PHẦN BỐN NHỮNG CON TÀU ĐEN CẬP BẾN
12-17 tháng Bảy 1853
Trong khi từng khắc thời gian của những ngày hè đầy kịch tính giữa tháng Bảy năm 1853 trôi qua, những thuỷ thủ Mỹ đang quan sát từ trên những con tàu chiến Mỹ đôi khi thấy căng thẳng hơn khi nhìn thấy những công việc phòng thủ cổ lỗ bắt đầu hiện rõ trên bờ. "Thêm một pháo đài bằng vải nữa vừa mới được dựng lên, thưa ngài ", những người lính quan sát thỉnh thoảng lại kêu lên đầy chế diễu khi những tấm màn dài nhuộm màu được dựng lên để ngụy trang cho những đạo quân mới mang trang phục chiến đấu thời trung cổ. Những dải băng, cờ đuôi nheo và huy hiệu mà những người Nhật đeo thực tế trông giống những đồ trang sức cho một cuộc đấu thương trên ngựa của thời vua Arthur nước Anh hơn là những sự chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh trong thế kỷ mười chín. Sự lạc hậu của họ càng khẳng định cảm giác chiếm được ưu thế của những người Mỹ. Nhưng với hai thế kỷ rưỡi đóng kín để tự phát triển theo chế độ phong kiến, những đồ trang sức có tính chất biểu tượng đó thực tế lại mang một ý nghĩa quan trọng sống còn đối với nước Nhật. Suốt một thời kỳ lịch sử khốc liệt trong khi các nước Châu Âu đã bắt đầu chiếm thuộc địa và kiểm soát một vùng đất đai rộng lớn của Châu Á. Sự tách biệt được bảo vệ dữ dội này đã giúp nước Nhật cũng cố và phát triển những đặc tính dân tộc thống nhất mà sau này nó sẽ giúp biến đất nước họ trở thành một thế lực hùng mạnh hiện đại chỉ trong vài thập kỷ ngắn ngủi.
Hệ thống các bộ tộc phong kiến đá khắc sâu vào mỗi con người Nhật bản những nguyên tắc về sự trung thành, ngoan ngoãn, tự khép mình vào kỷ luật. Những đức tính tốt đẹp đó được tập trung vào trước hết là đối với chúa công trực tiếp của họ, sau đó là đối với Hoàng đế người được tôn thờ như một người đứng đầu thiêng liêng của cả dân tộc và là hiện thân sống của các vị thần nơi "xứ sở của mặt trời". Niềm tin được nuôi dưỡng bởi tín ngưỡng dân tộc - đạo Shinto - rằng mỗi người Nhật đều thuộc về một thể thống nhất và mỗi thành viên thần thánh của gia đình thiêng liêng này sẽ không ngừng được tiếp thêm sức mạnh. Trong lịch sử thế giới chưa hề có một dân tộc lớn nào từng đạt được một thời kỳ tự cấp tự túc lâu như vậy. Trong suốt hai trăm năm mươi năm đó tinh thần samurai cũng đã thâm sâu vào linh hồn dân tộc, mà trong đó điều đầu tiên được khích lệ là sự trau dồi sức mạnh và tính quyết đoán của mỗi cá nhân.
Từ "samurai" có thể dịch là"người phục vụ", "chư hầu" hoặc bao hàm cả nghĩa "chiến sĩ". Đầu tiên samurai được hình thành trong tầng lớp trên của giai cấp phong kiến Nhật bản, là trung gian trực tiếp giữa các daimyo được phong tước và triều đình của hoàng đế. Nhưng các thành viên của các gia đình quý tộc cũng như hoàng tộc cũng muốn có được tài nghệ của samurai . Để đạt được uy tín đó không hề dễ dàng. Cần phải trải qua một thòi kỳ học tập và tập luyện dài, gian khổ, và thời kỳ đó phải bắt đầu từ khi còn rất nhỏ tuổi. Để có thể gạt bỏ được mọi sợ hãi kể cả sợ chết, ngay từ khi lên năm tuổi các cậu bé đã được cho xem những cuộc hành quyết công khai rùng rợn và đôi khi còn phải xách đi vứt những cái đầu vừa bị chặt mà không được run sợ. Để làm cho thần kinh của chúng mạnh mẽ hơn nữa, các cậu bé còn phải một mình đến nhìn lại pháp trường vào lúc nửa đêm. Trong một số bài tập luyện khác chúng còn được tôi luyện bằng cách cởi trần rất lâu giữa lúc trời giá lạnh và nhịn đói một thời gian ngắn hoặc bị bắt buộc phải thức dậy lúc nửa đêm. Những học sinh thành công sẽ nhận được hai thanh kiếm của mình vào tuổi mười lăm, sau một quá trình giáo dục lâu dài cả về thể chất cũng như tinh thần.
