Chương 22
SÁNG THỨ BẢY, 9 THÁNG BẢY NĂM 1853, bình minh trong lành ló ra trên mặt vịnh Yedo. Những tia nắng đầu tiên của mặt trời đang lên đã xua tan những dải sương cuối cùng còn vương trên mặt vịnh. Mặt nước phẳng lặng không hề gợn sóng của vịnh phản chiếu lại sắc nét hơn qua bất cứ tấm gương nào những đường nét của bốn con tàu chiến Mỹ đậu sát cạnh nhau với những khẩu đại bác hạng nặng chĩa vào bờ. Trong ánh sáng ban mai, những toán lính gác và lính trinh sát vẫn quan sát từ suốt đêm đến giờ lần đầu tiên mới nhận rõ vẻ huy hoàng của dải bờ biển mà từ trước họ chỉ căng thẳng chờ đợi trong một cuộc tấn công.
Ngang với đường chân trời phía đông cắt ngang bởi mặt nước, những tia nắng ấm buổi rạng đông tỏa sáng trên những vách đá xám nhô ra trên bờ biển phía tây của vịnh. Phía bên kia, những dãy đồi xanh tươi nhấp nhô trải dài trên dải đồng bằng, đây đó được tô điểm thêm bởi những dòng sông chảy rất xiết hoặc những con suối. Cao hơn nữa, về phía kinh đô những đồng bằng ven biển tương tự như vậy được cày cấy đông đúc hơn, và từ trên tàu người ta có thể nhìn thấy các thành phố và các làng mạc trải ra cả hai phía bên bờ vịnh.
Bờ phía đông nhiều núi non hơn có một vẻ hoang dại và xa lạ, nhưng trong không khí trong như thuỷ tinh của ban mai mỗi chi tiết của khung cảnh hiện lên thật sắc nét. Một vài ngôi nhà nhỏ làm bằng giấy và gỗ có những cái mái trông như hình kim tự tháp. Có cái hình vuông, có cái có mái hình trông tương đối quen thuộc với những người Mỹ hơn. Quanh những cửa sông và cửa vịnh, thuyền mành đánh cá với những chiếc buồm kiểu cánh dơi đậu neo lại thành từng nhóm. Trong buổi rạng đông yên tĩnh một hoà âm hiếm hoi của thiên nhiên dường như vẫn tồn tại trong khung cảnh với những dấu vết rõ ràng về con người sinh sống trên đó.
Samuel Armstrong lặng lẽ xuất hiện bên cạnh viên chuẩn uý trẻ tuổi đứng gác ở chỗ thang lên:
- Lúc này chúng ta đang đứng ở cửa ngõ một đấtnước cũng đẹp ngang với sự nguy hiểm của nó. Buổi sáng của " đất nước mặt trời mọc" này dường như đang toả hết cỡ ánh hào quang.
Mái tóc muối tiêu của nhà truyền giáo vẫn còn bù xù vi mới ngủ dậy. Ông nhấp nháy đôi mắt và vẫn ngáp trước khi nâng chiếc kính viễn vọng lên để quan sát bờ biển một cách chi tiết. Viên chuẩn uý có gương mặt trẻ hơn không hề tỏ ra một dấu hiệu mệt mỏi nào, thở hắt ra vẻ khoan khoái. Anh ta vươn hai bả vai cuồn cuộn những bắp thịt và gài thanh đoản kiếm vào thắt lưng để đứng được thoải mái hơn:
- Ngài Armstrong, tôi thật vui mừng vì thấy trời đã sáng. Một đêm thật là dài.
