vòng tay ấy lại choàng qua lưng Thư Hương, đặt lên khoảng trũng dài như một lạch sông, như một thung lũng. Tiếng thở dài của Thư Hương lúc này thật là khó hiểu. Nàng ngửa mặt lên, sẵn sàng dâng hiến.
Cảm giác ấy, tới bây giờ, Thư Hương vẫn còn nhớ. Người con gái khuê các ấy chưa biết được tới người đàn ông nào khác, trừ người khả kính là bố, người khả ái là… ông anh. Người yêu của nàng, hình như so sánh với đàn ông như cha nàng, anh nàng sao thấy rất gần, mà lại rất xa lạ. Vòng tay ấy đã ôm lấy nàng, như một chiếc bẫy đã sập xuống, nhốt nàng trong đó, để nàng có cảm tưởng rằng, càng vùng vẫy, càng cựa quậy thì những vòng tay thuồng luồng ấy cứ như quấn lấy nàng thật chặt. Một cái chặt chẽ êm ái, một sự ngạt thở khoái cảm. Nàng gục đầu xuống vai Hoạt để nghe thấy hơi thở ấm của Hoạt bò lên trên cổ, phơ phất như những sợi tơ.
Hoạt lại lái xe đi. Chiếc quán lợp tranh, dưới gốc những tàng cây cổ thụ, cạnh những bãi cỏ mưót xanh vừa hiện ra. Hoạt nói một giọng rất cải lương:
– Thưa cô sinh viên yêu quí của tôi, đây là quán “Con Nai Vàng”.
Một đứa nhỏ chạy ra mở cửa xe. Thư Hương bước xuống, hãnh diện đi sát vào Hoạt. Nàng mơ ước tới một ngày nào đó, bốn bước song song bên nhau suốt đời. Hoạt tỏ ra lịch sự, kéo ghế mời Thư Hương ngồi….
– Thưa ông bà dùng chi.
Hoạt gọi món ăn làm Thư Hương hoảng hốt:
– Vừa mới ăn ở nhà xong, anh còn ăn nữa sao?
– Anh có ăn được gì đâu. Hai anh chàng tàu bay đớp kỹ quá, uống kỹ quá mà đấu cũng kỹ nữa. Anh cảm thấy đói rồi. Em phải ăn cùng với anh.
Hoạt gọi một chai rượu vang nhỏ, vừa đủ rót được hai ly. Lấy cớ rằng hồi nãy đã nhìn thấy Thư Hương uống được rượu, Hoạt bắt Thư Hương phải uống. ” Rượu vang để ăn thêm ngon. Đâu có như những thứ rượu của các anh chàng kia, uống vào để cháy gan, cháy ruột”.
Hoạt nói vậy khi Thư Hương nhấp từng chút rượu màu nâu, mát lạnh. Nàng cúi xuống, nhìn thấy đôi mắt của mình ở trong đó, và môi nhòe chất son. Chất rượu mạnh hồi nãy uống ở nhà, pha với chất rượu chát, làm cho nàng ngây ngất. Men tình ái làm cho nàng nhẹ bổng, như bay lên với những đám mây trắng ngoài kia, trôi lang thang trên bầu trời xanh lơ thăm thẳm. Trong một thoáng, nàng liếc sang nhìn Hoạt, để rồi thấy người đàn ông đẹp quá, đáng yêu quá.
Nàng cũng lấy làm lạ với Phượng và Dương. Hai người ấy yêu nhau một cách trầm trầm. Phượng cũng đã nói vói nàng, “màu nào mà nhàn nhạt, thì lâu phai. Màu thẫm quá thì dễ phai mà lúc phai đi thì nhìn xấu lắm, không còn là một thứ màu sắc gì nữa”. Ý của Phượng định nói về màu sắc tình yêu. Thư Hương biết như vậy, nhưng cứ vẫn thấy lòng sôi nổi, bừng bừng như một cơn sốt êm êm đưa con người vào mê sảng.
Hoạt và Thư Hương ngồi ở quán Con Nai Vàng tới năm giờ chiều. Rồi Hoạt đưa Thư Hương vào tận sâu trong Thủ Đức nói là thăm một người bạn. Móng vuốt của con mèo đã giương ra, vồ lấy con chuột. Nàng ngồi ngoài xe, để Hoạt chạy vào trong đó… Tiếng con tàu xình xịch chạy, cho Thư Hương biết nơi đây gần nhà ga. Bóng một cây dừa chơ vơ, trông thật cô đơn và lẻ loi. Nhà ga tỉnh lẻ, dù là một tỉnh gần thành phố lớn như Thủ Đức, cũng vẫn buồn bã như một toa tàu cũ bị bỏ quên. Nàng vẫn còn ngây ngất, còn say. Tiếng của Hoạt gọi:
– Thư Hương, xuống đây!…
Nàng mở cửa xe, đặt chân xuống mặt đất, bước đi đọc theo một hành lang vắng lặng, có những cánh cửa đóng kín… Rồi chuyện đó xảy ra…
Nàng nhắm mắt, rùng mình, không muốn nghĩ tới nữa. Cơn thảng thốt, đau đớn như xé, dằn vật thân xác, rồi tiếp đó là đê mê, như chìm trong một đám mây đen, đầy nặng, để thành một cơn mưa ào ào đổ xuống.
Thư Hương đã run lẩy bẩy, như người đi trong cơn mưa đó… Nước mắt tự nhiên chảy dài trên má. Nàng không còn là con gái nữa. Nàng đã mất đi cái cao quí nhất của cuộc đời con gái.
Rồi từ đó, nàng như một đôi giày đã lấm bùn trong truyện ” Quốc Văn Giáo khoa thư” lớp Đồng Ấu. Một người có đôi giày mới, đi ra đường lầy lội, cố tránh những vũng bùn. Nhưng rồi tới lúc không giữ được, để dính một chút bùn, thì người đó bước đi phăng phăng. Tâm trạng của Thư Hương cũng vậy.
Những lần sau này, Thư Hương là món đồ chơi trong tay Hoạt. Với một ý nghĩ an ủi rằng, đằng nào thì mình cũng sẽ là vợ Hoạt. Nàng cứ dục Hoạt mau làm đám cưới… Nhưng rồi Hoạt tránh mặt nàng, và đã một hôm, nói thẳng với nàng rằng, cuộc tình duyên kể như tới đây là cắt đứt rồi. Lúc đó cũng là lúc mà Thư Hương cảm thấy trong người mình có nhiều triệu chứng khác lạ.
Thì ra nàng đã có thai, một bào thai đã kết tinh như một thứ quả dại, không ai muốn cho nó đơm hoa kết trái…
Từ trường học bước về nhà, nàng bước đi những bước mộng du. Sao cuộc đời có thể phũ phàng đến như thế? Vài ba chiếc xe hơi, đã phải thắng thật gấp, khi nàng hờ hững bước qua đường. Bánh xe oan nghiệt kia có đè nát người nàng, thì cũng chỉ như giải thoát cho nàng, để cho gia đình nàng khỏi mang tiếng xấu, để cho nàng về tới nơi đầy ánh sáng yêu đương của mọi sự tốt lành. Nàng không hiểu sao mà mình cũng về được tới nhà? May mà lúc đó, cha mẹ nàng đi vắng. Chị người làm sửng sốt, nắm lấy tay Thư Hương:
– Cô làm sao vậy?
