Chương 26
CUỘN TỜI LỚN TRÊN BOONG CHÍNH CỦA TÀU Susquehanna được phủ bằng lá cờ Mỹ ba màu đỏ, trắng và xanh lơ. Nằm trên đám sao và vạch đó là cuốn Kinh Thánh khổng lồ của tàu, bìa bọc da và mép mạ vàng. Dưới ánh sáng trắng đục của buổi sáng Chủ nhật màu sắc của lá cờ Mỹ dường như toả sáng và lung linh trong con mắt của hơn ba trăm lính thuỷ đánh bộ và thuỷ thủ đang đứng thành hàng ngũ nghiêm chỉnh dưới đài đô đốc để dự buổi lễ cầu nguyện chính thức sáng Chủ nhật.
Những dụng cụ bằng bạc và bằng đồng của đội nhạc hạm đội cũng phản chiếu lấp lánh ánh mặt trời khi những người lính quân nhạc tâu lên bản thánh ca. Đứng bên trên đội thuỷ thủ mặc đồng phục màu xanh nước biển trên boong chính, các sĩ quan của hạm đội dẫn đầu bởi thân hình cao ngất của Đô đốc Mathew Calbraith Perry cũng sáng choang trong những bộ lễ phục đầy đủ đầy những ngù vai mạ vàng sang trọng dành cho những dịp lễ hội. Mắt nhìn thẳng về phía trước và phớt lờ những đoàn quân Nhật rõ ràng đang hành quân đến với một sô lượng ngày càng lớn lên các đỉnh núi và các bãi biển bao quanh Uraga, viên đô đốc cất giọng trầm trầm của mình để hoà vào giai điệu bản thánh ca. Bản thánh ca thiên chúa giáo trầm trầm loang xa trên mặt nước yên tĩnh của vịnh, trong phút chốc xoá nhoà tiếng chuông chùa và tiếng cồng chiến đấu. Ngay cả những tiếng nổ đột ngột của một khẩu đại bác phía xa trên bờ, giữa những quả đồi cũng không làm đứt quãng buổi hành lễ trên tàu khi hơn ba trăm giọng cùng cất tiếng hát điệp khúc.
"Trước ngai vàng hùng mạnh của Jehovah
Chúng con cúi đầu trong niềm vui sướngthiêng liêng,
Được biết rằng chỉ riêng có một Đức Chúa Trời
Người có thể sáng tạo, Người có thể huỷ diệt...".
Samuel Armstrong đứng ở cuối tốp sĩ quan. Trong khi hát ông quay đầu lại và nhìn thấy một cột khói đen đang bốc lên cao hơn mặt vịnh khoảng nửa dặm từ một mũi đất phía trước. Mục tiêu của phát đại bác có vẻ không -rõ ràng nhưng vì nó không tỏ ra có gì nguy hiểm ngay lập tức nên ông chuyển hướng chú ý sang mỏm đá gần hơn, ở đó ông nhìn thấy rõ những đoàn quân dài đang đẩy những khẩu súng bổ sung vào trận địa trên những vành đất của pháo đài. Những tốp chiến sĩ khác vũ trang bằng khiên và dáo đang di chuyển về những trạm gác mới giữa những pháo đài, và mấy đám lửa báo tin vừa được đốt lên suốt đêm dài nữa vẫn còn cháy sáng qua làn sương mù bao phủ trên những quả đồi và những dãy núi chập chùng phía sau mỏm đá.
Armstrong nói nhỏ với John Rice đang đứng thẳng đơ bên cạnh ông, tay cầm quyển thánh ca:
- Thiếu uý, tôi nghĩ có rất nhiều khẩu súng mới từ phía nam Uraga đang chĩa vào hạm đội của chúng ta. Quanh các trận địa có nhiều hoạt động hơn trước.
