← Quay lại trang sách

Chương 37

TRÊN CHIẾC GIƯỜNG HẸP TRONG CABIN chật chội phía trên bánh lái của tàu Susquehanna, Samuel Armstrong trăn trở không yên giữa ranh giới của giấc ngủ và trạng thái tỉnh táo khó chịu. Một dòng mồ hôi lo âu lấp lánh chảy giữa hai hàng lông mày. Ông lầm bầm thành tiếng và co quắp từng hồi trong khi trôi giạt vào một trạng thái mù mịt của ý thức. Một tiếng gõ dường như từ một chỗ nào không xác định được đập vào trí óc mù mịt của ông, cuối cùng cũng xé toạc mẩu cuối cùng của giấcngủ: Dai dẳng và khắc nghiệt, âm thanh đó giống như một tiếng búa gõ xa xôi đang vội vã gõ vào một tấm gỗ, vang đến rồi lại vang đến rền rĩ lan khắp mặt nước của vịnh trong buổi bình minh.

Ông vẫn không biết chắc đó là tiếng động có thực hay là một giấc mơ.

Chưa tỉnh hẳn, ông lắng nghe và cố gạt nó ra khỏi tai. Một phần trí óc ông đã nhận thức được rằng ngày thứ tư khốc liệt thả neo trước thành phố Uraga đã hé rạng - Thứ Ba ngày 12 Tháng Bảy, ngày cuối cùng trong ba ngày Đô đốc Perry cho phép người Nhật để trả lời tối hậu thư của ông. Lúc này chỉ còn lại vài giờ nữa cho họ quyết định có tiếp nhận lá thư của Tổng thống Hoa kỳ với nghi thức hợp cách hay không, hay một lực lượng chiến đấu của Mỹ cần phải liều mạng đổ bộ lên bờ để chuyển giao nó.

Từ trước khi trời sáng rất lâu Armstrong vẫn lơ mơ ngủ và tự nhủ trong đầu nhiều lần:

- Hôm nay chúng ta sẽ biết rằng sẽ là chiến tranh hay hoà bình. Hôm nay chúng ta sẽ biết trò lừa bịp này có bị lật tẩy hay không. Hôm nay chúng ta sẽ biết hải quân và thuỷ thủ của chúng ta có phải cố gắng chiến đấu giành đường vào Yedo hay không....

Trong trạng thái nửa thức nửa ngủ ông chợt nghĩ, biết đâu sự chuẩn bị cho việc đưa lên một lực lượng xâm lược nhỏ đã bắt đầu rồi. Có lẽ các thợ mộc trên tàu đã được lệnh phải dậy sớm và bắt đầu đóng các quan tài. Ông buồn rầu tự nhủ, khi cuộc chiến bắt đầu thì những nghi thức buộc phải trở nên nặng nề. Suốt những giờ dài dằng dặc của những ngày vừa qua ông đã bước lui bước tới không nghỉ dọc trên boong tàu Susquehanna, nhìn những phiên đội chiến đấu của Nhật mọc lên dày đặc quanh các pháo đài trên đỉnh núi của Uraga và trên bãi biển dọc cả hai bờ vịnh. Những lính bắn cung, lính cầm dáo, và linh sử dụng súng trường hành quân nhanh chóng vào các vị trí phòng ngự dọc hai bờ biển.

Đây đó những phân đội diễu hành một cách hùng hổ hiện rõ trong tầm nhìn cùng với những lá cờ đuôi nheo bay phấp phới. Theo các sĩ quan trên tàu đô đốc ước tính thì toàn bộ lực lượng của trận địa trên bờ có khoảng từ mười đến mười lăm ngàn quân bố trí ở vùng tiếp cận ngay với họ, và nếu ước tính đó đúng thì các binh lính hải quân Mỹ và thuỷ thủ trên tàu sẽ phải đương đầu với một sự chênh lệch lực lượng ít nhất là mười trên một. Và dường như những chiến binh Nhật có thể ở vị trí dự phòng không thấy trong tầm nhìn còn nhiều hơn thế nhiều.