Những tiếng chiêng trông trận vẫn còn nghe rõ. Mặc dầu Armstrong quan sát rất kỹ “bằng chiếc kính viễn vọng, nhưng ông vẫn không thể xác định được những tiếng động đó xuất phát từ đâu. Dọc những bãi biển gần nhất ông có thể nhìn thấy từng đoàn quân dài đang hành quân trên mép nước, mang theo dáo mác và những chiếc cung dài. Họ hành quân thành từng nhóm, xuất hiện và di chuyển một cách có mục đích giữa các pháo đài trên cao hơn. Những phân đội khác, được xếp thành hàng ngũ chỉnh tề rải rác dọc bãi biển và các vách đá vẫn đang đầy cảnh giác nhìn về phía những con tàu chiến. Những con thuyền cảnh giới hôm qua bao vây xung quanh hạm đội vẫn còn chưa cập bến vẫn tiếp tục theo dõi mấy con tàu chiến với khoảng cách ba hay bốn trăm sải.
Chuẩn uý Harris nói tiếp, giọng rất khẽ để không ai có thể nghe thấy:
- Tôi nghe người ra đồn là một người của chúng ta đã trốn lên bờ đêm qua. Ngài Armstrong, ngài có nghe thấy gì về chuyện đó không?
Nhà truyền giáo nhìn viên sĩ quan tập sự vẻ khó hiểu, rồi lắc đầu:
- Không, Harris, tôi không nghe thấy gì như thế
Sau khi xem xét kỹ lưỡng lần lượt từng pháo đài phủ vải ngụy trang, nhà truyền giáo chậm rãi nâng kính để kiểm tra những dãy đồi rậm rạp trải dài suốt bờ biển phía đông. Đường viền xanh mờ của dãy núi, một màu xanh ngút mắt tương phản mạnh mẽ với những nếp đá trơ trụi nhấp nhô trên hai bên vùng ngoại ô Uraga. Tít cao trên bầu trời phía tây, Armstrong đột nhiên nhận ra núi Fuji cao ngất với vẻ ngạo nghễ tạo ra một cảnh thật đặc biệt. Trong ánh hào quang của bình minh, tâm áo khoác bằng tuyết trắng xoá bao phủ trên sườn núi phía đông toả ánh sáng chói mắt như kim cương. Qua cặp kính viễn vọng, những vết nứt khía sâu trên sườn núi bởi những kiến tạo cổ xưa, bỗng đột ngột nhìn thấy rất rõ.
Nhà truyền giáo thốt lên và hạ thấp kính viễn vọng xuống:
- Ngọn núi thiêng của họ quả thật là tuyệt vời. Như là một vương miện sáng chói dành cho một buổi sáng vô song...
Đúng lúc đó một thuyền buồm được kéo bởi tàu Susquehanna đập mạnh vào mạn trước của con tàu ầm một tiếng. Móc neo kêu rít lên và khi Armstrong bước đến để nhìn sang, ông nhìn thấy đó là một chiếc thuyền chiến với một đội thuỷ thủ mang đầy vũ khí gồm cabin, súng ngắn và đoản kiếm. Một khẩu Canon có nòng bằng đồng ngạo nghễ đứng ở mũi thuyền và những tiếng hô khàn khàn cổ võ của những người đứng trên tàu ồ lên khi con thuyền được hạ thuỷ xong. Những tay chèo lập tức ra sức bơi thuyền về phía bờ, và những tiếng hô vang dậy khắp vịnh khiến Armstrong sực hiểu ra có nhiều thuyền chiến khác cũng đang được cùng lúc thả xuống từ các con tàu Plymouth, Saratoga và Mississippi. Chỉ trong một thời gian rất ngắn một hạm đội nhỏ đầy vẻ hung hăng đã được thiết lập và lừ lừ tiến vào bờ.
Viên chuẩn uý hỏi bằng một giọng khẩn cấp:
- Những chiếc thuyền kia để làm gì ngài Armstrong? Chẳng lẽ chúng ta đã bắt đầu một cuộc tấn công ư?
Nhà truyền giáo trả lời vẻ đã hiểu và liếc nhìn về phía khoang đô đốc:
- Tôi không biết. Nhưng tôi thấy Thiếu úy Rice đang đứng cạnh lan can, vì thế tôi phải lên đó để tìm hiểu xem sao.