Ở những trường tốt nhất người ta dạy những môn học nền tảng của môn Kungfu, giáo lý thần bí của Đạo Thiền - Phật cũng như những bài học về lý thuyết và thực hành đạo Shinto. Kỹ thuật thở và ngẫm nghĩ cho phép một sumurai có thể hiểu được khoa học của năng lượng bởi vì khi đó anh ta có thể nhận thức và đạt đến một cảm giác giao tiếp được với thiên nhiên, trái đất cũng như sự tận cùng của vạn vật. Tất cả những cái đó được đề ra để giúp một samurai có thể đạt được mục tiêu tột đỉnh cua mình - đó là phát triển sáu trạng thái cảm giác cho phép huy động toàn bộ sự tự phát của ý nghĩ và hành động nhanh như chớp với bất cứ vũ khí nào anh ta có trong tay. Những đạo đức Thiên chúa giáo về một linh hồn chân chính cũng như tội lỗi không hề có trong luân lý của đạo Shinto và bất cứ khi nào một sumurai đã rút kiếm ra để tấn công dù cho anh ta có giết người hay không thì sự tự phát của hành động đó được tôn trọng tối đa và được coi là chính nghĩa. Chính vì lý do đó mà tất cả mọi người Nhật đề cư xử vô cùng thận trọng trước mặt các samurai. Một samurai cũng được dạy mọi kiểu chiến đấu khi lâm trận, kể cả chiến đấu tay không và phải tự rèn luyện mình luônluôn tỉnh táo, kể cả trong lúc ngủ để có thể nhảy phắt dậy hành động ngay lập tức nếu bị tấn công. Toàn bộ bộ luật của một samurai như vậy có tên là Bushido hay là "Con Đường Của Người Chiến Binh" bởi vì trong cách nói thông thường của người Nhật thì từ "samurai" còn là "bushi", có nghĩa là "các hiệp sĩ chiến đấu".
Từ “do”, nghĩa là "con đường" nghĩa là những luật lệ của bộ luật sẽ trải ra con đường thật sự để một chiến binh có thể bày tỏ lòng trung thành vô bờ bến của mình đối với chúa công và Hoàng đế của mình. Những hiệp sĩ chiến đấu này thường trở thành các tướng lĩnh của quân đội phong kiến vì thế phẩm chất của họ cũng được lan truyền xuống đến các cấp bậc khác.
Kể từ khi thời gian đóng kín dài dằng dặc của Nhật Bản chấm dứt, tinh thần Bushido vẫn còn thể hiện khá rõ trong lối cư xử của người Nhật. Nghiên cứu thật cẩn thận những chỗ mạnh và yếu của kẻ thù để rồi bất ngờ tấn công thật nhanh và nguy hiểm chết người theo thói quen của một samurai khi lâm trận. Hải quân Nhật đã áp dụng nguyên tắc đó một cách hoàn hảo vào Tháng Năm 1905. Khi đó hầu như toàn bộ hạm đội Baltic của Nga, hạm đội lớn và hiện đại nhất thời đó đã bị quét sạch một cách bất ngờ trong khi đi qua một eo biển hẹp của Nhật. Gần bốn mươi năm sau, năm 1941, "tấn công trước - và bất ngờ" lại trở thành khẩu hiệu của quân Nhật khi gần chín mươi phần trăm hạm đội Thái bình dương của Mỹ bị không quân và lực lượng Hải quân Nhật tiêu diệt tại Trân Châu cảng trong khi các nhà ngoại giao vẫn còn đang giả vờ đàm phán một cách rất hoà bình ở Washington.
Trong những hoàn cảnh rất khác nhau để sải bước đến nền kinh tế và công nghệ ưu việt nhất trên thế giới vào những năm cuối thế kỷ hai mươi, ngươi Nhật vẫn tiếp tục tìm nguồn sức mạnh từ chính những truyền thống phong kiến và những khuynh hướng độc đáo riêng của mình khiến họ luôn là một dân tộc thật khác biệt. Nhưng trong mắt những thuỷ thủ vô danh trên con tàu Mỹ vào năm 1853 ấy, những người chỉ có thể từ trên con tàu chiến của mình nhìn thấy những cái bẫy kỳ quặc dang giương ra của phong kiếnNhật, thì những viễn ảnh đó của nước Nhật vẫn chưa hề thấp thoáng. Và trong khi căng thẳng nhìn vào bờ họ cũng không thể biết được rằng cuộc viếng thăm ngắn ngủi không hề được chào đón của họ vào Vịnh Yedo sẽ trở thành cú thúc đẩy đưa Nhật Bản vào một cuộc thay đổi hỗn loạn - những thay đổi đó sẽ đưa nhân dân Nhật Bản và những sức mạnh tiềm tàng dữ dội của họ vào dòng nước chảy xiết của thế giới.