Cùng với những thành viên khác trên tàu Susquehanna, Armstrong đã e sợ theo dõi khi tàu Mississippi hạ neo theo lệnh của Đô đốc Perry vào giữa buổi sáng và xả hơi nước mù mịt khắp vịnh Yedo, kéo theo sau đuôi nó là rất nhiều thuyền nhỏ có vũ trang. Khi những viên tướng Nhật đi trên con thuyền nhỏ chính thức xông tới tàu đô đốc, chính ông đã dịch cho họ nghe lời giải thích lỗ mãng của thuyền trưởng tàu Susquehanna rằng người ta đang vẽ hải đồ vịnh để một lực lượng của Mỹ có thể dong tàu thẳng tới kinh đô và chiến đấu để mở đường tới Yedo nếu cần thiết. Trong những giờ sau đó từng đợt lớn các thuyền cảnh giới của Nhật đã nhung nhúc bám quanh đường đi của chiếc tàu hơi nước và các pháo đài trên bờ biển Uraga lớn lên trông thấy.

Chiếc Mississippi đã an toàn quay lại trước khi trời tối để báo cáo về rất nhiều chuyển động căng thẳng của những thuyền cảnh giới. Sau khi đêm vừa buông xuống lại có thêm rất nhiều những đám lửa báo tin được đốt lên trên những cao điểm dọc bờ vịnh. Những tiếng cồng chiến đấu và tiếng chuông từ các ngôi đền đã lặng đi trong suốt ngày Chủ nhật nay lại vang lên đầy lo âu. Đáp lại tàu Susquehanna đã xả hơi nước, thu lại hơn hai mươi sải cáp neo và làm những công việc chuẩn bị cần thiết để nhổ neo một cách nhanh chóng trong trường hợp có bất cứ một báo động nào. Các cỗ súng đã được bắn thử và đẩy ra, lính gác đã được tăng lên gấp đôi trong đêm và người ta bố trí thêm nhiều trạm quan sát dọc cả bốn con tàu.

Không thể nào ngủ được vì quá căng thẳng, Armstrong đã đi dọc quanh con tàu đến tận đêm khuya, lo âu quan sát những đám lửa truyền tin và sự vận chuyển của các đội quân trên bờ. Mãi đến bốn giờ sáng ông mới rơi vào giấc ngủ chập chờn mệt nhọc trên chiếc giường chật hẹp của mình. Ông không thể nào ngủ được yên, và chợt nhận ra rằng nồi hơi trên tàu đô đốc vẫn đang sôi phì phì giữ cho con tàu ở trạng thái sẵn sàng. Ông nghe thấy tiếng gõ cửa đúng lúc bắt đầu mơ thấy hàng trăm giá treo cổ đang được dựng lên trên bờ trong đó có một cái dành cho tất cả các thuỷ thủ trên hạm đội của Mỹ. Rồi ông gần như tỉnh hẳn khi nhớ ra rằng người Nhật không có truyền thống hành hình bằng cách treo cổ; nhưng sau đó khi ngủ lại ông lại mơ thấy cuộc tàn sát khổng lồ xẩy ra hồi Cơ đốc giáo được truyền bá vào Nhật Bản hai thế kỷ trước, những hình ảnh trong mơ sống động đến rùng rợn.

Ông kinh hoàng thấy giấc mơ đó lại lặp lại một cách đáng sợ hơn, ông nghe thấy và nhìn thấy tiếng ồn ào của cả một rừng những cây thập tự bằng gỗ đang được những người Nhật dựng lên trên một quả đồi trước mặt con tàu. Ông rên rỉ phản đối và bắt đầu bị đóng đinh lên cây thập tự đầu tiên, thì vừa lúc đó tỉnh dậy hoàn toàn bởi tiếng gõ cửa cabin vang lên rất to.

Tiếng chuẩn huý Harris lo lắng gọi:

- Ngài Armstrong, thưa ngài! Ngài có khoẻ không? Ngài đã dậy chưa?