Nàng không trả lời, rút tay ra khỏi bàn tay chị người làm, chạy vội về phòng đóng sầm cửa lại, để nguyên quần áo như vậy, nằm lăn trên giường, khóc như mưa, như gió. Tình yêu sao lại quá phũ phàng? Mối tình đầu của người con gái, nhất là những người con gái như Thư Hương, khi bị tan vỡ, thật đau như một vết dao chém. Thư Hương khóc một hơi, nhẹ vơi đi được một ít đau khổ, nhưng tim cứ như nghẹn lại, thắt chặt lại, làm nàng chỉ muốn bật ra những tiếng nức nở.
Nằm trong phòng mà nàng nghe thấy cả tiếng mẹ nàng lao xao nói chuyện ở phòng ngoài. Thư Hương không dám chạy ra đón mẹ, vì chỉ sợ rằng, nhìn thấy bộ mặt thiểu não đến ghê gớm của nàng, chắc mẹ nàng sẽ hoảng hốt lắm. Nàng lơ đãng đứng dậy cởi áo dài. Nhìn vào trong gương, nàng kiểm soát lại một lần thân thể, nhất là phần về phía bụng. Nàng biết chắc rằng, chỉ vài tháng nữa, cái bụng ấy sẽ gồ lên, để cho nàng không còn che dấu ai được nữa. Ý tưởng tự tử đã lảng vảng đến với Thư Huơng.
– Cô Hương đã về chưa?
– Thưa bà, cô về rồi, đang nằm trong phòng.
Rồi tiếng chị người làm hạ thấp xuống:
– Hình như cô đau hay sao ấy. Con thấy mặt cô tái đi như người bị trúng gió.
Tiếng dép lê đến cửa phòng, rồi tiếng gõ cửa. Từ ngày Thư Hương và Tâm đã lớn bà Phủ thường tỏ ra lịch sự với các con, bao giờ bà cũng gõ cửa.
– Thư Hương, con có sao không?..
Thự Hương nói vọng ra:
– Con hơi choáng váng một chút… Mẹ cho con nằm nghỉ một lát là khỏi ngay…
Bà Phủ hỏi:
– Con có cần ăn cháo không để mẹ bảo nó nấu?…
– Thôi, mẹ ạ!…
Thấy mẹ săn sóc mình, Thư Hương muốn nức lên khóc. Nàng vội đưa chiếc khăn tay lên mồm cắn chặt.
Nàng lại nghe thấy tiếng dép của mẹ đi về phòng khách, rồi chỉ một lát sau, nàng nghe thấy tiếng mõ, tiếng cầu kinh. Mẹ ơi, mẹ hãy cầu xin Trời, Phật phù hộ cho con thoát khỏi cơn đau đớn này. Tiếng mõ vẫn vang lên đều đều. Thường thường, mỗi khi vừa chập tối, mẹ nàng vẫn tụng hết một pho kinh rồi mới ăn cơm. Bà cụ ăn chay trường, bắt đầu từ hơn một tháng nay. Bà chỉ lo nghĩ đến đứa con trai duy nhất, đang làm cái nghề nguy hiểm là nghề lái tàu bay.
Bà đã khóc nhiều lần lo sợ cho con mỗi khi nửa đêm, thức giấc nghe tiếng phi cơ rền rĩ trên trời. Bà định tìm cách cưới vợ cho con, rồi nhờ vợ nó giữ chân nó lại. Mẹ nó không giữ chân được nó, thì chắc vợ nó sẽ giữ được. Bây giờ, bà chỉ biết tụng kinh và ăn ở nhân đức.
Thư Hương nằm trong phòng mà ngửi thấy cả mùi trầm hương thơm ngát. Nằm lắng nghe mẹ tụng kinh, nàng thấy lòng thanh thản đi nhiều.
Tôn giáo thật nhiều sức mạnh… Khi con người đau khổ, nếu thấy kẻ khác đau khổ hơn mình, thì cái khổ ấy vơi bớt đi nhiều lắm. Chúa hay Phật đều là những người đã khổ quá nhiều, nên những kẻ đau khổ thường tới trước mặt Chúa, trước mặt Phật để than thở. Thư Hương định rằng, những ngày rằm, mùng một, nàng sẽ theo mẹ đi chùa, lễ Phật.
Thư Hương chỉ đi chùa vói mẹ được hai lần. Tâm hồn nàng cũng thanh thản được vài ba phút. Nhưng những bà bạn của mẹ nàng, đã gợi cho nàng những tủi hổ. Nhiều bà khen nàng đẹp, khen nàng hiền hậu, và đòi mai mối cho những người con, người cháu đang có một địa vị lớn trong xã hội. Nàng đã cúi đầu để dấu một nụ cười khinh bạc. Có ai nhận được cái bào thai, hiện đang thành hình trong người tôi là của mình?… Hay chỉ là những ray rứt, ghen tuông để kéo dài cả một kiếp sống ngục tù?
Kẻ nào có can đảm nghe tôi nói về cuộc đời tình dang dở của tôi, nói về hòn máu oan nghiệp đang kết tinh và lớn dần, mà vẫn cứ coi như không có chuyện gì xảy ra, vẫn cưới tôi, vẫn đối xử với tôi như một người vợ. Chắc trên thế gian này chẳng còn ai. Ông Khổng Tử đã chết đi từ mấy ngàn năm nay rồi. Thế gian này, chẳng thể kiếm được một thứ quân tử Tàu…
Mỗi khi có bà bạn nào nói đến chuyện làm mai làm mối thì mẹ nàng lại cười rất tươi::
– Thưa bác, cháu nó có nơi rồi.
– Cậu ấy làm gì?
– Thằng đó nó sắp ra bác sĩ.
Nhìn mặt mẹ nói những câu đó với một khuôn mặt rạng rỡ, Thư Hương lại thấy đau nhói trong tim. Mẹ nàng vẫn chưa biết chuyện của nàng. Mới đầu thì nàng thấy thế cũng hay, vì cho mẹ biết chẳng được ích lợi gì, mà chỉ làm mẹ đau buồn. Nhưng rồi vì sức người có hạn, sự đau khổ chỉ chịu được tới một mức nào mà thôi, nàng đã nói với mẹ bằng một giọng hằn học:
– Con xin mẹ, mẹ đừng nhắc tới cái thằng con rể bác sĩ của mẹ nữa…
Bà Phủ ngạc nhiên:
– Tại sao vậy?… Hay chúng mầy lại giận nhau rồi …
Giọng nàng dịu lại:
– Không những giận nó, mà bây giờ con còn khinh nó. Nó không đáng làm con rể của mẹ…
Chỉ nói được câu đó là nàng phải chạy về phòng. Thư Hương lại khóc… Cái khóc này không ồ ạt như buổi đầu tiên nghe Hoạt cắt đứt mối tình, nhưng những giọt nước mắt này mới đúng là những giọt nước mắt câm, rất thấm, rất dài, để cho người ta tưởng mỗi giọt nước mắt đọng lại trên mi rồi chảy xuống, là một giọt máu ứa ra từ tim nàng. Tội nghiệp cho Thư Hương… Hồi nầy, nàng đã phải dùng thuốc ngủ để dỗ dành cho giấc ngủ tới mau.