Viên thiếu uý cầm cờ không ngừng bài thánh ca của mình. Trước đó anh ta đã được giao trách nhiệm là làm cho toàn bộ hạm đội hiểu rằng đô đốc muốn buổi lễ Thiên chúa ngày Chủ nhật sẽ được trên bờ xem như một màn trình diễn hiệu quả về sức mạnh và niềm tin của Mỹ. Bản thánh ca được xem như có một hiệu quả đặc biệt cho dịp này và tất cả các cấp sĩ quan được lệnh phải chăm lo rất cẩn thận đối với đồng phục của mình và của các cấp dưới. Vì thế thái độ của thiếu uý Rice cũng như của tất cả các sĩ quan khác đều tỏ ra là đang nghiêm túc và quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này. Trong khi đang tiếp tục hát bản thánh ca viên thiếu uý chỉ nhìn nhanh về phía mỏm đá mà Armstrong chỉ, nhưng cái nhìn không quả quyết lắm và anh không có nhận xét gì mà chỉ quay lại chú ý hát nốt đoạn cuối.
Khi nốt nhạc cuối cùng lắng xuống, cha tuyên uý bước đến chỗ cột cờ để giảng bài kinh, Armstrong liếc về phía Mathew Perry và thấy ông ta đang ngẩng đầu thẳng và quả quyết hơn bao giờ hết, dưới chiếc mũ có ngù, mái tóc bờm xờm của ông rủ xuống khuôn mặt rộng, vẻ mặt ông vừa dữ dội vừa điềm tĩnh. Mái đầu sư tử và cái cổ bò đực cất cao ngạo nghễ trên đôi vai áo có độn vai được làm cho rộng hơn và dầy ấn tượng bởi đôi cầu vai cấp đô đốc. Hai hàng khuy áo bằng vàng được đính trên nền vải áo khoác màu xanh nước biển trên lồng ngực vồng lên cuồn cuộn bắp thịt - đem lại cho ông một hình ảnh đầy quyền lực, vững chãi như một cây sồi. Bắt chước Napoléon, ông đặt tay phải chéo qua ngực, những ngón tay vân vê chiếc cúc áo, như thể đang tuyên bố với cả thế giới rằng ông là một con người của sức mạnh và không thể lay chuyển.
Cha tuyên uý cao giọng, sau khi kết thúc bài giảng kinh:
- Bây giờ chúng ta sẽ cầu xin Cha chúng ta ở trên Trời cho chúng ta sức mạnh để có thể hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của chúng ta trên vùng biển này. Và Đô đốc Perry, đô đốc hạm đội của chúng ta sẽ bắt đầu bằng lời cầu xin của ông.
Armstrong nhìn Mathew Perry nhắm mắt, cúi đầu và đứng im trước hàng lan can. Ngay cả trong khi cầu nguyện cái thân hình đồ sộ của ông cũng mang lại ấn tượng về ảnh hưởng đầy quyền lực của nó, và Armstrong nhìn thấy nhiều binh lính và thuỷ thủ đứng dưới boong dưới đang cố nghển cổ lên để nhìn theo hình ảnh của ông trong một lúc hiếm hoi ung dung thư thái trước khi ông bắt đầu nói.
Đô đốc nói bằng một giọng trầm, chậm rãi và âm vang, khiến cho toàn bộ mọi người trên tàu dễ dàng nghe thấy:
- Chúng con cầu nguyện với Đức Chúa sẽ làm cho sự cố gắng hiện nay của chúng con để đưa một dân tộc tầm thường và bị cô lập vào gia đình của các dân tộc khác trên thế giới thắng lợi mà không cần phải đổ máu. Và chúng con cầu xin Người ban phúc lành cho mọi ý nghĩ và việc làm của chúng con trong thời điểm khó khăn và nguy hiểm này... Amen!
Một tiếng "Amen" rộ lên trên boong trên để đáp lại ông, trước khi họ kịp dọnmình để nghe tiếp lời cầu nguyện dài hơn do cha tuyên uý đọc trước. Nhưng trong khi cha tuyên uý đọc, rất nhiều người vẫn nghển cổ cố nhìn thêm hình ảnh đô đốc của họ đang ở trong tư thế đẹp nhất.