Một giây sau nhà truyền giáo mới lầu bầu trả lời, ông mở mắt bàng hoàng và ngồi dậy:

- Tôi dậy rồi. Vào đi.

Qua cửa sổ cabin, hình côn tuyệt đẹp Núi Fiji vừa hiện ra. Nhô lên một cách đột ngột khỏi màn sương mù để ngập trong ánh mặt trời buổi sớm mai, trong nháy mắt đường viền của ngọn núi hiện rõ hoàn toàn và toả sáng một cách trong trẻo hơn bao giờ hết. Trong khi cố định thần Armstrong nhìn qua cửa sổ, thầm ngạc nhiên trước vẻ đẹp thuần khiết của hình ảnh đó, và chính trong lúc nhìn về phía ngọn núi lửa ông nhận thấy tiếng búa gõ đều đều đã quấy rầy giấc ngủ chập chờn của ông dai dẳng đến thế lúc này vẫn còn đang thật sự tiếp tục. Quay lại nhìn viên chuẩn uý tập sự trẻ đang đứng ở cửa, ông nhận thấy chàng trai đeo một thanh đoản kiếm trên thắt lưng để giữ đúng trạng thái vũ khí sẵn sàng.

Nhà truyền giáo mệt mỏi nói:

- Ông Harris, tôi vừa qua một giấc ngủ thật là tồi tệ. Tôi có thể giúp gì được ông không nhỉ?

Viên chuẩn uý tập sự đứng thẳng lại và nghiêm hai vai, nói:

- Thưa ngài. Thiếu uý Giữ cờ Rice gửi tới ngài lời chào. Ông ta nói rằng muốn gặp ngài tại cabin ông ta càng sớm càng tốt.

- Tốt lắm.

Nhà truyền giáo dụi mắt và nhận ra mình đã mặc cả quần áo mà ngủ thiếp đi. Ông kéo lại chiếc ca vát, vuốt chiếc áo khoác nhàu nhè cho thẳng rồi vắt chân qua chiếc giường hẹp để đứng lên.

- Có phải là tôi được mời đến vì một điều gì đó đặc biệt cấp bách không?

Viên chuẩn uý tập sự nhanh nhẹn nói:

- Tôi nghĩ là đêm qua đô đốc đã viết một bức thư mới cho Hoàng đế Nhật bản. Hiện Thiếu uý Rice đang giữ bức thư đó, và cần có bản dịch trước khi phái đoàn của Nhật tới.

Armstrong hỏi giật giọng:

- Người Nhật sắp đến à? Đã thấy bóng dáng gì của thuyền họ chưa?

- Chưa đâu, Ngài Armstrong. Nhưng thiếu uý Rice nói rằng đô đốc tin rằng họ sẽ sớm xuất hiện thôi.

Armstrong hít vào một hơi dài và nhíu mày:

- Tôi hy vọng rằng ông ta đoán đúng. Hàng ngàn sinh mạng của người Mỹ có thể tuỳ thuộc vào điều đó.

- Thưa ngài, thiếu uý yêu cầu tôi nói lại là đô đốc đặc biệt lưu ý rằng những ai tham dự vào các công việc ngày hôm nay cần phải ngắn gọn và chính xác tối đa.

Armstrong lạnh nhạt nói:

- Cám ơn, ông Harris. Ông rất được việc.

Viên chuẩn uý đã quay người định chạy đi nhưng nhà truyền giáo giơ một tay về phía anh ta bảo chờđã:

- Anh có nghe thấy cái tiếng đều đều như tiếng búa gõ kia không?

- Có, thưa ngài. Suốt đêm như vậy.

- Anh có biết nó là cái gì không?

- Không, thưa ngài. Dường như không ai biết cả. Nó vọng đến từ bờ - bên kia vách đá dọc bờ vịnh. Âm thanh vang qua mặt nước rất rõ.

Armstrong bối rối gật đầu rồi đứng dậy.

- Thê còn những đội quân của Nhật trên bờ biển? Sáng nay bọn chúng sẽ làm gì?