Nàng tới một cô bạn, hiện đang mở hiệu thuốc tây, mua loại thuốc ngủ mạnh nhất. Cô bạn nhìn đôi mắt quầng xanh của bạn, màu xanh ấy không phải là màu của thuốc nước trang điểm, mà cái quầng hằn lên, đánh dấu sự mất ngủ, nên đưa cho nàng ống thuốc ngủ với lời nói đùa:
– Uống một viên thôi đấy nhé! Mày mà uống thêm, thì có quyền ngủ một giấc ngàn thu.
Thư Hương hỏi lại:
– Uống nhiều thì chết được sao mầy?…
– Chết là cái chắc…
Nàng nắm chặt ống thuốc ngủ, mắt như lạc vào một cõi xa xăm nào. Người bạn gái của Thư Hương, thấy thái độ khác lạ của nàng, vội hỏi:
– Mày định chết thật sao?
Thư Hương như bừng tỉnh, vội cười, tiếng cười thật sắc:
– Tao đang diễn một màn kịch.. Mày không hay tao vừa được một hãng phim mời đóng vai một đứa con gái chán đời. Tao đang tập vai trò đó. Làm được cho mầy hoảng hốt, là tao thành công rồi…
Nàng bỏ ống thuốc ngủ vào ví tay, rồi cố làm ra đáng điệu chim sẻ nhảy nhót bước đi. Người bạn gái nhìn theo, nhún vai một phát rất đúng điệu đầm. Không ai có thể tin được là Thư Hương lại dùng ống thuốc ngủ xin được của người bạn gái, để ngủ một giấc thật lâu êm đềm, một giấc ngủ thiên thần để đi về một nơi không còn khổ đau, tủi cực mà người ta gọi là chốn giải thoát.
Trước khi dốc cả ống thuốc ngủ vào miệng, nàng đã suy nghĩ rất kỹ. Cái chết của nàng sẽ giải quyết được tất cả mọi chuyện. Con nàng sẽ chết theo nàng, không phải chịu tủi cực là một đứa nhỏ không cha. Cha mẹ nàng, tuy rằng cũng đau đớn nhiều về cái chết của nàng, nhưng tránh được cái nhục nhã vì có một đứa con gái không chồng mà chửa… Còn nàng, nàng còn luyến tiếc một cái gì nữa đâu…
Vài khuôn mặt của lũ bạn thân phảng phất hiện lên nhưng chỉ bàng bạc, mơ hồ, không đủ sức giữ được nàng ở lại cuộc đời đầy chất ô trọc này. Rõ ràng nhất, sâu đậm nhất là hình ảnh của anh Tâm, anh Dương và Phượng. Ba người đó như đang nhìn Thư Hương bằng những con mắt dịu dàng nhưng nghiêm khắc. Dù cho nàng nhắm đôi mắt, vẫn còn nhìn thấy, và còn nghe thấy văng vẳng tiếng cười đùa của anh Tâm, anh Dương, tiếng cười đầy chất thủy tinh của Phượng.
Thở dài một tiếng, nàng đưa cả nắm thuốc lên miệng, nuốt ừng ực như nuốt một chất ma túy giải phiền…
Nhưng số mệnh đã giữ nàng lại… Chị người làm vào đánh thức nàng, hỏi xem sáng nay nàng ăn gì, để còn đi mua, thấy chân tay nàng lạnh ngắt, mặt trắng bệch, đã la lên ầm nhà… Anh Tâm, chạy sang hàng xóm mượn được chiếc xe, lái như bay, đưa nàng vào bệnh viện. Người ta đã cứu sống nàng…
Thư Hương lấy làm lạ, từ hôm qua đến nay, vẫn chưa thấy Phượng và Dương vào thăm.. Không biết đã có ai báo tin này cho hai người biết chưa?… Thư Hương biết tính anh Tâm. Khi có chuyện gì buồn, khó giải quyết thì thế nào cũng tới rủ anh Dương đi uống rượu, và nói cho hả, nếu cần thì hai ông ấy sẽ không ngần ngại gì, đóng chặt cửa lại, đấm đá nhau một lúc cho đỡ buồn, đỡ khổ. Thế giới của đàn ông, thật nhiều chuyện lạ.
Thư Hương đã giận anh Tâm mất mấy ngày, khi anh giở giọng khinh thường đàn bà. Muốn kiếm một bạn mới khó chứ muốn kiếm một con vợ, tức là một đứa đàn bà, thì kiếm lúc nào chẳng được. Bây giờ, Thư Hương mới hiểu tình bạn là cao quí, mà hai người bạn như anh Tâm và anh Dương, lại là một thứ hiếm có ở trên đời.
Có tiếng gõ cửa. Thư Hương ho lên một tiếng cho ngưòi đứng ngoài hiểu là mình còn thức. Nàng cũng lấy làm lạ. Chỉ có mẹ càng hay lui tới với nàng.
Bà mới về buổi sáng, bây già còn sớm để bà phải trở lại. Mà mẹ nàng, lúc vào phòng bệnh nầy, đâu có gõ cửa. Chốt cửa quay một vòng thật nhẹ.Thư Hương thấy bóng áo trắng của cô y tá, rồi tà áo trắng ấy đứng nép một bên, nhường bước cho một tà áo đỏ bước vội vào phòng. Cô y tá khép nhẹ cửa lại.
– Phượng!…
– Thư Hương!…
Phượng nắm chặt lấy tay Thư Hương, bàn tay nhỏ bé, nổi lên những đường gân xanh. Phượng thương bạn quá.
– Tại sao Thư Hương lại làm như vậy. Mình còn nhiều cách để giải quyết mà.
Thư Hương oà lên khóc:
– Em khổ quá, chị Phượng ơi!…
Phượng vỗ nhẹ lên lưng Thư Hương, dìu Thư Hương nằm xuống giường. Nàng rút khăn tay lau nước mắt cho Thư Hương.
Tuy rằng Thư Hương với Phượng cùng một tuổi với nhau, nhưng sao Phượng thấy Thư Hương nhỏ bé quá, yếu ớt quá. Thư Hương như một con chim chưa đủ lông cánh đã đòi tập bay, để rồi từ một cành cây thật cao, té bổ nhào xuống, gãy đổ la liệt, cuộc đời tan tành. Nàng vuốt mấy sợi tóc ướt đẫm nước mắt, dính bết vào má Thư Huơng, rồi nhìn vào tận mắt Thư Hương:
– Phượng bàng hoàng tưởng rằng trời đất sụp đổ, khi nhận được tin Thư Hương.
– Ai báo cho chị biết?
