Chương 42
BÌNH MINH ĐÃ LÓ ĐƯỢC MỘT LÚC, trên boong chỉ huy tầu Susquehanna, Samuel Armstrong nâng ống kính viễn vọng lên mắt và nghi hoặc nhìn vào bờ. Màn sương cuồn cuộn vẫn còn bao phủ thung lũng xa mờ, nhưng mặt trời đang mọc đã bắt đầu chọc thủng màn sương. Ông chậm rãi lia ống kính một vòng dọc theo những nếp vải ngụy trang mới mọc lên sau một đêm trên những mỏm đá gần nhất. Từng dòng người đông chưa từng thấy lúc này đang di chuyển tới lui phía sau những tấm vải ngụy trang xanh và trắng, họ mang dáo mác và súng trường trên vai. Nhiều bức tường bằng vải cũng vừa được dựng lên thêm quanh các pháo đài, súng ống cũng được tăng cường càng làm nổi rõ vẻ vững chãi của các pháo đài đó.
Ông cũngnhận thấy nhiều lá cờ đuôi nheo màu đỏ tía cùng những lá cờ mang các huy hiệu và phù hiệu khác nhau được kéo lên trên các cột cao đỡ các tâm vải. Qua ống kính viễn vọng ông thấy cả những phân đội vũ trang mới mặc áo chiến vạt dài thắt lưng rộng bản - màu nâu thẫm, loại áo mà trước đây chưa từng xuất hiện - Thoạt nhìn, những đốm màu đó dường như chỉ tô thêm một vẻ mới mẻ cho quang cảnh nghi lễ lộng lẫy trên bãi biển, nhưng rồi ông nhận thấy các chiến sĩ đó đều tay không. Sau khi quan sát kỹ cách chuyển động của họ ông quả quyết rằng vẻ dứt khoát trong cung cách của họ cho thấy họ rất sẵn sàng thậm chí đã nôn nóng để hành động. Ông kết luận là những dải biểu ngữ và những tâm màn xa lạ dường như được dựng lên với mục đích phòng vệ nhiều hơn là khoa trương.
Không hề có ngọn gió nào làm xáo động mặt nước vịnh phẳng lặng. Đàng xa sau mỏm đất phía nam những tiếng búa và tiếng động của một công trường xây dựng vần tiếp tục vang đến. Armstrong lắng nghe một lúc, một lần nữa ông lo âu băn khoăn không biết điều gì sẽ xảy ra khi lên bờ. Nhưng tâm trí ông không thể phỏng đoán chuyện sắp tới lâu hơn nữa, bởi vì trên boong tàu Susquehanna và ba chiếc tàu kia, lúc này đang thả neo ngay trước cửa ngõ Uraga cũng đã ồn ào như ong vỡ tổ. Người ta đang chuẩn bị để có thể tiến vào vị trí một cách trơn tru.
Những động cơ của mấy con tàu vừa được khởi động đang nổ bình bịch và những làn khói đen lại uể oải tuôn ra từ mấy cái ống khói đen sì cao lừng lửng. Đạn được xếp gọn ghẽ thành từng đống hình tháp bên cạnh các khẩu đại bác, sẵn sàng để dùng. Các thuỷ thủ gọn gàng trong những bộ quần áo mới được là ủi. Ao sơ mi màu trắng, quần màu xanh thầm, cổ áo xanh lơ, khăn quàng đen, họ chạy lên chạy xuống từ boong trên xuống boong dưới, ve vẩy những chiếc mũ xanh mới tinh mới được phát nhân dịp này. Những chiếc mũ có gắn một dải băng ba màu đỏ, trắng và xanh - và mười ba ngôi sao tượng trưng cho mười ba bang của Hợp chủng quốc được thêu trên nền trắng. Lính hải quân mặc bộ đồ truyền thông gồm áo jacket xanh lơ quần trắng đang bận rộn chải những chiếc mũ có ngù và những dải băng họ đeo chéo qua ngực. Armstrong đảo mắt hết nhìn những con tàu lại nhìn lên bờ, buồn rầu nghĩ rằng nếu như ngày hôm nay sẽ kết thúc bằng máu và chém giết thì các chiến sĩ cả hai bên sẽ phải làm tròn nhiệm vụ của mình bằng cách dàn trận thật mỹ mãn và thực hiện chiến công khủng khiếp này.