- Ngài Armstrong, trông có vẻ như đã rất nhộn nhịp. Có rất nhiều cuộc chuyển quân. Thiếu uý Rice nghĩ rằng chúng đang phô bày lực lượng - hoặc là chuẩn bị cho chiến tranh.

- Ra vậy. Vậy anh hãy nói với thiếu uý là tôi sẽ có mặt ngay sau khi thay quần áo.

- Được ạ, thưa ngài Armstrong.

Mặc dù không cần thiết phải tỏ ra trịnh trọng với nhà truyền giáo, viên chuẩn uý vẫn kính cẩn cúi chào trước khi quay lại và chạy đi, một tay đặt lên chuôi thanh đoản kiếm vẻ rất quan trọng.

Khi anh ta đã đi khỏi, Armstrong với tay lấy áo khoác và rót nước lạnh vào bồn để rửa mặt và tay. Sau khi thay áo sơ mi và ca vát, ông ngừng lại một lúc để lắng nghe tiếng búa nện không ngừng từ bờ vọng đến rồi khoác áo lên người và bước nhanh đến cabin của viên thiếu uý cầm cờ. Khi bước vào ông thấy Rice đang cúi xuống một tấm bản đồ viết lại chi tiết những chiều sâu do tàu Mississippi và những thuyền nhẹ đo được ngày hôm qua. Sau khi chào hỏi nhà truyền giáo, viên sĩ quan trẻ nhìn lên, vẻ mặt rất vui vẻ:

- Ngài Armstrong, các thuyền khảo sát đã đo được toàn bộ chiều sâu dọc đường vào vịnh, dài mười hai dặm. Dưới đáy có bùn nhão, và luồng vào nói chung là đều đặn cho đến tận điểm xa nhất mà họ đến được.

Nhà truyền giáo cay độc hỏi:

- Đó là lý do để ăn mừng ư?

- Phải, chính vậy. Giữa luồng chiều sâu đạt đến hai mươi sải. Hai bên đo được chiều sâu bãi bùn khoảng năm sải. Như vậy có vẻ như toàn bộ hạm đội có thể an toàn tiến vào đến tận Yedo...

Armstrong điềm đạm nói:

- Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng sẽ không cần phải làm một điều gì thật đặc biệt, thiếu uý ạ. Chúng ta đã đạt được những bước tiến tốt nhất trong đàm phán bằng biện pháp hoà bình. Chắc chắn đó là phần thưởng lớn lao nhất của chúng ta.

Rice lại cúi xuống tấm bản đồ và viết lên một con số khác:

- Đô đốc của chúng ta tin tưởng rằng những thắng lợi của biện pháp hoà bình được bảo đảm tốt nhất bằng cách chuẩn bị hành động một cách táo bạo và cương quyết với lực lượng và vũ khí - nếu cần thiết thì sẽ thể hiện thật sự.

Armstrong dịu dàng hỏi:

- Liệu Đô đốc có băn khoăn tí ti nào đến hàng trăm sinh mạng của người Mỹ đang bị ông ta đẩy vào vòng nguy hiểm không? Hay là ông không bao giờ nghĩ đến những điều như vậy?

Rice chậm rãi nói:

- Tôi không thể biết hết mọi ý nghĩ không nói ra của Đô đốc. Nhưng xin nhớ rằng chính mạng sống của ông ta cũng bị nguy hiểm. Và tôi tin chắc ông tin tưởng là việc chuẩn bị sẵn sáng để tấn công là biện pháp tốt nhất để phòng bị - cho bản thân ông cũng như cho tất cả mọi người khác.

- Nhưng những công việc chuẩn bị phòng thủ trên bờ biển kia đang tăng lên từng giờ, bất chấp hoả lực tiên tiến của chúng ta - nhà truyền giáo khăng khăng nói - Họ có thể có tới vô hạn những con người mang vũ khí thô sơ hơn chúng ta. Vũ khí thì cổ lỗ, nhưng họ biết cách tự hào và biết chiến đấu tay đôi dữ dội. Tại sao chúng ta lại nên mạo hiểm đẩy họ vào một cuộc chiến đấu đẫm máu và sinh tử vào lúc này?