Ông tháo kính viễn vọng và bỏ nó vào túi rồi vội vã leo lên một chiếc thang gần đó. Khi lên đến boong đô đốc ông thấy Rice đang theo dõi những chiếc thuyền bằng kính viễn vọng. Sau khi chào hỏi nhau, Armstrong đứng cạnh viên sĩ quan và im lặng nhìn theo những chiếc thuyền vẫn đang tiếp tục tiến vững chắc vào bờ.
Cuối cùng người phiên dịch hỏi bằng giọng lo lắng:
- Việc đưa các tàu vào gần hoả lực của chúng trên bờ biển có nguy hiểm quá không?
Viên thiếu uý bình tĩnh trả lời:
- Cũng có thể, Ngài Armstrong. Nhưng họ làm theo lệnh của Đô đốc Perry. Ngài có thấy họ đang làm gì không?
Lúc đó Armstrong mới nhận ra là có một thuỷ thủ đang đứng lên trên mũi thuyền. Cứ mỗi sải, người thuỷ thủ đó lại khua mái chèo vào nước để đo chiều sâu của nước, trong khi những thuỷ thủ khác ghi chép kết quả vào một biểu đồ trải rộng trên đầu gối. Cứ mỗi sải, chiếc thuyền lại tiến đến gần hơn tới những dòng người Nhật đang theo dõi từ phía bờ.
- Thiếu uý, điều này rất dễ gây ra những gây hấn. Những người trên bờ kia nhìn tôi tựa như họ đã sẵn sàng chiến tranh. Một sự liều lĩnh như vậy có thật đáng giá không?
Rice trả lời ngắn gọn:
- Đô đốc đã quyết định gây áp lực. Đó chỉ là một chiến thuật rất đơn giản.
- Chính xác là ông định sẽ đạt được điều gì?
Rice tiếp tục quan sát sự di chuyển của người Nhật qua ống kính viễn vọng:
- Chúng ta đã thông báo với người Nhật là hôm nay chúng ta sẽ đổ bộ một đội quân lớn để chuyển giao bức thư của Tổng thống cho Hoàng đế của họ bằng vũ lực nếu cần thiết. Vì vậy Đô đốc muốn chúng nhìn thấy chúng ta kiểm tra chiều sâu của toàn bộ dọc bờ biển. Bằng cách đó chúng sẽ biết rằng chúng ta thật sự nghiêm túc chuẩn bị đưa hạm đội tiến sâu thêm vào vịnh để uy hiếp thủ đô của bọn chúng.
Armstrong đăm chiêu vuốt cằm:
- Tôi thừa nhận đó là một đòn mạnh. Nhưng theo ý tôi thì vô cùng phiêu lưu...
Một tiếng hò reo vang lên từ lỗ châu mai phía trên cắt ngang câu chuyện của họ làm cả hai người đều vội ngước nhìn lên. Bóng các thuỷ thủ đang chỉ trỏ và ra hiệu về phía một con thuyền Nhật lẻ loi đang lướt nhanh về phía mũi tàu Susquehanna. Khi quay lại để nhìn kỹ hơn cả hai người Armstrong và Harris đều nhìn thấy chiếc thuyền chở đầy ắp những thường dân Nhật Bản. Tất cả đều nhìn chằm chằm về phía con tàu đô đốc nhưng không hề có gì tỏ ra họ mang theo vũ khí hoặc mặc bất cứ loại đồng phục nào. Armstrong thốt lên và chĩa kính viễn vọng về phía con thuyền đang đến gần:
- Thật là tuyệt vời. Có vẻ như trên thuyền toàn là những nghệ sĩ. Có vẻ như họ đang chuẩn bị vẽ một cái gì đó ngay tại chỗ.
Khi chiếc thuyền đến gần hơn thì không thể lầm lẫn là tất cả những người trên thuyền đang làm việc một cách khẩn trương để ghi chép lại tỉ mỉ đến từng chi tiết của con tàu chiến: những cột buồm, buồm, bánh lái, ống khói, cờ hiệu, thuỷ thủ trên đó và cả những khẩu đại bác nặng và nhẹ trên đó.