Nghe thấy tiếng chân nhẹ nhàng bước đến phía sau, Armstrong quay lại và thây Đô đốc Mathew Perry đang đến gần. Mặc dầu không đội mũ và đeo kiếm, nhưng vị đô đốc chỉ huy hạm đội cũng rất chỉnh tề trong bộ lễ phục đầy đủ. Hai ngù vai mạ vàng làm đôi vai rộng của ông càng thêm rộng hơn, giữa hai hàng cúc áo bằng vàng trên ngực áo thẩm màu được tô điểm thêm bằng những trang trí hình ngôi sao. vẫn như thường lệ mái tóc đen, quăn của ông rủ xuống cổ áo nhưng cái đầu sư tử vẫn rất gây ấn tượng khi ông quan sát dải bờ biển dày đặc các pháo đài mà không cần ống nhòm.
Armstrong nhìn theo ông về phía các pháo đài và khẽ nói:
- Xin chào, thưa Đô đốc. Dường như quanh các pháo đài nhộn nhịp hơn bao giờ hết thì phải.
Mathew lẩm bẩm chào không thành tiếng, nhưng không nói gì hơn. Sau khi chăm chú nhìn vào màn sương dày đặc hồi lâu, ông nghiêng đầu lắng nghe giống như vẻ của một con thú lớn đánh hơi trong không khí, rồi ngẩng nhìn lên bầu trời sáng sủa. Ông thờ ơ nói mà không nhìn nhà truyền giáo kiêm phiên dịch:
- Sáng nay không có tí gió nào, ông Armstrong nhỉ. Như vậy có nghĩa là mấy chiếc thuyền buồm sẽ không thể tiến gần vào bờ hơn nữa. Vì vậy tàu Plymouth sẽ ở lại đây, chĩa súng vào Uraga - ông dừng lại một lát, nhìn bao quát lại phía bắc - Saratoga sẽ có thể chĩa súng vào thành phố tiếp theo kia và các pháo đài vây quanh nó...
Armstrong nói:
- Tôi nghĩ trên bản đồ thành phố đó gọi là Humai, thưa đô đốc. - Vậy thì Saratoga sẽ khống chế Humai.
Viên đô đốc lại im lặng. Ông ta chú ý tới những pháo đài gần nhất và số các binh lính mỗi lúc một đông đang di chuyển gần Uraga. Trong khi quan sát mắt ông nheo lại, nhưng vẫn không đưa ra nhận xét nào.
Armstrong thận trọng thử hỏi:
- Thưa Đô đốc, ngài có nghĩ là sẽ có điều gì không ổn không? Theo tôi thì dường như trong sự di chuyển kia của bọn chúng có lẽ có một sô mục đích mới và khẩn cấp thì phải.
Perry nói gắt:
- Ta không thấy có gì đáng lo ngại về chuyện buổi lễ ngày hôm nay sẽ kết thúc bằng chiến tranh. Mấu chốt để an toàn trở về là chúng ta có thể phô bày tốt nhất sức mạnh hay không.
Armstrong biết rằng chiều hôm qua vào lúc khá muộn, sau khi phái một thuyền nhỏ chở một tốp trinh sát đến Vịnh Kurihama đô đốc đã triệu tập các thuyền trưởng của cả bốn con tàu tới một cuộc họp khẩn cấp trên tàu Susquehanna. Tốp trinh sát đã thận trọng khảo sát vị trí của lâu đài sẽ tổ chức nghi lễ và các pháo đài quanh đấy.