– Anh Dương. Tối hôm qua, anh Tâm tới phòng anh Dương ngủ, kể lại cho anh Dương nghe. Sáng nay, anh Dương tới đánh thức Phượng dậy thật sớm đưa Phượng đi ăn sáng, rồi bắt Phượng tới đây với Thư Hương. Anh Dương thả Phượng xuống đây rồi mới đi làm…
– Tại sao anh Dương không lên thăm em?
– Phượng cũng bắt anh Dương lên thăm Thư Hương đấy chứ. Nhưng anh nói rằng, không nên tới thăm người con gái lúc mà cô ta nằm trên giường bệnh. Vì lúc đó, người con gái không còn giữ được sắc đẹp như lúc còn khỏe mạnh. Anh chàng còn kể cả chuyện bà cung phi nào, lúc đau bệnh, được vua tới thăm không cho vua vào thăm, chỉ lấy con dao bằng vàng, cắt mớ tóc để đưa cho vua, đành chịu tội vậỵ…
Thư Hương mơ màng, đọc câu thơ:
– “Tóc mây một món chiếc dao vàng. Ngàn trùng e lệ, phụng quân vương”. Lúc ốm đau, người con gái xấu xí thực.
Rồi Thư Hương thở đài, nói tiếp:
– Nhưng Thư Hương là em anh Dương, đâu phải là nàng cung phi của Đức Vua.
Phượng cười:
– Thôi mà, chấp làm chi một lũ gàn!…
Thư Hương cũng nhìn bạn cười. Thấy bạn cười. Phượng mừng quá. Tuy rằng trong phòng không có ai, chỉ có hai người, nhưng Phượng cũng hạ thấp giọng xuống, hỏi nhẹ:
– Được mấy tháng rồi?…
– Chị Phượng nói cái gì.
– Phượng nói cái đó… Đã lâu chưa?…
Khuôn mặt của Thư Hương lại trở nên trầm lặng. Nàng kéo cao chiếc gối để tựa lưng lên cao, rồi buông một câu:
– Gần ba tháng rồi, chị Phượng ạ! Chị Phượng cũng như chị em trong nhà, nên Thư Hương chẳng muốn dấu làm chi. Mẹ Thư Hương cứ bắt phá đi, mà ai nỡ lòng nào. Nó có tội tình gì.
– Phượng cũng đồng ý như vậy.
Thư Hương nhắm mắt im lặng. Phưạng ra chiếc ghế xa-lông, ngồi đọc vài ba cuốn báo đã cũ, để nghĩ tới một quyết định đẹp cho đời Thư Hương. Nhìn Thư Hương, Phượng thấy buồn khổ quá. Còn Thư Hương thì đang nghĩ đến quyết định của mẹ.
Không ngờ mẹ là người tụng kinh, ăn chay, mà lại có một ý định táo bạo như vậy. Lúc nói với Thư Hương về câu chuyện đó, mẹ rất ngập ngừng. Chắc rằng mẹ cũng hối hận lắm. Hương nghĩ tới những câu mà các bạn của mẹ, khi thấy Thư Hương đi lễ chùa với mẹ, thường nói đùa là sẽ làm mai cho nàng kết duyên với con, với cháu, những người hiện nay đang làm chức lớn. Đấy là lời những bà cụ lẩm cẩm, kiếm cớ để khoe chức tước của con cháu, nhưng biết đâu, trong đó chẳng có vài bà thực tâm. Thư Hương nói thẳng với mẹ:
– Con chẳng muốn lừa dối ai, nhất là con không muốn giết đứa con của con. Thà rằng giết con đi thì mới có thể giết được nó. Mẹ có can đảm giết con không? Con cũng thế. Con không thể giết con của con được…
Mẹ đã vỗ về:
– Nhưng để cho nó ra đời mà không có cha, lạị càng tội hơn. Mẹ chỉ muốn con làm lại cuộc đời. Con không biết là mẹ thương con. Mẹ là… người tu hành…
– Con biết lắm. Con hiểu mẹ nhiều lắm!
Nàng muốn gào lên, “mẹ là người ích kỷ, mẹ chỉ nghĩ tới mẹ ”, nhưng nàng đâu dám hỗn hào như vậy. Nàng lại có ý định tìm cái chết, nhưng người ta đã đề phòng từ trước. Bây giờ, Phượng đồng ý với nàng, nàng thấy Phượng mới chính là người tri kỷ. Vẫn nhắm mắt, nàng hỏi:
– Chị Phượng đang làm gì đó?… Vẫn còn ngồi đấy chứ.
Phượng trả lời ngay:
– Phượng còn ngồi đây. Thư Hương cần gì cứ nói, Phượng sẽ làm ngay.
– Thư Hương chỉ cần chị Phượng nói chuyện…
– Thì Thư Hương nói trước đi!…
Thư Hương kể lể:
– Nhiều lúc, Thư Hương thấy chị Phượng với anh Dương như một cặp vợ chồng già. Ấy là chưa lấy nhau, còn thời kỳ vị thành hôn đấy. Nhất là lúc thấy anh chị cứ nhìn nhau không thèm nói; không chớp mắt mà Thư Hương lấy làm lạ… Về sau này, Thư Hương mới hiểu, đối với những kẻ yêu nhau, thì phải sửa soạn cho cả một cuộc sống dài dằng dặc về sau này chớ không thể chỉ sống với hiện tại, vui hưởng với cái hiện tại. Tới lúc Thư Hương hiểu được chuyện đó thì cũng muộn quá…
Phượng can ngay:
– Đâu đã muộn… Thời gian làm cho trái cây chín. Phượng chỉ là một thứ trái cây được phơi nắng, nên chín sớm. Bắt đầu từ đây, Thư Hương sẽ khôn hơn Phượng nhiều…
– Em không muốn khôn hơn chị Phượng. Chị Phượng có để ý không?… Tuy rằng chị Phượng chỉ bằng tuổi em, nhưng em rất bằng lòng gọi chị Phượng bằng chị…
– Phượng cứ tuởng rằng Thư Hương gọi như vậy là vì anh Dương là bạn với anh Tâm…
Hai người con gái chỉ trao đổi câu chuyện được tới chỗ đó. Rồi im lặng bao trùm lấy cái không khí bệnh viện đầy mùi ê-te, mùi bông, mùi băng. Phượng ra đứng nơi cửa sổ, nhìn xuống vườn cỏ xanh mướt của bệnh viện, trên đó có vài đứa nhỏ đang nô đùa. Tiếng của Thư Hương lại vọng tới tai Phượng:
– Chị Phượng bảo Thư Hương phải làm gì bây giờ?
Cân hỏi của Thư Hương từng chữ, từng chữ như xoáy vào trong đầu Phượng. Tay cầm tờ báo, nhưng Phượng có nhìn thấy gì đâu. Tay nàng vẫn hững hờ, lơ đãng lật từng trang báo. Thư Hương lại hỏi:
– Chị Phượng bảo em phải làm sao bây giờ?
– Phượng đang nghĩ đây!
