Chương 44
KHI HAI CHIẾC SUSQUEHANNA VÀ MISSISSIPPI vòng qua mũi đất mà trước đây người Mỹ vẫn coi đó là Vịnh Kurihama, một sự im lặng đột nhiên bao trùm trên cả hai con tàu. Các thuỷ thủ và hải quân vốn đang bận rộn trong việc chuẩn bị vũ khí và máy móc bỗng im lặng đứng vây quanh các lỗ châu mai và những lỗ trống khác để nhìn vào bờ. Trước sự kinh ngạc của họ, cơ man các chiến binh Nhật đã sẵn sang chờ đón, hàng hàng lớp lớp trải dài khắp bãi biển trên toàn bộ chiều dài bờ vịnh.
Hàng ngàn lính bộ binh, lính bắn cung, kỵ binh cùng dáo mác... đang đứng im phăng phắc bất động trên bờ cát giữa một rừng cờ xí rợp trời chĩa ra biển. Mặt trời rực rỡ chiếu lấp lánh trên những ngọn dáo, ngọn thương và trên những khẩu súng trường báng bằng đồng. Tất cả vây quanh cái vịnh biển có hình chữ thập, hàng trăm thuyền chở đầy ắp những lính cận vệ đã thả neo thành từng nhóm song song đối mặt với hai con tàu Mỹ. Phía cao hơn, sau những khu trại bằng vải rất dài thấp thoáng bóng những samurai cưỡi những con ngựa rất sung sức đi lại một cách trật tự.
Một thung lũng dốc đứng với hai bên vách núi rừng rậm bao phủ đột ngột nhô ra phía trên bãi biển. Người Mỹ có thể thấy rõ là làn sương sớm vẫn còn bao phủ trên các khe núi và những dãy núi. Độ dốc đứng của những quả núi này khiến cho địa hình tụt xuống một cách đột ngột cả về phía khối binh lính khổng lồ đang đứng dưới bãi biển lần về phía cái lâu đài nơi sẽ cử hành nghi lễ. Cách mép nước chỉ khoảng một trăm mét hoặc hơn, toà lâu đài làm bằng vải trắng và xanh lơ và gồm có ba khối hình tháp chồng lên nhau khiến cho những ngôi nhà tồi tàn trong cái làng ở cạnh Kurihama trông thật là nhỏ bé. Cũng giống như các pháo đài trên cao của Uraga và những cứ điểm đặt các khẩu pháo quanh vịnh, toà lâu đài được phủ bằng những tấm màn dài bằng vải buồn nhằm ngụy trang các hoạt động bên trong, và cũng được thêu những phù hỉệu của vương quốc Nippon. Một chiếc cầu tàu tạm thời nhô ra biển ngay chính giữa vịnh, được làm bằng những sọt rơm nhồi cát và một con đường vừa được làm vội dẩn từ cầu tàu lên lối vào lâu đài.
Samuel Armstrong đứng trên boong tàu nhìn cái quang cảnh kỳ vĩ đó, bên cạnh ông là viên sĩ quan cao cấp Corps. Ông này đang chuẩn bị dẫn đầu đạo quân vũ trang sẽ đổ bộ lên bờ. Armstrong kinh ngạc lẩm bẩm:
- Bây giờ chỉ còn cần phải chờ xem xem chúng ta sẽ bị đánh tơi bời thế nào mà thôi.
Viên thiếu tá đang nhìn bao quát toàn bộ dải bờ biển bằng kính viễn vọng đáp:
- Không có lý do gì để phải hốt hoảng đâu, ngài Armstrong. Nhìn gần sẽ thấy hàng ngũ của bọn chúng rất lỏng lẻo. Điều đó có nghĩa là bọn chúng thiếu một quy củ thật sự. Với lại người của chúng trông có vẻ ẻo lả và nhỏ bé.