Với những thông tin mới nhất đó, viên đô đốc chỉ huy hạm đội và các thuyền trưởng đã vạch ra chiến lược cho cái ngày quan trọng có tính chất quyết định này. Bản thân Armstrong không được thông báo về chiến lược đó, nhưng vì khá biết rõ viên đô đốc nên ông có thể chắc chắn rằng bản tính táo bạo và thẳng thắn là những đặc tính nghề nghiệp đặc biệt của ông ta chắc chắn sẽ để lại dấu ấn rất rõ nét trong chiến lược này.
Armstrong kính cẩn hỏi:
- Thưa Đô đốc, tôi có thể hỏi rằng chính xác là ngài định sẽ "phô bày" sức mạnh của chúng ta như thế nào không? Việc hiểu rõ điều này sẽ giúp tôi thực hiện nhiệm vụ phiên dịch của mình với mức độ chính xác hơn.
Perry nói:
- Ông Armstrong, chúng ta sẽ bỏ neo cùng với tàu Mississippi và sẽ xả hơi nước ở gần cửa ngõ vào Vịnh Kurihama. Chúng ta sẽ bỏ neo án ngữ cửa vịnh, súng nhồi sẵn đạn và dây neo kéo thật căng. Như vậy chúng ta có thể khống chế nơi đổ bộ một cách thật yên tâm với toàn bộ sức mạnh hoả lực bên mạn tàu. Tôi sẽ cho bổ sung thêm nhiều súng đại bác nòng ngắn đặt trên các thuyền nhẹ chở người. Những thuyền đó sẽ được thả khỏi mạn thuyền khi chúng ta lên bờ. Những thuyền này sẽ ở tư thế luôn sẵn sàng hành động bất cứ lúc nào khi có tín hiệu.
- Và ngài sẽ đem theo bao nhiêu người lên bờ?
- Ba trăm hoặc hơn nữa! Một trăm mười lính hải quân, một trăm hai mươi thuỷ thủ, bốn mươi lính quân nhạc lấy từ ban nhạc của hai tàu và một số lớn các sĩ quan. Một người sẽ đeo một thanh kiếm, một khẩu súng ngắn hoặc súng trường. Tất cả súng ống đều lên đạn sẵn. Trong đội hình còn có thêm một ngàn băng đạn - và một trong mười lăm con thuyền sẽ chở các hòm đạn dự trữ!
Armstrong khô khan nói:
- Con số đó có thể có vẻ như quá mức đối với việc hộ tống cho việc chuyển giao một cách hoà bình một bức thư ngoại giao. Nhưng nếu như chiến sự nổ ra, thì theo đánh giá khiêm tốn nhất của chúng ta cũng thấy Nhật Bản có ít nhất mười ngàn quân lính vũ trang đã sẵn sàng đối đầu với chúng ta.
Perry khinh miệt nói:
- Nhưng chính xác là họ được trang bị những vũ khí như thế nào, hả ông Armstrong? Chẳng có gì đáng nguy hiểm cho chúng ta cả, tôi đảm bảo điều đó.
- Bởi vì tôi sẽ ở bên cạnh ngài, thưa Đô đốc, cho nên tôi hy vọng ngài sẽ không đánh giá quá thấp tinh thần chiến đấu của người Nhật. Họ vẫn được coi là những chiến sĩ dũng mãnh.
Perry cắt ngang một cách quả quyết và giơ ống nhòm lên quan sát các đỉnh núi:
- Ông Armstrong, nếu ông còn nghi ngờ thì hãy đi mà nói với người khác. Tất cả mọi người Mỹ mà tôi đã nói chuyện đều tin rằng chúng ta có thể đẩy lùi bất cứ số lượng người nào mà chỉ cần sử dụng hoả lực của một bên mạn tàu, một tiếng hô xung trận và một sự quyết đoán của một ý chí lạnh lùng như sắt thép.
Armstrong ngọt ngào nhận xét:
- Tôi băn khoăn không biết Robert Eden có thể khẳng định quan điểm như vậy hay không. Tất nhiên là với điều kiện là anh ấy còn sống để có thể khẳng định điều gì.