Những hành động và các chiến công kỳ diệu trước đây của Perry đã được truyền tụng từ trước trong những người đang lắng nghe này. Từ hồi mười bốn tuổi ông đã từng là viên chuẩn uý tập sự trẻ tuổi nhất từng gia nhập Hải quân Mỹ, trong chiến tranh năm 1812 tuy còn rất trẻ ông đã chiến đấu vô cùng dũng cảm và tài nghệ. Trong chiến tranh Mexico mới đây, với thành công vang dội ông đã đưa một hạm đội hải quân Mỹ lớn chưa từng thấy đến vùng biểnMexico. Đích thân ông đã giám sát việc đóng những chiếc tàu hơi nước vượt đại dương đầu tiên, chiếc Mississippi và chiếc Missouri và đã đánh bạt những lời dự đoán trước rằng những chiếc tàu đó sẽ tan tành trong cơn bảo biển đầu tiên bằng chuyên đi biển vòng quanh thế giới thành công của con tàu Mississippi. Vì những chiến công đó ông đã được tặng cho cái tên là "người cha của lực lượng Hải quân cơ giới Mỹ" khiến cho uy tín của ông tăng thêm một cách đáng kể.
Mặc dù vậy những vùng đất rộng lớn của Châu Á hiện đang rơi vào tay các thế lực tư bản Châu Âu đã thôi thúc trong ông một tham vọng muôn đưa nước Mỹ ít nhất cũng tiến lên ngang hàng với những bước chân của Châu Âu ở phương Đông. Để mở rộng buôn bán của Mỹ, ông đề nghị cần phải thành lập một chuỗi các cảng than và các căn cứ hải quân trên vùng Viễn Đông. Các đề nghị chi tiết của ông đã được Washington đón nhận một cách nhiệt tình. Một trong những đề nghị đó là xin được nhận nhiệm vụ mở cánh cửa huyền bí và bí ẩn của Nhật Bản, đất nước khó hiểu đã tự tách mình ra khỏi toàn bộ thế giới bên ngoài suốt hơn hai thế kỷ - Ông khăng khăng đề nghị được sử dụng tới vũ lực một khi ông thấy cần thiết.
Armstrong nhớ lại rằng, tất cả những chi tiết đặc biệt đó giờ đây hiện ra thật rõ ràng trong dáng đứng hiếu chiến của ông vào buổi sáng Chủ nhật trên boong tàu đầy sương của con tàu đô đốc này. Đối với mục đích của bản thân mình đã được biến thành cuộc viễn chinh của đất nước ông vô cùng tận tụy; và còn quan trọng hơn nữa là sự tận tụy ấy được hậu thuẫn bởi một hạm đội hải quân hùng mạnh và hiện đại đang dàn hàng đầy doạ dẫm trong vịnh. Lực lượng đó sẽ giúp ông có thể dàn thế trận theo ý mình. Hình dáng đồ sộ và yên lặng của ông dường như đang tuyên bố: "Giờ đây, bất kể xảy ra điều gì đi chăng nữa thì lòng tự hào của người Mỹ, và nếu cần thiết thì sức mạnh quân sự Mỹ sẽ là trên hết".
Trong khi tiếp tục nhìn hình ảnh đầy ấn tượng của viên đô đốc, Armstrong cũng chợt nhận ra thật rõ ràng rằng vì sao không thể có hình dáng trẻ trung của Robert Eden đứng giữa nhóm những sĩ quan trẻ, tận tuy, lưng thẳng băng đang đứng trước mặt viên đô đốc của mình trên boong tàu. Nguồn gốc của Eden, dòng máu lai của chàng, tình cảm mạnh mẽ của chàng về công lý và sự đồng cảm của một cách trực giác đối với một dân tộc đầy tự hào đang đương đầu với những kẻ lạ mặt hùng mạnh hơn, được trang bị những vũ khí tối tân hơn đã khiến chàng không thể nào tiếp tục mù quáng đứng kề vai với những người xung quanh ông. Chỉ có với một đầu óc đầy lý tưởng mạnh mẽ như vậy, cùng với sự liều lĩnh được dung dưỡng bởi những đau đớn riêng tư trong lòng mình mới có thể thúc đẩy chàng tụt xuống khỏi thành tàu trong bóng đen của đêm Thứ Sáu ấy và bơi thẳng vào bờ.
Những xung đột tinh thần mà chàng đã phải đương đầu trong cái khoảnh khắc dẫn tới một quyết định liều lĩnh như vậy nhất định phải vô vùng đau đớn. Hiểu ra tất cả những cái đó, lần đầu tiên nhà cựu truyền giáo không còn thấy ngạc nhiên nữa.