Thư Hương thở dài nhìn lên trần nhà trắng toát. Nếu chiếc trần nhà ấy cứ dần dần hạ thấp, đè chặt Thư Hương bẹp dí xuống trên chiếc giường bệnh viện này, thì thật sung sướng cho Thư Hương. Căn phòng bịnh viện đã đóng kín hết cửa, thật yên tĩnh, nhưng cũng thật buồn. Nếu buổi sáng nay, không có Phượng, chắc Thư Hương nằm đây sẽ buồn lắm. Ý nghĩ vơ vẩn lúc nào cũng bàng bạc trong đầu, chỉ chờ những lúc thật cô đơn, thật yên lặng mới thoát ra ngoài, nhảy múa không tài nào xua đuổi.
Hình như người con gái khi đã có một kỷ niệm thì chỉ có một kỷ niệm khác, sâu đậm hơn, đáng nhớ hơn, mới có thể xóa nhòa đi được.
Tiếng Phượng thật êm, thật nhẹ:
– Hay Thư Hương đi xa Saigon một thời gian. Như là đi Đà Lạt chẳng hạn.
Thư Hương thẫn thờ trả lời:
– Em cũng nghĩ đến chuyện đó rồi. Nhưng chị Phượng ạ, mình càng cố dấu diếm thì thiên hạ cũng biết, rồi lại thêu dệt ra nhiều thêm. Thà rằng, cứ ở lại đây, chẳng cần phải dấu diếm gì ai hết.
Phượng lại im lặng. Nàng chỉ có thể nghĩ tới được đến thế. Từ trước, những người con gái lỡ mang một tâm sự khó nguôi, thường đùng đất Đà Lạt để làm một thời gian chờ đợi. Rồi khi thời gian ấy qua đi, lại trở về, sống một cuộc đời bình thường. Nhưng những lúc gần đây, chuyện đó không còn là một chuyện lạ. “Con nhỏ ấy ở Đà Lạt mấy tháng, vừa mới trở về”, chỉ cần một câu nói đó là thiên hạ hiểu biết hết mọi chuyện.
Thư Hương trầm giọng, nói tiếp:
– Chắc chị Phượng biết là em học Sư Phạm. Rồi đây em sẽ là một giáo sư. Một cô giáo mà có một dĩ vãng xấu như em, thì làm sao mà dạy học trò?…
– Thư Hương đâu có phải là người xấu?… Thư Hương là nạn nhân của cuộc đờì khốn nạn. Phượng nhìn Thư Hương, chỉ thấy đẹp, nhiều cái đẹp nữa là đằng khác.
– Em cám ơn chị Phượng.
Tiếng cám ơn của Thư Hương, nghe buồn như tiếng khóc. Nếu người khen Thư Hương, không phải là Phượng thì Thư Hương đã coi đó là một lời mỉa mai, một lời cay đắng. Nhưng câu đó là Phượng nói, thì cũng an ủi được Thư Hương một phần nào. Phượng hỏi:
– Vậy Thư Hương đã định gì chưa?
– Em chỉ muốn chết!
Thư Hương nói tới cái chết một cách thản nhiên, gần như thân mật. Thì nàng chẳng tìm cái chết một lần rồi là gì? Phượng bỏ tờ báo xuống nhìn Thư Hương bằng một đôi mắt thật xót thương. Khuôn mặt Thư Hương lúc này, màu đen và trắng nổi bật thật rõ rệt. Mái tóc và đôi mắt đen quá, còn khuôn mặt thì trắng bệch như được nặn bằng sáp. Thư Hương tựa lưng vào gối, mặt như được cắt rõ nét in lên tường. Phượng cầm lấy tay Thư Hương mà cảm thấy cái giá lạnh buốt tê.
– Thư Hương đừng nghĩ dại… Nếu mà người con gái nào bị phụ tình, cũng tìm cái chết như Thư Hương, thì trái đất này chắc không còn con gái nữa…
Rồi Phương nói sang chuyện khác:
– Sáng nay, anh Dương với Phượng ghé qua nhà, định đánh thức anh Tâm, dậy đi ăn sáng. Anh chàng ngủ mê. Không thèm thức đậy làm cho anh Dương và Phượng phải đi một mình. Nghe anh Dương nói chuyện, thì tối hôm qua, anh Tâm uống rượu say
Thư Hương lại thở đài:
– Chỉ tại em. Tất cả mọi người, bố em, mẹ em, anh Tâm đều khổ vì em.
Phượng tưởng rằng kéo được Thư Hương ra khỏi câu chuyện đau buồn để nói sang một câu chuyện khác, nhưng không ngờ, cũng vẫn trở lại câu chuyện cũ. Cái buồn đã tới thì khó mà rứt ra cho được. Phượng lại phải an ủi Thư Hương:
– Tại sao Thư Hương cứ tự buộc tội như thế. Thật đúng với câu tục ngữ “thân làm tội đời”…
– Chị Phượng nói đúng. ” Thân làm tội đời ”..
Phượng nghĩ rằng, lúc này, chẳng nên nói thêm một chuyện gì. Cứ nói câu nào, là Thư Hương lại dùng câu nói đó làm một sợi giây, trói buộc lấy cái tình cảnh đau khổ của nàng. Vậy thì cứ im đi, chờ cho Thư Hương nói, hay khóc lên được, chắc rằng Thư Hương sẽ thoải mái bơn. Phượng lại ngồi xuống ghế, nhìn đăm đăm vào khoảng trống trước mặt.
Mọi khi Phượng vẫn là người tài, giải quyết bất cứ một vấn đề khó khăn gì cũng chỉ trong chớp nhoáng. Vây mà tới lần này, sao Phượng lại “bết” quá đến thế?.. Thật là uổng công Dương đã phong cho Phượng, một thứ quân sư quạt mo, chẳng kém gì Gia Cát Lượng… Phượng bối rối, liếc nhìn Thư Hương thật nhanh, và tự cảm thấy hổ thẹn. Phượng đã xếp đặt kế hoạch, khuyên Thư Hương lên Đà Lạt sống trên đó một thời gian, chờ khi nào đẻ xong, lại trở vè sống một cuộc đời như ngàn vạn cuộc đời những người con gái khác…
Rất có thể, Đà Lạt nơi yên tĩnh và sương mù sẽ hợp với Thư Hương, để cho người con gái khốn khổ ấy tìm lại được sự yêu đời. Nhưng Thư Hương đã lắc đầu… Phượng như một người đang đi trên đường bước hụt xuống một cái hố, lúng túng mãi mà chưa rút được bàn chân lên. Bây giờ Phượng phải bắt đầu làm lại. Mà cũng đau cho Phượng là lúc này, không có Dương ở bên cạnh. Phượng cần có Dương mà Dương cũng cần có Phượng.