Thiếu uý Rice vội vã ra hiệu gọi một viên chuẩn uý đến và ra lệnh cho anh ta lên boong chính mang theo mệnh lệnh cảnh cáo chiếc thuyền và yêu cầu nó phải dừng ngay hành động khiêu khích. Anh nói thêm, nếu cần thiết thì phân đội đang trên biển có thể bắn một phát chỉ thiên. Chỉ một phút sau chiếc thuyền Nhật đã bắt đầu rút lui, nhưng những mái đầu đen đen của các hoạ sĩ trên đó vẫn lúi húi căng thẳng và tiếp tục công việc của mình. Họ tiếp tục vẽ và pha màu bằng một vẻ lạnh lùng kiềm chế.
Rice run run nói trong khi nhìn chiếc thuyền đang rút lui về bờ:
- Rõ ràng là chúng ta đang đối đầu với một dân tộc tỉ mỉ. Họ không chỉ là một kẻ thù không thể khuất phục mà còn có vẻ là một dân tộc thật hiếu học.
Armstrong gật đầu tán thành, rồi một ý nghĩ khác chợt đến khiến ông nhăn mặt:
- Thiếu uý, tôi vừa nghe nói rằng có tin đồn là hình như chúng ta bị lạc mất một người đêm qua có phải không? Nghe có vẻ thật rủi ro quá.
- Ngài nghe tin đồn ấy ở đâu, ngài Armstrong?
- Harris nghe thấy.
Rice mím chặt môi và nhìn vào bờ. Sự im lặng kéo dài lê thê khoảng một phút hay hơn. Cuối cùng anh nói:
- Tôi muốn ngài sẽ giữ bí mật tuyệt đối những điều tôi sắp nói với ngài. Dù cho tin đồn đang lan tràn, nhưng các thuỷ thủ không hề được thông báo tin này. Ngài cần phải biết bởi vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nhiệm vụ của ngài.
Nhà truyền giáo trả lời, mặt ông đột nhiên căng thẳng:
- Dĩ nhiên rồi. Ai đã biến mất vậy?
- Thiếu uý Robert Eden, tôi nghĩ là ngài khá quen thuộc.
- Lạy Chúa tôi. Tôi khó mà tin được điều đó.
Rice tức giận nói:
- Thiếu uý Eden không đến nhận bàn giao ca trực lúc khoảng hai giờ trước khi trời sáng. Vì thế tôi ra lệnh ngay lập tức lục soát toàn bộ con tàu. Tình cờ người ta tìm thấy mũ và quân phục của anh ta giấu trong một đống vải buồm cũ trong khu vực kho bên dưới hầm hoa tiêu.
Armstrong thở gấp:
- May ra thì Chúa che chở cho anh ta. Làm sao mà anh ta lại có thể làm thế được?
Rice tiếp tục nói, không để ý lời cắt ngang đó:
- Người thuỷ thủ bị đắm tàu vẫn ở trong căn hầm dưới buồng hoa tiêu cũng không thấy đâu. Và trong cabin của thiếu uý Eden người ta không tìm thấy khẩu piston của anh ta.
Armstrong hồ nghi:
- Vậy là anh ta đã đem theo vũ khí và leo xuống khỏi mạn tàu, mang theo người thuỷ thủ đó để dẫn đường. Nhân danh thiên đường nào mà anh ta làm như thế kia chứ?
- Sau lúc nửa đêm một lúc, thiếu uý Eden có đến cabin tôi và đề nghị nên cử một trinh sát bí mật vào do thám trên bờ. Anh ta đã từng chui vào hàng ngũ của kẻ thù trong chiến tranh với Mexico, và tin rằng một nhiệm vụ như thế có thể tránh được đổ máu - Rice dừng lại một lúc và thở dài - Sau đó anh ta xung phong bơi vào bờ một mình cùng với người thuỷ thủ bị đắm tàu.
Armstrong nói, trán ông ta cau lại:
- Hầu như là chắc chắn anh ta sẽ bị giết.