Rice tiếp tục bận bịu với những tấm bản đồ của mình, giọng anh ta rắn lại:

- Tôi không nghĩ là đô đốc sẽ cởi mở đến mức nói với ngài về việc người ta nên làm thế nào để trở thành người văn minh, ngài Armstrong ạ. Vì thế tôi nghĩ có lẽ ngài nên gác những phán xét của mình lại đã, ít nhất là trong lúc này.

Nhà truyền giáo nặng nề hỏi:

- Vậy thì chính xác là đô đốc nghĩ rằng sẽ phải đợi bao nhiêu lâu để biết kết quả? Cần bao nhiêu lâu nữa các quả đấm đó mới giáng vào mặt chúng ta?

Rice vẫn bình tĩnh trả lời:

- Một đòn thăm dò hôm qua đã được tàu Mississippi đánh thử. Đô đốc đã cân nhắc và đưa ra một ân tượng về con tàu đang xả hơi nước tiến thẳng về phía kinh đô. Và con tàu đã đi tiếp sâu vào Vịnh Yedo xa hơn bất cứ con tàu ngoại quốc nào trong suốt ba thế kỷ nay tiến được.

Armstrong lắc đầu nói:

- Có lẽ như vậy cũng chẳng phải một thành tựu gì lớn lắm nếu như kết quả là mọi việc trở nên tồi tệ đi.

Rice vẫn điềm đạm nói tiếp:

- Mục đích là khuấy động người Nhật và thúc đẩy một câu trả lời nhanh chóng hơn đối với yêu cầu của chúng ta về việc chuyển giao bức thư của Tổng thống. Và rõ ràng là điều đó đã có tác dụng, bởi vì cái chuồng chim câu Nhật Bản đã bị náo động lên hơn bao giờ hết. Đô đốc nghĩ là chúng ta sẽ không phải đợi thêm lâu nữa.

Armstrong nghiêm khắc nói:

- Bước đi một cách mò mẫm như vậy sẽ dẫn đến những mạo hiểm rất lớn. Sớm nay trước khi tỉnh dậy tôi có một cơn ác mộng khủng khiếp. Tôi cảm thấy tôi đang bị đưa lên thập tự giá bởi vì những gì chúng ta đang làm ở đây.

Rice tiếp tục nói, bỏ qua lời tâm sự của nhà truyền giáo:

- Đô đốc đã từng chỉ huy những đội quân đã chiến thắng lừng lẫy trên bờ biển Mexico. Ở châu Phi ông cũng đã cho đổ bộ một lực lượng vũ trang và tấn công đột ngột vào chính giữa một sào huyệt của bọn cướp biển....

Armstrong nóng nẩy phán đối:

- Nhật Bản là một cái đơm cá khác hẳn với sào huyệt của bọn cướp biển ở châu Phi. Không thể so sánh hai sự việc đó với tình huống ở Nhật Bản lúc này được....

- Trong cả hai trận đó đô đốc đều đạt được mục đích của mình mà không hề có thiệt hại nào. Vì thế ngài có thể yên tâm rằng đô đốc là người biết rất rõ mình đang làm gì, bằng vào những kinh nghiệm có được.

Viên thiếu uý dừng lại và cầm lên một tờ giấy da bê trên đó có bức thư ngắn được viết bằng nét chữ mạnh mẽ rõ ràng của Đô đốc Perry và đưa cho Armstrong:

- Đô đốc yêu cầu ngài dịch bức thư mới này để gửi cho Hoàng đế sang tiếng Đức và tiếng Nhật và chúng ta sẽ chuyển nó cho phái đoàn Nhật ngay khi họ tới.