Viên sĩ quan hải quân có bộ ngực vạm vỡ đứng thẳng băng cao tới hơn một mét tám. Ông ta hạ ống nhòm xuống và đưa cho nhà truyền giáo rồi ngạo nghễ vẫy bàn tay đeo găng trắng về phía trụ cột buồm nơi các sĩ quan trẻ đã bắt đầu tập hợp những hải quân vạm vỡ nhất đã được lựa chọn cẩn thận để thành lập lực lượng đổ bộ lên bờ, ông ta nói tiếp:
- Ngài Armstrong, về con người mà nói thì chúng ta to cao hơn và khoẻ hơn - và chúng ta có kỷ luật tốt hơn. Nếu như cái con sư tử kia mà thử cắn chúng ta thì tôi nghĩ là chúng ta sẽ làm được việc gì đó nhiều hơn là xoắn đuôi nó.
Armstrong nhìn qua cái ống nhòm rồi đưa trả lại, vẻ mặt nghi ngờ cho thấy ông không chia sẻ sự tự tin của viên sĩ quan lâu năm. Ông chỉ khẽ nói:
- Quá khứ phong kiến đang đối chọi với sức mạnh mới của thế giới hiện đại ngay trước mắt chúng ta kia. Không biết rằng hậu quả sẽ ra sao - bây giờ hay sau này cũng vậy. Tôi sẽ chỉ biết cầu nguyện hết lòng mà thôi.
Thiếu tá Pearsall cười và vỗ nhẹ vào vai nhà truyền giáo:
- Ngài Armstrong, bản thân tôi cũng tin vào Chúa. Nhưng tôi cũng tin cả vào sự vững vàng của quân lính dưới quyền tôi, tin vào sức khoẻ của họ và vào kết quả đào tạo họ.
Thế rồi ông ta đu đưa trên gót chân và vội vã đi xuống boong dưới, ở đó một vài sĩ quan chỉ huy tham gia vào lực lượng đổ bộ đã bắt đầu diễn tập lại một lần nữa. Armstrong cũng xích lại gần để nhìn. Với quan niệm rằng trên đất Nhật người ta chưa bao giờ nhìn thấy những người như thế này, hai thuỷ thủ da đen trông rất hùng dũng với đôi vai rộng và bắp thịt cuồn cuộn đã được đô đốc Perry đích thân chọn lựa để đi cạnh ông như hai vệ sĩ riêng. Cả hai người đều cao gần hai mét. Đứng lừng lững trên boong trông họ dường như có một sức lực dị thường với khẩu súng trường hiện đại nhất có ổ quay và lưỡi lê quàng chéo qua ngực, thắt lưng dắt súng lục và các băng đạn.
Hai thuỷ thủ da trắng cũng cao chẳng kém hai người kia được cử cầm quốc kỳ và cờ hiệu của đô đốc. Đứng giữa họ là hai thuỷ thủ trẻ chịu trách nhiệm mang thư của Tổng thống Hoa Kỳ và thư uỷ nhiệm của Đô đốc. Mặc đồng phục thuỷ thủ hai màu xanh trắng vẻ mặt hân hoan cho thây họ rất vui thích khiđứng vào vị trí của mình. Armstrong nhìn theo hai viên sĩ quan tập sự đặt bức thư viết trên giấy da dê thật cẩn thận vào chiếc hộp gỗ hồng bịt vàng rồi bọc chúng bằng vải đỏ trước khi đưa cho hai thuỷ thủ trẻ.
Dàn nhạc của tàu đã tiến lên phía trước, và khi tất cả đã đâu vào đây, đội hình hành quân vài bước quanh boong tàu trong khi thiếu tá Pearsall đóng vai đô đốc đứng giữa hai vệ sĩ da đen. Còn chính Perry thì không hề xuất hiện trên boong kể từ khi họ vòng qua mũi đất và Armstrong băn khoăn không hiểu có phải đó là bằng chứng cho việc ông ta hoàn toàn tự tin trong tình huống này hay là có thể ông ta đang bí mật nghiên cứu bãi biển được canh gác cẩn mật từ một chỗ kín đáo nào đó trên boong tàu. Sự phỏng đoán đó làm dấy lên trong ông một cảm giác hồ nghi mới, ông cố tình đặt tay lên đốc thanh kiếm xa lạ đang lủng lẳng một cách khó chịu nơi thắt lưng ông. Cứ mỗi khi ông bước đi thanh kiếm cùng với cái bao lại đập vào chân hoặc vào vạt áo khoác, và bằng một cử chỉ hốt hoảng ông lại phải gạt nó sang chỗ khác.