Ông quay lại nhìn về phía các pháo đài và những dãy núi rậm rì trải dài vào sâu trong đất liền hút tầm mắt. Những tiếng trống thì thụp cùng với tiếng cồng lại vang lên to hơn khi mây chiếc thuyền Mỹ vào gần bãi biển. Từng đoàn chiến binh Nhật bắt đầu hiện ra rõ hơn ngoằn ngoèo từ trên núi kéo xuống. Ông nói tiếp:
- Khó mà tin rằng anh ta lại dại dột đến thế. Có thể đó sẽ là đơn phương bắt đầu một cuộc chiến tranh.
Rice nặng nề nói:
- Có thể anh ta đã bắt đầu rồi.
- Đô đốc Perry có biết việc này không?
- Tôi đã thông báo cho sĩ quan chỉ huy của tàu đô đốc ngay khi tin chắc là Thiếu uý Eden không còn ở trên tàu nữa. Ông ta đã đi ngay lập tức để báo cáo cho đô đốc.
Nhà truyền giáo nhắm mắt lại nghĩ ngợi:
- Tôi cần phải nghĩ xem đô đốc nghĩ những gì. Sự tức giận này có thể làm hại đến toàn bộ cuộc viễn chinh.
Rice lắc đầu:
- Cơn tức giận chỉ làm Đô đốc Matthew Calbraith Perry chệch khỏi sứ mệnh nặng nề của mình một giây thôi. Sẽ không có việc gì được phép làm cản trở con đường. Ông quyết định ngay lập tức - và rất đơn giản: Thiếu uý Eden chính thức bị khai trừ.
Armstrong ngạc nhiên nhướng mày:
- Như thế nào?
- Đô đốc đã ra lệnh rằng khi những người Nhật lên tàu lần tới, ông sẽ nói chuyện riêng với họ vào một thời điểm thích hợp nào đó - Rice dừng lại một lúc rồi hạ giọng - Sau khi cuộc đàm phán chính thức đã kết thúc, ông sẽ kéo người phiên dịch của họ ra một chỗ và giải thích một cách không chính thức cho ông ta rằng một trong các sĩ quan của chúng ta đã không tuân lệnh và đã rời tàu mà không được bất cứ một sự cho phép nào. Ông sẽ nói rằng chúng ta vô cùng lấy làm tiếc về hành động ngu ngốc đó và nhờ họ giúp đỡ để tìm ra anh ta và đưa về tàu càng sớm càng tốt. Nhưng ông cũng phải giải thích thêm là nếu không có sự phản kháng nào đối với họ. Và ông cũng cho họ biết rằng một khi bị bắt lại lên tàu, anh ta sẽ bị nhốt như một kẻ phản nghịch.
Armstrong khẽ huýt một tiếng sáo dài:
- Thê còn người thuỷ thủ bị đắm tàu bất hạnh của chúng ta thì thế nào?
- Ông sẽ giải thích với họ rằng việc chúng ta đem ông ta về quê hoàn toàn chỉ là một hành động nhân đạo và ông ta cũng đã rời tàu này mà không được phép. Ông cũng nói thêm là chúng ta chỉ mong muốn đưa ông ta trở về nhà an toàn. Nhưng trong hoàn cảnh ông ta đã không tuân theo mệnh lệnh của chúng ta thì số phận của ông ta giờ đây hoàn toàn nằm trong tay phía họ - Rice lại dừng lại và kiên nghị nhìn vào mắt Armstrong - Tất cả những điểm đó đã hoàn toàn rõ ràng chưa?
Armstrong chậm rãi gật đầu:
- Rối, thưa thiếu uý, anh đang nói rằng Robert Eden và Sentaro bây giờ đã thật sự thuộc về họ.
Rice nói một cách mãnh liệt:
- Ông có thể cảm thấy quyết định này là khốc liệt. Nhưng đừng nghĩ rằng chỉ vì tôi là người truyền đạt lại mệnh lệnh, tôi cũng cần thiết phải tán thành những mệnh lệnh đó. Robert Eden là một người bạn tốt của tôi...