Cuối cùng khi lời cầu nguyện đá chấm dứt, ông ghé sát vào tai Rice và nói:
- Có lẽ thật đáng tiếc là không một người Nhật nào nhìn thấy vẻ mặt của Đô đốc. Nếu họ chỉ cần nhìn thấy cái cằm đanh lại và ánh mắt kiên quyết của ông ta thì có lẽ họ sẽ không khăng khăng ngăn cản chúng ta trình thư của tổng thống nữa.
Ban nhạc lại bắt đầu ồn ào mở đầu một bản thánh ca khác, và một lần nữa thiếu uý Rice lại không trả lời ngay. Armstrong nhận thấy vẻ mặt anh có vẻ lơ đãng và đang nhìn về phía bờ. Ông quay lại nhìn theo thì thấy một chiếc thuyền Nhật rất lớn có mui đang từ cảng tiến thẳng về phía tàu Susquehanna. Chiếc thuyền lướt rất nhanh và chở những viên quan mặc áo tay chùng.
Rice nói ngắn:
- Đô đốc không có ý định thay đổi chính sách hiện nay. Ông sẽ tiếp tục tránh mặt trong tất cả các cuộc tiếp xúc với người Nhật.
Armstrong hỏi, mắt theo dõi chiếc thuyền mui đang tiến đến gần:
- Vậy chúng ta sẽ nói gìvới những viên quan trên chiếc thuyền đang đến gần chúng ta kia? Tôi có phải nói chuyện với họ không?
Rice khẽ nói:
- Đô đốc đặc biệt nhấn mạnh rằng Chủ Nhật là ngày nghỉ ngơi và là ngày của Chúa cho nên tất cả các thông tin với người Nhật, bất kể đó là thông tin gi, đều phải chờ đến ngày mai. Sẽ không có một con tàu nào của chúng ta được phép tiếp khách ngày hôm nay. Ông có thể đến và bảo họ như vậy - và nói rõ rằng chúng ta từ chối việc họ lên tàu cho đến hết ngày hôm nay.
Trong khi giọng hát của ba trăm thuỷ thủ và sĩ quan hoà vào nhau trong một bản thánh ca khác, Armstrong vội vã đi khỏi boong chính, ông trèo xuống đến nửa chừng cầu thang và chờ cho chiếc thuyền Nhật đến gần mạn tàu. Bốn viên quan đội mũ sơn mài màu đen và áo dài bằng lụa thêu đang ngồi dưới mui thuyền, tay phe phẩy quạt. Nhưng Armstrong không nhận ra ai quen mặt, trừ người phiên dịch thông thái Hiniwara Tokuma. Nhìn thấy Armstrong giơ một bàn tay lên ra hiệu họ không được chào đón lên thuyền, ông ta vội vã đứng lên đi về phía mũi thuyền.
Armstrong gọi to bằng tiếng Đức:
- Haniwara-san, hôm nay các ngài đến đây làm gì? Mục đích của cuộc viếng thăm của các ngài là gì?
Viên phiên dịch trả lời:
- Các Thượng cấp của chúng tôi muôn lên tàu để biết xem chỉ huy của ngài định bố trí tàu chiến của các ngài như thế nào trong những giờ tới đây? Đặc biệt các vị đó muốn biết chỉ huy của các ngài có định sẽ tiếp tục công việc nguy hiểm là đưa các tàu có vũ khí xuống để khảo sát nữa không?
Một trong những người chèo thuyền vứt một cuộn dây cho Armstrong, ông bắt lây nó và quân một vòng quanh lan can của thang lên để chúng tỏ một cách rõ ràng là chiếc thuyền chỉ tạm thời được ở lại đây một cách an toàn. Rồi ông đứng lên nói bằng giọng trịnh trọng:
- Tôi được lệnh thông báo với các ngài là ngày hôm nay không một vị khách nào được phép lên bất cứ chiếc tàu nào của Hải quân Mỹ đậu ở đây. Chỉ huy hạm đội của chúng tôi sẽ không tiếp nhận liên lạc dưới bất cứ hình thức nào cho đến sáng ngày mai.
Haniwara hỏi, rõ ràng là bối rối:
- Lý do vì sao?