Tuy rằng nhiều lúc trách Dương, không cho Phượng một phút để suy nghĩ, nhưng nếu có Dưong, bàn tính với Dương vài câu, thì biết đâu một ánh sáng không bừng lên trong lúc nầy, để Phượng có thể giúp được Thư Hương…
Từng tiếng của Thư Hương lọt vào tai Phượng:
– Em đã có ý định rồi. Nếu tất cả mọi người thân của cm, kể cả chị Phượng, kể cả anh Dương, đều không muốn em chết, thì em sẽ sống. Em sẽ sống như mọi người. Em cứ vác cái bụng đi học, rồi chuyện tới đâu hay tới đó…
– Thư Hương nghĩ vậy cũng phải… Cần gì để ý tớỉ miệng lưỡi thiên hạ… Toàn một lũ “mồm chó, vó ngựa”.
Tuy nói thế, nhưng Phượng thấy lòng mình thật xót xa. Nếu thiên hạ chỉ gồm tất cả những người thương yêu mình và những người mình thương yêu, thì dễ xử biết mấy.
Nhưng đôi mắt của con người, nhìn một con người, ít có khi nào mang một chút bao dung. Phượng thở dài… Còn bố, còn mẹ Thư Hương, liệu rằng hai cụ già có chịu đựng được những lời xầm xì, nhỏ to, những lời mỉa mai cay độc?… Phượng nghĩ rằng, để các cụ già phải chịu dựng những điều đó, là một sự tủi cực, sẽ theo ám ảnh lũ con cháu cả một đời.
Một tiếng động nhẹ ngoài cửa… Phượng giật mình nhìn ra. Mẹ Thư Hương bước vào, chiếc áo dài xộc xệch, nhàu nát, gài lộn cả những khuy nút. Mặt bà cụ buồn thảm như đi đưa một đám ma. Phượng tưởng nếu Thư Hương có chết đi, thì mặt bà cụ cũng chẳng buồn thảm đến như thế.
Cụ Phủ mệt nhọc hỏi:
– Chị Phượng tới thăm em đấy à?…
– Thưa bác, vâng ạ!
Bà cụ chậm chạp đi tới giường Thư Hương. Phượng có cảm tưởng như bà cụ lê từng bước, chứ không phảii là bước đi… Bà cụ nắm lấy bàn tay Thư Hương đặt ở ngoài chiếc mền len:
– Con khỏe rồi chứ?
– Thưa bác, Thư Hương như thường rồi. Có 1ẽ bác nên cho Thư Hương về nhà.
Thấy Thư Hương lặng lẽ không trả lời, Phượng phải trả lời dùm cho Thư Hương. Bà cụ òa khóc:
– Bác khổ quá, Phượng ạ. Bác vẫn ăn hiền, ở lành tụng kinh, niệm Phật mà sao trời lại gieo tai họa xuống nhà bác như thế này?…
Những đè nén từ mấy hôm nay, như được dịp ào ra, không có một con đê nào ngăn lại được. Bà cụ kéo vạt áo dài lên, thấm nước mắt. Phượng nhìn sang Thư Hương, thì thấy những thớ thịt trên mặt người con gái ấy giật lên, vầng trán thanh tú chợt nhăn lại, rồi đôi mắt chớp nhanh, hai giọt nước mắt ứa ra chảy dài xuống tóc mai. Thư Hương nói với mẹ:
– Con lạy mẹ, xin mẹ đừng khóc. Thà rằng mẹ đánh con, chửi con, con không khổ bằng nhìn thấy mẹ khóc. Nếu mà mẹ muốn cho con sống với mẹ, xin mẹ đừng khóc. Mỗi lần gặp mẹ, thấy mẹ khóc thì thà rằng con chết đi, để cho mẹ khóc một lần còn hơn…
Trong phòng chỉ có một bà cụ già và hai người con gái. Trong số ba người, hai người đang sụt sùi thì Phượng làm sao giữ được xúc cảm?…
Phượng thấy như có một cái gì ngăn chặn lấy ngực, để phải hít vào phổi những hơi thật dài, và cũng thả ra thật dài. Nếu giây phút này mà còn kéo dài, chắc rằng Phượng cũng mủi lòng, để rồi cùng ứa nước mắt, để cho căn phòng này bỗng nhiên biến thành một thứ “sầu thành”.
Phượng đỡ bà cụ ra ngồi trên ghế:
– Bác cứ yên tâm, rồi đâu sẽ vào đó. Con không tin rằng gia đình chúng ta, gồm những người tốt như hai bác, như anh Tâm, như Thư Hương, mà lại phải chịu những cảnh đen tối mãi.
Bà Phủ lau nước mắt:
– Bác rối trí quá rồi. Phượng nghĩ dùm cho bác một cách giải quyết đi. Mấy hôm nọ có gia đình bác Tham muốn hỏi Thư Hương cho con trai bác ta. Với tình trạng này, bác đã khuyên Thư Hương nhận lời.
Lúc này, Thư Hương thốt ra những lời chán nản:
– Con không muốn lừa đối ai. Mẹ cứ làm như con là một thứ đồ phế thải, cần phải tống khứ ra khỏi gia đình. Thà rằng con chết còn hơn…
– Đấy là mẹ nói vậy, còn quyền quyết định là tùy con. Từ ngày các con lớn, mẹ biết là không còn quyền gì đối với các con nữa rồi…
Thư Hương đau xót nhìn mẹ… Chiếc cây già, lá vàng đã rụng hết, biết rằng không còn bóng mát cho lũ cây còn non. Những cây non đã cứng cáp, đã biết tự vươn lên với mặt trời, dù cho phải chịu những cơn mưa bão thật phũ phàng. Không, mẹ vẫn là bóng mát của cuộc đời chúng con… Cái đau khổ nhất của các con của mẹ, có lẽ chỉ vì mẹ thương yêu các con nhiều quá…
Phượng nói với bà Phủ:
– Cháu thì khuyên Thư Hương đi lên Đàlạt trong ít lâu. Nghỉ học vài tháng hay một năm cũng chẳng sao. Hay có thể xin đổi trường. Ở trên đó ít lâu chắc Thư Hương sẽ vui vẻ hơn. Nhưng Thư Hương lại không chịu.
Phượng nói như vậy vì ngày mà Dương và Phượng xa nhau, Phượng cũng phải lên Đà Lạt một tuần lễ, để cho nỗi buồn lắng xuống thật sâu. Phượng đã đứng rất lâu bên cửa sổ, nhìn xuống thung lũng mỗi buổi chiều, để nhìn sương xuống trùm lấy những ngọn thông mướt lá. Phượng cũng đã lang thang đi trên bờ hồ, suốt dọc theo con đường Tình Ái, đi vào vườn Bích Câu, nhìn kỹ từng cánh hoa mỏng manh, nâng nhẹ từng cánh lá, mọc dài theo lối đi. Muốn có được giấc ngủ ngon, Phượng đã đi bộ và leo lên tận đỉnh đồi, để nhìn về phía trời xa, in hình bóng thánh giá. Phượng đã thắng được nỗi buồn. Lúc trở về Saigon, Phượng đã quên được hết để sống bình thường. Nhưng đấy chỉ là bề ngoài.
Còn bên trong, nỗi buồn lâu lâu vẫn nổi đậy thật mãnh liệt. Mãi cho tới ngày gặp lại Dương…
Bà Phủ hỏi Thư Hương:
– Phượng nghĩ như vậy là phải lắm. Tại sao con lại không chịu?…
– Con không muốn xa mẹ.