Armstrong phác một cử chỉ:
- Điều đó thật sự là đáng tiếc - nhưng có lẽ chẳng có lựa chọn nào khác. Hành động của Eden thật là bướng bỉnh.
Rice nói:
- Đêm qua tôi đã doạ là sẽ nhốt cả hai người bọn họ vào một chỗ. Tôi rất tiếc là đã không làm như vậy.
Nhà truyền giáo nói bằng giọng hoà giải:
- Thiếu uý, đừng tự buộc tội mình. Anh đã không hề biết. Bây giờ chẳng còn thể làm gi khác ngoài việc cầu nguyện cho bọn họ - Và có thể chúng ta cũng cần phải cầu nguyện cho chính chúng ta bởi vì mọi việc xem ra...
Armstrong lại rút chiếc kính viễn vọng ra và chĩa về phía đội thuyền nhẹ của Mỹ đang tiếp tục lướt vào bờ. Ông nhìn thấy nhiều đoàn quân mói mặc quần áo đỏ đang di chuyển rất nhanh ra bờ biển, hướng về phía những chiếc thuyền Mỹ. Một số trong họ mang những băng vải màu sắc rực rỡ dựng rải rác trên biển, và những cấp chỉ huy đã bắt đầu cho quân lính trèo lên những chiếc thuyền đã được sẵn sàng kéo xuống bờ nước.
Armstrong thở dài:
- Có vẻ như bọn họ định chặn chúng ta lại. Sẽ khó mà tránh được một cuộc đụng độ.
Trong khi họ quan sát, những chiếc thuyền Nhật đã hình thành xong đội ngũ chỉnh tề và tiến lên cắt ngang đội hình của các thuyền nhẹ Mỹ. Những thuyền khác ngay sau khi vừa rời khỏi bờ bắt đầu rải ra khắp các hướng khác nhau để có thể bao vây thuyền Mỹ từ mọi phía. Vừa phát tín hiệu nhanh và rõ ràng đến chỗ các thuyền cảnh giới đầu tiên đến gần những thuyền Mỹ, chúng vừa khéo léo vượt lên một cách đĩnh đạc và chắc chắn, cho thấy trên đó là những chiến binh điêu luyện và dũng cảm.
Rice lầu bầu, vẫn nhìn chăm chăm qua ống kính:
- Ít nhất thì điều này cũng cho chúng ta một cơ hội để kiểm tra quyết định của mình. Các sĩ quan trên các thuyền nhẹ của chúng ta đã được lệnh là không được chùn bước.
Đúng lúc đó các sĩ quan trên bôn con thuyền nhẹ đều cùng một lúc hô to mệnh lệnh làm rung chuyển cả bầu không khí đang im lặng trên mặt nước. Để đáp lại, các thuỷ thủ Mỹ cúi rạp trên các bơi chèo và cầm các khẩu cacbin của họ lên. Bằng những động tác điêu luyện, họ điều chỉnh mũi súng sẵn sàng trên giá.
Im lặng trở lại trên mặt vịnh trong một hay hai giây ngắn ngủi trước khi một loạt mệnh lệnh mới vang lên, tiếp đó là những tiếng động sắc gọn khi các thuỷ thủ Mỹ đồng loạt lắp lưỡi lê vào súng. Đối với những thuyền Nhật vây quanh đó sát sạt thì những lưỡi lê sáng loáng loé lên giống như những chiếc gương nhỏ dưới ánh mặt trời.
Armstrong hỏi, vẫn dí sát chiếc kính viễn vọng vào mắt:
- Mệnh lệnh cho các sĩ quan trên thuyền đó là gì? Họ sẽ đi xa đến đâu?
Rice lầu bầu:
- Họ được lệnh sẽ tiến sâu vào vịnh thêm bốn dặm. Các mệnh lệnh sẽ được hô to suốt dọc đường, và họ sẽ chỉ quay về khi nào có pháo hiệu bắn ra từ tàu đô đốc này.