Nhà truyền giáo đọc lướt nhanh bức thư có chữ ký của Perry. Không có gì khác ngoài việc ông chính thức nhắc lại rằng với tư cách là đô đốc chỉ huy Hạm đội Hải quân Mỹ ở Đông Ân, ông muốn gặp một quan chức cao nhất của Hoàng đế Nhật Bản càng sớm càng tốt để có thể đệ trình một thông điệp khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ. Thêm vào đó, đồng thời ông muốn chuyển bức thư uỷ nhiệm cho cá nhân ông. Armstrong đọc nhanh bức thư một lần nữa rồi liếc nhìn Rice vẻ dò hỏi:

- Thiếu uý, bức thư này xem ra cũng không thêm được mấy tí cho vị trí của chúng ta. Mục đích đằng sau nó là gì?

- Suốt ba ngày nay chúng ta rất ít tiếp xúc với người Nhật - Rice đáp, đặt bút sang một bên và ngước nhìn nhà truyền giáo vẻ chăm chú - tôi nghĩ rằng mục đích đầu tiên của bức thư này là nhấn mạnh quyết định của đô đốc giữ vững lập trường đã nêu trong đề nghị đầu tiên cho đến khi nào đạt được sự thoả mãn đề nghị đó. Tôi cũng được lệnh phải nói rằng quan trọng nhất cần phải dịch đúng từng từ với ý thức đó trong đầu.

Nhận thấy giọng viên sĩ quan đã chuyển sang mệnh lệnh chính thức không cho phép tranh cải nữa, Armstrong nhận lệnh một cách thản nhiên và không nhận xét gì. Ông chỉ khẽ hỏi:

- Tôi có thể coi rằng cuộc gặp gỡ hôm nay cũng sẽ được tiến hành theo cách thức giống như những lần trước không?

- Phải. Đô đốc Perry sẽ vẫn không ra mặt giám sát cuộc đàm phán. Nhưng ông lường trước rằng người Nhật có thể sẽ cố gắng sử dụng một chiến thuật trì hoãn mới - hoặc lại chơi trò dềnh dàng tranh thủ thời gian như những lần trước. Ông nghĩ rằng bọn họ thậm chí sẽ có thể một lần nữa yêu cầu chúng ta đến Nagasaki. Dĩ nhiên là ông sẽ chống lại tất cả những mưu mẹo đó. Và một lẩn nữa đô đốc yêu cầu ngài giúp đỡ bằng cách đảm bảo ngôn ngữ ngài dịch sẽ tỏ rõ rằng quan điểm của chúng ta là vững chắc và không thể lay chuyển. Tôi tin rằng như vậy là đã rõ?

Armstrong nghiêng đầu chấp nhận:

- Hoàn toàn rõ, thưa thiếu uý. Bây giờ tôi sẽ về cabin để dịch bức thư.

Nhà truyền giáo quay ra phía cửa, rồi dừng lại cân nhắc từng lời thì thầm:

- Thiếu uý, tôi có thể hỏi rằng đô đốc có nhắc gì đến vấn đề Roberd Eden không?

Rice lắc đầu:

- Không, ngài Armstrong. Tôi không thấy có cuộc thảo luận nào mới về chuyện thiếu uý Eden. Ngài có điều gì đặc biệt khi hỏi như vậy không?

Nhà truyền giáo nhún vai:

- Không. Ngoại trừ việc đến lúc này anh ta mất tích đã ba ngày rôi. Một số thuỷ thủ đã chú ý đến sự vắng mặt của anh ta và người ta đang xì xào bàn tán. Tôi đang phân vân không biết khi người Nhật đến đây chúng ta có nên hỏi họ xem có tin gi chính thức về anh ta không.

Viên thiếu uý lắc đầu kiên quyết:

- Mệnh lệnh của đô đốc về cuộc gặp gỡ ngày hôm nay là rất rõ ràng: không được phép đưa ra thêm một chủ đề nào khác dù bất cứ là gì đi chăng nữa, để tránh nguy hiểm cho cuộc đàm phán.

Armstrong hỏi, trong giọng ông có đôi chút phản kháng:

- Nhưng đô đốc không hề có nhận xét gì đối với những thông tin riêng mà tôi đã chuyển cho thiếu uý sáng hôm Chủ nhật ư? Phải chăng không có gì đáng chú ý khi biết thiếu uý Eden đã bị phát hiện ở xa hơn Uraga và sau mấy trận đụng độ anh ta đã bị truy tìm sâu trong đất liền?