- Mỗi tuần chúng tôi dành hẳn một ngày trọn vẹn cho Chúa, và có lẽ ngài có thể nghe rõ cũng như nhìn thấy rõ rằng chính lúc này chúng tôi đang cử hành buổi lễ trên boong trên kia.
Người phiên dịch quay lại để dịch câu trả lời cho những người ngồi trên thuyền, rồi lại quay lại phía Armstrong, vẻ mặt nghiêm nghị:
- Chúng tôi cần phải đến để báo trước với chỉ huy hạm đội của các ngài. Thượng cấp của chúng tôi nói rằng chiến sự nhất định sẽ nổ ra nếu như các thuyền khảo sát của các ngài vào quá gần bờ biển.
Armstrong chậm rãi nói:
- Tôi chỉ có thể nhắc lại rằng thượng cấp của chúng tôi không muốn có bất cứ sự liên lạc nào với thượng cấp của ngài trong ngày chủ nhật dành cho thờ phụng này.
Haniwara kiên định nhìn Armstrong:
- Thượng cấp của tôi rất thất vọng vì câu trả lời đó. Các vị đó muốn nhận được lời đảm bảo về các hoạt động của các ngài.
Armstrong nói với một vẻ xin lỗi:
- Tôi không thể vi phạm mệnh lệnh ngặt là không tiến hành bất cứ sự liên lạc nào với các ngài hôm nay. Nhưng cá nhân tôi xin hỏi các ngài đã nhận được câu trả lời nào của Yedo về việc trình bức thư của Tổng thống chúng tôi cho đại diện của Đức Hoàng thượng của các ngài chưa?
Viên phiên dịch trả lời và bắt đầu quay đi:
- Vẫn chưa có câu trả lời. Chưa kịp đủ thời gian...
Armstrong hối hả gọi giật lại:
- Chờ đã. Tôi muốn hỏi một câu nữa.
Viên phiên dịch cau có hỏi:
- Gì vậy?
- Các ngài có tin tức gì về viên sĩ quan bị mất tích của chúng tôi không? - Armstrong cúi xuống để những người khác trên tàu không nghe thây lời ông nói - Các ngài đã bắt được anh ta chưa?
Haniwara quay lại chỗ cửa lên, mắt nhìn Armstrong vẻ dò xét một lúc rồi nói rất khẽ:
- Rát không may. Viên sĩ quan của các ngài bị phát hiện là đang do thám một pháo đài ở phía trên Uraga. Đã xảy ra đánh nhau và đổ máu.
Armstrong lo lắng hỏi:
- Anh ta bị giết chết rồi ư?
Viên phiên dịch lạnh lùng nói:
- Không. Anh ta trốn thoát. Sau đó người ta lại tìm thấy anh ta sâu hơn trong đất liền. Lại đánh nhau, nhưng anh ta lại thoát...
Armstrong hít một hơi dài:
- Vậy thì bây giờ chuyện gì sẽ xảy ra?
Haniwara nói sẵng giọng:
- Anh ta đang tiếp tục bị truy đuổi. Rất nhiều chiến sĩ đang săn tìm anh ta. Không thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra.
Armstrong nhẹ người ngước mắt nhìn vào bờ. Nhưng phía trên những mỏm đá quang cảnh vẫn hoàn toàn chìm trong một màn sương trắng đục dày đặc bao phủ lên những dãy đồi núi xa xa. Armstrong tháo sợi dây khỏi thang lên, đẩy chiếc thuyền đi và khẽ nói:
- Cám ơn, ngài Haniwara. Rất cám ơn ngài vì tin tức này.
Người phiên dịch giữ vẻ mặt lạnh lùng và cúi đầu chào trước khi quay về chỗ ngồi bên cạnh bốn viên quan và Armstrong nhìn những tay chèo Nhật Bản mình trần đưa chiếc thuyền của họ quay về bờ một cách nhịp nhàng mạnh mẽ. Trên cao ông nghe thấy một bản thánh ca mới đang vang lên từ boong trên. Một lần nữa ông nhìn vào màn sương trắng đục trên bờ, cô hình dung xem Robert có thể ở đâu trong lúc này. Rồi môi mấp máy đọc tên Eden, ông nhắm mắt và vẫn đứng lưng chừng trên thang lên, ông hoà giọng với đám thuỷ thủ đang cầu nguyện cạnh đó.