Chiếc thuyền chỉ huy của toán thuyền nhẹ lại đi chậm lại, mũi hướng về phía đội thuyền Nhật đang chắn ngang phía trước. Lúc này chỉ có một nửa số thuỷ thủ vẫn chèo, những người còn lại sẵn sàng bên những khẩu cacbin. Khi chiếc thuyền nhẹ đến gần, cả một rừng dáo bỗng tua tủa chĩa ra từ những chiếc thuyền Nhật, và Armstrong hít vào một hơi thật sâu nhìn sự đụng độ sắp xảy ra. Ông thở hổn hển:
- Chúng ta cần một phép màu. Đảm bảo với Chúa là chúng ta cần một phép màu!
Mũi chiếc thuyền nhẹ do tàu Susquehanna phóng xuống đã bắt đầu chạm vào mạn của một chiếc thuyền Nhật làm dấy lên những tiếng kêu giận dữ từ đó. Họ chĩa dáo ra một cách giận dữ hơn, để đáp lại hành động đó các thuỷ thủ Mỹ bèn vác súng lên vai. Những tiếng hò hét từ các thuyền Nhật vang lên to hơn và bằng nhưng cử chỉ tức giận họ ra hiệu rằng các thuyền Mỹ phải lập tức quay lại. Nhưng viên chỉ huy tốp thuyền Mỹ lúc này đang đứng chống nạnh ờ phía mũi thuyền vẫn tiếp tục ra lệnh cho các thuỷ thủ tiến lên và nghiêng thuyền một cách tài nghệ, anh ta đã lái chiếc thuyền của mình lách qua được hàng rào phòng vệ của Nhật.
Những chiếc thuyền phía sau nhanh chóng lao theo và tất cả các thuyền Mỹ lại tiếp tục tiến về phía trước. Rít lên giận dữ, các thuyền Nhật quay mũi và bắt đầu đuổi theo họ. Từ trong bờ thêm nhiều thuyền nữa được phóng ra và một đợt sóng mới những thuỷ đội nhỏ của Nhật lại được trải ra để làm thành một hàng phòng vệ mới. Giữa đám đông trùng trùng điệp điệp những thuỷ đội của Nhật, bây giờ từ trên boong tàu Susquehanna rất khó nhìn thấy rõ những chiếc thuyền nhẹ của Mỹ, Armstrong lắc đầu lo lắng nói bằng giọng lo âu:
- Bọn chúng sẽ không để cho thuyền của chúng ta thoát được một lần thứ hai đâu, Thiếu uý. Liệu đã đến lúc bắn tín hiệu gọi họ về chưa?
Một đợt hò reo mới vang lên từ dàn cột buồm trên đầu khiến họ phải quay đầu lại nhìn. Từ phía xa khoảng một dặm, một chiếc thuyền thoi của Nhật do những tay chèo mình trần hiện ra, đang phi rất nhanh khỏi cảng Uraga. Trong khi họ quan sát thì chiếc thuyền đó hướng trực diện về phía tàu Susquehanna và tăng tốc độ.
Rice thận trọng quan sát chiếc thuyền mới xuất hiện qua kinh viễn vọng và nói:
- Chớ có chắc chắn quá, ngài Armstrong. Có vệ như người Nhật còn lo lắng hơn chúng ta.
Armstrong theo dõi chiếc thuyền sứ giả đang đến gần với một niềm hy vọng mới. Một người Nhật nhỏ bé, mặc chiếc áo dài bằng lụa Thổ Nhĩ Kỳ quý giá có thêu bạc và vàng đang đứng ở giữa thuyền. Đầu ông ta đội một chiếc mũ sơn mau đen lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, và khi chiếc thuyền bơi qua mạn con tàu Đô đốc, Armstrong nhận ra là chiếc áo của ông ta thêu hình một con công. Cái đuôi của nó xoè rộng thành một chiếc quạt rực rỡ nhiều màu, vẻ sang trọng của những đường trang trí cũng như vẻ ngạo nghễ của viên tướng cho thây ông ta phải là một quý tộc cao cấp hơn những người đến đàm phán lần trước.