Rice khăng khăng nói:

- Không hề nói bất cứ điều gì cả!

Armstrong hỏi:

- Nhưng tại sao? Tại sao tất cả mọi người thờ ơ với số phận của Eden đến thế?

- Ngài Armstrong, vấn đề này rất rắc rôi, nhưng ngài ắt phải hiểu. Và những thông tin ngài chuyển lại hoàn toàn là không chính thức. Có lẽ cũng có chút gì trong đó....

Armstrong định trả lời, nhưng rồi dường như đổi ý. Đứng trên bậc cửa ông nghểnh đầu lắng nghe tiếng búa gõ chan chát vẫn còn vang lên rất rõ giữa tiếng cồng và tiếng chuông ồn ào xung quanh.

Nhà truyền giáo lẩm bẩm:

- Tiếng trống dường như to hon lúc nảy. Và khẩn cấp hơn.

Thiếu uý Rice cũng lắng nghe một lúc rồi đứng dậy sau chiếc bàn để bản đồ của anh ta, vẻ mặt đột nhiên hoà giải:

- Vì tất cả các lý do có thực, Roberd Eden và người thuỷ thủ bị đắm tàu vẫn được đưa vào danh sách "những người bị mất tích". Nếu như họ quay về tàu thì có thể sẽ bị bắt giữ về tội không tuân lệnh. Nhưng vì không hề có một lời nào chính thức về họ, cho nên tốt nhất có lẽ vẫn là nên chơi trò lờ đi - anh ta dừng lời nhìn nhà truyền giáo vẻ dò xét - Ngài có nghe gì thêm từ người phiên dịch Nhật không?

Armstrong khoát tay và lắc đầu:

- Không, không có gì cả. Hôm qua tôi đã thử cố nói chuyện với ông Haniwara, mặc dầu họ chỉ ở trên thuyền có vài phút. Nhưng ông ta tỏ ra rất kỳ quặc. Sáng hôm Chủ nhật ông ta tỏ ra chú ý lắng nghe những điều tôi nói về Eden và cho tôi biết tin tức mà tôi đã chuyển cho ông. Nhưng lần này ông ta không chú ý tới câu hỏi của tôi và nhìn tôi cứ như tôi không hề tồn tại. Cử chỉ của ông ta có cái gì đó bứt rứt.... Làm cho tôi nghĩ là ông ta đang che giấu một điều gì đó.

Một thoáng lo ngại hiện ra trên mặt viên thiếu uý giữ cờ, nhưng anh ta chưa kịp trả lời thì tiếng những bước chân vội vã vang lên trên bậc thang gần đó. Một giây sau chuẩn uý Harris xuất hiện và cúi chào lịch sự. Anh ta vui vẻ ngắt lời Rice:

- Xin lỗi, thưa ngài. Phái đoàn Nhật đang đến! Thuyền của họ đang ghé vào cửa lên.

Rice nói dứt khoát:

- Cảm ơn, ông Harris. Hãy quay lên boong chính và hướng dẫn các vị khách vào cabin thuyền trưởng, như lần trước. Chúng tôi sẽ đến sau.

Trong khi chàng học viên sĩ quan vội vã tuân lệnh chạy đi, Rice mỉm cười và cầm thanh kiếm lên ra hiệu cho nhà truyền giáo đi trước:

- Đúng như chúng ta đoán, ngài Armstrong, câu trả lời đến rất nhanh. Tôi nghĩ ngài sẽ đồng ý là điều đó chứng minh rằng chiến lược của Đô đốc là rất có hiệu quả.

- Trước khi đưa ra lời khen ngợi tôi còn cần chờ xem thực chất câu trả lời đó là gì cái đã - nhà truyền giáo trả lời, đi nhanh ra khỏi cabin - và tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu như vấn đề tiến triển hoàn toàn đơn giản như ông hy vọng.