– Thì mẹ cũng lên đó với con.
Như một con thú bị dồn tới bước đường cùng, Thư Hương muốn khóc òa lên, muốn gào thét lên. Nhưng nàng chỉ là một đứa con gái yếu đuối. Thư Hương nghẹn ngào, hai tay ôm lấy mặt:
– Con không muốn đi đâu hết. Mẹ đừng bắt con phải làm những điều gì trái với ý con.
Bà Phủ thở đài:
– Thì mẹ vẫn nói, cái đó tùy con.
Nhìn những cảnh này, Phượng muốn đi ra khỏi căn phòng. Thấy bà Phủ có vẻ mệt nhọc, Phượng đứng dậy kéo hai cái ghế vào nhau:
– Bác nằm nghỉ đỡ… Cháu thấy bác mệt mỏi quá.
– Thế Phượng ngồi đâu?
– Cháu ngồi trên giường Thư Hương cũng được…
Thư Hương nằm xích vào tường để có chỗ cho Phượng ngồi, thì cô y tá đã mở cửa bước vào, mỉm cười:
– Có ông Trung úy Dương tới đón cô Phượng…
– Cô nói dùm ông ta lên đây…
Cô y tá vẫn mỉm cười:
– Tôi có mời ông ta, nhưng ông ta không chịu lên, chỉ nhờ nói dùm là cô Phượng có muốn về thì về cùng với ông ta. Còn nếu muốn ở lại thì ông ta về một mình!
Phượng xin phép bà Phủ:
– Bác cho cháu về, chiều cháu sẽ trở lại.
Rồi Phượng nắm lấy tay Thư Hương:
– Cứ nằm yên nghỉ. Thế nào Phượng sẽ nghĩ cho Thư Hương một kế vẹn toàn…
– Nói đến “vẹn toàn” là chị Phượng hơi tham lam đấy nhé.
Phượng quả quyết:
– Thư Hương cứ yên chí. Phượng có sẵn ý định đây rồi, nhưng chưa nói cho Thư Hương biết vội, vì còn bàn tính với anh Tâm, anh Dương. Trong lúc chờ đợi, Phượng chỉ muốn Thư Hương hãy… tập cười. Phải cười cho nhiều.
Giọng Phượng thật thiết tha:
– Trước khi Phượng về, Phượng muốn được nhìn thấy cái cười của Thư Hương, rồi mới về được…
Để chiều lòng Phượng, Thư Hương nở một nụ cười như mếu. Phượng cười theo thật tươi:
– Như vậy được rồi… Tuy mới tập, nhưng như thế cũng đã khá lắm. Phượng về nhé. Chào bác ạ…
Phượng đi ra khỏi căn phòng bệnh viện. Gót giầy của Phượng lóc cóc gõ xuống nền cạch, dọc theo một hành lang thật dài và bóng loáng.
Nhìn xuống dưới chân, Phượng nhìn thấy cả bóng mình hiện lên lờ mờ. Rồi từng bậc thang đưa Phượng vào cái nắng chói chang đầy bụi của trời Saigon.
Dương đón Phượng nơi cổng bệnh viện:
– Thư Hương đã khá chưa?…
Phượng bĩu môi:
– Được anh hỏi thăm tới, chắc có người đã xanh cỏ rồi cũng nên.
Dương lo lắng.
– Có sao không?…
Phượng cười lớn:
– Bây giờ chỉ làm sao cho cô nàng cười lên được là không lo gì nữa.
– Thế mà làm cho anh lo sợ quá.
Phượng nhìn vào mặt Dương, thấy có vài chỗ tím bầm. Dương mang một chiếc kính đen thật lớn. Dương ít khi mang kính, nhất là những lúc đứng nói chuyện. Phượng hỏi:
– Mặt anh làm sao thế
– Không sao, anh té xe, trầy sơ một chút…
Phượng nhìn chiếc xe, hờn dỗi:
– Anh nói dối Phượng rồi. Xe không có móp, tay anh không sao, mà mặt như thế kia đúng là anh đi đánh lộn rồi… Phải khai thật cho Phương biết, không có Phượng nghỉ anh ra, không chơi với anh nữa…
Dương đạp cho máy xe nổ:
– Phượng thông minh quá. Đúng rồi, anh mới đập một thằng gần chết. Anh chỉ bị trầy sơ sơ, nhưng thằng đó thì ít nhất nửa tháng mới nhai nổi cơm…
– Nhưng cái người mà anh đập là ai vậy?
Dương rú ga cho xe vọt đi. Phượng ngồi sau, lao đao gần té rồi Dương quát lên:
– Thằng Hoạt!
Nghe Dương nói vậy Phượng bàng hoàng gần muốn té xuống khỏi yên xe. Nàng không ngờ phản ứng của Dương lại đến thế. Nhưng nếu xét kỹ thì Hoạt đáng bị ăn đòn lắm. Riêng cái vụ làm cho Thư Hương phải tự tử, thì Hoạt đã đáng đánh đến một ngàn lần.
– Anh phải kể cho Phượng nghe đầu đuôi cầu chuyện.
– Kể luôn bây giờ?
– Ừ, ngay bây giờ.
Dương cười lớn.
– Thôi đi, cô nàng ơi… Ngồi trên xe Vespa mà nói chuyện thì làm sao hấp dẫn được. Hãy để sau lúc ăn cơm, lúc uống cà-phê, anh sẽ kể, coi như một món “đét-se”.
– Một món “đét-se” rất khó nuốt?…
– Cái đó còn tùy ở trình độ thưởng ngoạn của thực khách.
Dương phóng xe chạy ào ào trong thành phố. Chàng lách qua những hàng xe đậu dài chờ nơi ngã tư đèn xanh, đèn đỏ. Nhiều lần Phượng phải hét lên bắt Dương chạy chậm lại.
Dương vẫn phóng xe để cho tóc của Phượng bay phất phới trong gió lộng. Sau cùng, Phượng phải dọa:
– Anh mà chạy mau như thế này nữa là Phượng nhảy xuống đấy…
– Nhảy xuống thì gãy cẳng.
– Phượng chờ tới ngã tư, lúc anh ngừng xe lại…
– Ừ, thôi, nếu vậy thì anh chịu thua.
Dương cho xe chạy chậm lại. Lúc này là lúc mà Phượng muốn gợi cho Dương kể những chuyện đã xảy ra giữa Dương và Hoạt…
Nhưng Dương thật kín tiếng. “Đã bảo chờ tới lúc ăn cơm xong mà”. Tính của Phượng vốn tò mò. Chuyện gì mà không được biết ngay thì ấm ức rất khó chịu. Dương lái xe vào con ngõ hẻm, dọc theo đường xe lửa. Bên cửa ngoài không có khóa. Dương la lên:
– Trời ơi, cái thằng khốn nạn nó vẫn còn ngủ thì có khủng khiếp không cơ chứ.