Armstrong nói, vẻ nhẹ người lộ rõ trong giọng nói của ông:
- Có vẻ như hôm nay chúng ta sắp có một vị khách cao cấp hơn. Ông ta sẽ được đón tiếp như thế nào?
Rice nói:
- Tất cả mọi sự đàm phán đều phải được tiến hành theo cùng cung cách cũ. Đô đốc Perry sẽ tiếp tục không xuất hiện cho tới khi một quan chức cao cấpnhất của Nhật đến để tiến hành đàm phán. Tôi sẽ tiếp ông ta như lần trước và chúng ta sẽ sử dụng một chuẩn uý làm người đưa tin, do đó đô đốc có thể điều khiển đàm phán từ trong cabin của mình. Xin ông hãy bớt chút thời gian để làm nhiệm vụ phiên dịch giúp.
Armstrong lấy ngón tay chải tóc, rồi sau khi đã chỉnh tề hết mức có thể, ông sửa lại cravat và chuẩn bị để cúi xuống chỗ cửa lên mà viên tướng Nhật có thể sẽ xuất hiện ở đó:
- Chúng ta có thể có một nhượng bộ nhỏ nào đó để làm dịu tình hình hay không? Chúng ta có đề nghị mọi sự hoà giải nào đó không?
Rice vẫy tay ra hiệu cho một viên chuẩn uý đến chỗ mình và nói:
- Đô đốc Perry đã cho phép chúng ta cho bọn họ xem bức thư của Tổng thống của chúng ta, nếu như điều đó có ích gì đó. Họ sẽ được phép xem dấu triện chính thức và chiếc hộp gỗ hồng đựng bức thư.
Armstrong hỏi giọng thất vọng:
- Chỉ có thế thôi ư?
Rice quay đi để phát một mệnh lệnh cho viên chuẩn uý, anh ta vội vã chạy xuống thang để đến boong chính.
- Vâng, chỉ có vậy. Các quan điểm khác của chúng ta sẽ cứng rắn hơn, và không hề có một hứa hẹn gì hết.
Armstrong khăng khăng:
- Liệu chúng ta có nên ít nhất cũng thừa nhận một chút gì, chỉ cần thật nhỏ bé thôi cũng được để cứu vớt lòng tự hào của họ không? Có lẽ nên chăng chúng ta hãy tỏ một vài cử chỉ hoà giải thật sự?
Rice lắc đầu và trả lời:
- Đó không phải ý định của đô đốc. Chứng ta được lệnh là sẽ lịch sự, nhưng rất cứng rắn. Tôi vừa ra lệnh cho một phân đội thuỷ thủ sẽ đứng gác ở đỉnh thang lên để tăng cường bảo vệ. Lần này sẽ không cho phép một tuỳ tùng nào của phía Nhật được phép mang kiếm lên tàu. Chúng ta cần phải tăng cường cảnh giác - vì thế cho nên đến ngay cả những vũ khí có tính nghi lễ họ cũng phải để lại trên thuyền.
Nhà truyền giáo nói, vẻ mặt nghiêm trang:
- Tốt lắm, Thiếu uý. Tôi sẽ làm như ông đã hướng dẫn. Nhưng tôi hy vọng là Đô đốc Perry sẽ không quá tay. Khi một con chuột nhắt bị dồn đến chân tường thì thường là nó sẽ nhảy lên cắn cổ họng đối phương dữ dội hơn sức mạnh của bản thân nó.
Nhìn thấy chiếc thuyền Nhật đã áp sát mạn vào chân thang, Samuel Armstrong nhún vai và hít vào một hơi dài. Ỏng ta nhanh nhẹn quay gót đi khỏi đài chỉ huy để xem xét việc chuẩn bị tiếp đón viên quan cao cấp của Nhật Bản và đoàn tuỳ tùng của ông ta.