Người phiên dịch quay lại để nhìn viên Đô đốc hạm đội vẻ dò xét, nhưng nếu như có nghe thấy nhắc đến viên sĩ quan mất tích thì ông ta cũng không tỏ vẻ gì. Có đến một phút ông tiếp tục chăm chú xem xét bờ biển qua ống kính viễn vọng, rồi đống sập ống kính bằng một cử chỉ quả quyết. Ông nhìn thẳng vào nhà truyền giáo và nói:
- Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự dũng cảm của những người dưới quyển chỉ huy của tôi. Và vào thế mạnh của hoả lực chúng ta. Tôi tin rằng ông làm nhiệm vụ phiên dịch hôm nay cho buổi hội kiến này cũng sẽ phản ánh sự tin tưởng đó. Bây giờ, xin ông tha lỗi, tôi phải đi và chuẩn bị nhật lệnh. Chúng ta cần phải cuốn neo sớm.
Thân hình đồ sộ của viên đô đốc lướt rất nhanh qua boong chỉ huy về phía cabin của mình. Armstrong nhìn theo ông ta cho đến khi khuất hẳn. Ông quay lại để nhìn vào bờ lần nữa, nhà truyền giáo cảm thấy một sự nghi ngại mới đột ngột chạy suốt sống lưng - Một lần nữa ông lại băn khoăn về sô phận của chàng thiếu uý đã biến mất lên bờ một cách đột ngột sáu ngày trước. Trong khi suy nghĩ như vậy ông vẫn không thể nào gạt bỏ cảm giác rằng có một cái gì đó thật không hay trong việc hoàn toàn không hề có một tin tức gì về anh trong suốt chừng ấy ngày qua.
Màn sương mù mịt vẫn còn giăng trên những dãy đồi núi và đất liền dường như càng làm tăng thêm cảm giác lo âu cho sự an toàn của chính mình. Ông đứng tựa vào hàng lan can, cố xoa dịu nỗi sợ hãi bằng cách hình dung ra việc chính mình đặt chan lên bờ và đi với dáng vẻ đường bệ không hề bối rối giữa vô số những quân lính của quân đội phong kiến Nhật Bản. Nhưng những ý nghĩ đó không hề làm ông bớt lo âu mà chỉ thêm căng thẳng. Thế rồi ông giật bắn mình khi chiếc Mississippi rú còi báo hiệu sắp sửa tiến lên.
Khi lắng nghe tiếng lanh canh của sợi cáp neo tàu Mississippi và nhìn cái bánh lái khổng lồ của nó bắt đầu quạt nước, đột nhiên Armstrong quyết định rằng trước khi tàu cập bờ sẽ làm một việc mà trước đây chưa hề làm. Ông sẽ mượn một chiếc áo khoác màu xanh của sĩ quan và lần đầu tiên trong đời ông sẽ đeo một thanh kiếm! Bởi vì Chúa đã dạy Peter vứt kiếm đi trong Khu Vườn Gethsemane, cho nên ngay lập tức ông biết rằng mình sẽ không bao giờ có thể rút kiếm ra, ngay cả cho dù là để tự vệ. Khi tàu Susquehanna cũng bắt đầu cuốn neo thì ông thầm lý luận rằng nếu như mang một thanh kiếm, thì ít nhất ông sẽ không phải là kẻ duy nhất không thể tự vệ mà chỉ dương mắt nhìn mọi người.
Suốt mấy phút sau đó ông đứng một mình trên boong chỉ huy, nghiền ngẫm cái quyết định đáng kinh ngạc đó. Một phần con người ông cảm thấy nên thay đổi ý định, ông cố tự nhủ mình không biết bao nhiêu lần là niềm tin của ông nơi Chúa cần phải được bảo vệ. Nhưng rồi ông nhận ra lý lẽ đó không đủ làm yên lòng, và ông vẫn không sao tĩnh tâm lại được. Thế rồi khi nhìn những cái bóng của hai con tàu khổng lồ nhả khói đen chậm chạp lướt về hướng nam thẳng tới Kurihama, ông lắc mạnh đầu một lần nữa và vội vã đi xuống để tìm người giữ vũ khí của tàu và yêu cầu cấp cho ông một thanh kiếm thích hợp.