Chàng bước lên cầu thang trước. Phượng bước lên theo. Mở cửa vào trong nhà, vẫn thấy Tâm nằm trên giường, đang ngủ ngon lành. Dương đập mạnh lên người Tâm:
– Dậy đi mầy!…
Tâm ngồi dậy mỏi mệt, nhìn Phượng, cười bâng quơ:
– Mấy giờ rồi?…
– Hơn mười hai giờ rồi đấy, thằng con trai ạ…
Tâm đưa chân tìm đôi dép:
– Thế là đỡ được một bữa ăn sáng. Nhưng này Dương, mầy đã xin phép cho tao chưa?…
Dương cởi áo treo lên mắc:
– Kể như xong rồi!
Chờ cho Tâm xuống nhà, Dương và Phượng bàn nhau về bữa ăn trưa nay. Theo như Phượng, thì cả ba, nên sang nhà Phượng, ăn cơm ở bên đó. Dương không bằng lòng, vì chàng biết quá rõ tài làm bếp và lười đến chảy thây ra của chị em nhà Phượng. Sang bên đó nhìn thấy chị Yến chạy nháo nhào ra chợ, mua thịt quay, hay mua giò chả thì thật vô lý…
Chi bằng để Phượng về nhà, lấy xe “xô-lếch” chạy đi mua vài ba thứ về, ăn qua loa cũng xong. Như buổi trưa hôm qua. Phượng vẽ một tương lai thật đẹp:
– Ít nữa, Phượng sẽ phải có một cái bếp thật sạch, bộ đồ làm bếp thật bóng loáng, đũa bát phải không dính một chút bụi. Ngày nào, Phượng cũng bắt anh phải ăn cơm ở nhà.
Dương cười gật đầu:
– Để ít lâu nữa rồi mới sửa soạn được. Còn bây giờ hãy tạm đi mượn cũng đủ lịch sự chán…
Phượng đi xuống cầu thang. Trước khi đi dặn dò:
– Anh phải đợi Phượng về mới được kể chuyện sáng nay của anh đấy.
Còn lại một mình Dương, chàng nghĩ tới những việc vừa xảy ra sáng nay. Sau khi đưa Phượng vào bệnh viện thăm Thư Hương chàng phóng xe vào sở.
Rất may cho Dương là ngay từ ngày mới về, chàng đã tỏ ý xin đi Phi Đoàn, nên không có ai tìm cách đẩy chàng đi để chiếm chỗ, để được vững chữ thọ.. Vào đến sở, chàng bốc “tê-lê-phôn” gọi lên Biên Hòa, xin phép cho Tâm nghỉ. Anh Tư đã hỏi thăm rất ân cần, hỏi thăm cả Dương. Khi được Dương ngỏ ý, trong lúc đã nói xong việc của Tâm, là muốn về Phi Đoàn đi bay lạị, anh Tư có vẻ chú ý, và hứa sẽ có can thiệp. Dương thấy những người đã sống chết cùng nhau, thật thương yêu nhau.
Công việc ở bàn giấy, làm cho chàng đã chán nản quá rồi. Có nhiều lúc, chàng có cảm tưởng rằng dẹp bớt đi một nửa số nhân viên tại đây, công việc vẫn cứ như thường. Có nhiều lúc cứ ngồi vêu ra, hốc hác ra cả ngày mà chẳng có công việc gì để làm. Nhưng nếu vắng mặt thì không thiếu gì những kẻ tâu lên với xếp, để rồi thỉnh thoảng lại phải nghe những lài mát mẻ, rất khó chịu.
Lúc đặt điện thoại xuống, Dương đã thật bâng khuâng, nhớ tiếc. Chàng nhớ thời ở nơi vườn cao su xứ Bưởi. Nhớ hết, nhớ tất cả. Nhớ những khuôn mặt những người đã chết. Chàng đã ở nơi đó, từ khi chỉ có phi đạo bằng đá đỏ, và một phi đạo lót bằng vỉ sắt mà mỗi khi trời mưa thì đường bay trơn trợt phải cố gắng lắm mới giữ được phi cơ chạy thẳng mỗi khi hạ cánh. Nhớ cả tiếng tắc kè kêu mỗi đêm khuya khó ngủ và chàng tự nhủ thầm là phải trở về nơi đó.
Bàn giấy này với từng chồng giấy tờ, không phải là nơi của chàng. Trời xanh, có những đám mây trắng trôi lững lờ kia, mới là thế giới của chàng. Về mùa mưa khoảng đất phi trường lạnh lùng khoác áo thầy tu, chiếc ống gió rũ ướt đẫm nước, mới thật là nơi mà chàng sống cho những ngày còn mặc trên người ba thước ka-ki.
Sau khi dặn người bạn làm chung phòng, cố gắng che dấu cho sự vắng mặt của chàng sáng hôm nay, chàng lại phóng xe đi.
Chàng đi tìm Hoạt… Chàng biết được địa chỉ nhà Hoạt vì một sự tình cờ, có một lần đi qua một ngôi nhà nơi khu Bàn Cờ, chàng nghe tiếng gọi tên chàng.. Người ấy là Hoạt, và Hoạt đã mời chàng vào nhà chơi. Nhưng Dương đã thoái thác là mắc bận, và hứa là đã biết nhà rồi thì để hôm khác. Còn nhiều dịp để tới mà… Cũng như hôm nay, Dương tới, nhưng không phải vì nhớ lời hứa…
Một cô con gái ra mở cửa.
– Cho tôi được hỏi anh Hoạt…
Cô con gái dịu dàng:
– Thưa anh, anh tôi không có ở nhà. Vì là năm cuối, cần chỗ tỉnh mịch để học thi, nên anh tôi có xin phép mượn một phòng trên ” bin-đinh ” để học. Anh có cần gặp lắm không, để tôi ghi địa chỉ cho anh.
Dương nói ngay:
– Tôi cần gặp lắm.
Người con gái vào trong nhà lấy mảnh giấy ghi địa chỉ của Hoạt cho Dương. Ra khỏi căn nhà ấy, Dương thấy chứa chan hy vọng. Nó cũng có em gái, chắc hẳn nó phải thương em. Mình sẽ cố thuyết phục nó trở về với Thư Hựơng, làm đám cưới với Thư Hương, để cứu vãn danh dự của cả một gia đình đã bị nó làm cho tan nát.
Với một hy vọng tràn trề như thế. Dương đi tìm Hoạt và không thấy mệt khi phải leo lên mấy chục bậc thang.
Nhưng Dương đã lầm. Tới trước cửa phòng của Hoạt chàng nghe thấy tiếng nhạc thật nhẹ, lẫn với tiếng cười của một người con gái. Khi chàng gõ cửa thì tiếng cười đó im bặt. Một phút sau mới nhìn thấy chiếc đầu của Hoạt thò ra ngoài cửa.
– A, Dương vào đây!…
Dương đi vào, nhìn thấy một người con gái cũng khá đẹp, đang ngồi trên ghế. Chàng cúi đầu chào rất lịch sự. Người con gái trố mắt nhìn chàng. Hoạt giới thiệu.
– Cô Lý, sinh viên Văn Khoa. Anh Dương, bạn anh…
Dương ngọt ngào:
<