Thiếu uý Rice chợt cắt ngang dòng suy nghĩ của ông khi tàu Susquehanna bắt đầu quay mạn để ghé vào bờ:
- Ngài Armstrong, chúng ta sắp sửa thả neo. Các viên quan Nhật dẫn đường sắp sửa lên tàu.
Armstrong quay lại và chỉ nhìn thấy vai viên thiếu uý cầm cờ, anh ta đang quay đi để nhìn vể phía sáu chiếc thuyền đang đậu song song với mạn con tàu chiến bởi vì lúc đó họ đang thả neo. Hai trong sáu chiếc thuyền đó cắm lá cờ với hai màu đen trắng bây giờ đã trở nên khá quen thuộc của Thống đốc Uraga. Armstrong đã nhận ra khuôn mặt của viên Thống đốc và người phiên dịch Haniwara Tokuma giữa đám đông những viên quan rõ ràng đang sắp sửa bước lên tàu. Bốn chiếc thuyền tuỳ tùng, cắm những lá cờ đỏ như các thuyền cảnh giới khác. Khi thấy cái bánh lái khổng lồ của tàu đột ngột đổi hướng để chèo về phía mũi tàu nơi lúc này người ta đã bắt đầu thả thang xuống.
Armstrong hỏi, tay vẫn vô tình mân mê đốc kiếm:
- Đô đốc có muốn tôi có mặt ở cửa thang kia để đón các viên quan này không? Và để làm họ yên lòng khi bước lên tàu?
Viên thiếu uý quả quyết lắc đầu:
- Không. Các chuẩn uý của chúng ta sẽ đón họ, Các chuẩn uý sẽ dẫn họ đến chỗ các ghê dựa kê bên cạnh lan can tàu. Đô đốc muốn sáng hôm nay sẽ không một ai có bất kỳ một tiếp xúc nào bằng lời nói với người Nhật. Mọi liên lạc sẽ chỉ được diễn ra trên bờ.
Armstrong nhướng mày ngạc nhiên:
- Thiếu uý, tại sao lại như vậy? Có phải là ông ta ngại rằng tôi sẽ có một vài câu hỏi không hay ho gì về Robert Eden không?
Rice trả lời, thận trọng tránh câu hỏi:
- Đô đốc cảm thấy điều đó là cần thiết trong hoàn cảnh phức tạp hiện nay. Dứt khoát là không được phép để một điều gì làm ảnh hưởng đến tình hình bấy giờ, và mệnh lệnh nghiêm ngặt này được áp dụng cho tất cả mọi người.
Armstrong nói giọng rất ngọt ngào:
- Không nghi ngờ gì tất cả những cái đó là để cho các vị khách Nhật Bản của chúng ta có thể chứng kiến toàn bộ các động tác khi chúng ta rời khỏi tàu, nhồi các khẩu đại bác và đẩy ra để chĩa vào bờ biển của họ. Điều đó sẽ giúp họ hiểu một cách rõ ràng là chiến tranh đã sẵn sàng rồi.
Viên thiếu uý cầm cờ hơi cười:
- Vâng, ngài Armstrong, dĩ nhiên là chúng ta đã sẵn sàng. Nhưng sau đó họ sẽ không ở trên tàu lâu. Chỉ trong vòng một phút tôi sẽ ra lệnh thả cho thuyền nhẹ trên tàu xuống. Ngay sau khi thả xong thuyền các vị khách của chúng ta sẽ được mời quay trở lại thuyền của họ và chúng ta sẽ đi theo họ cùng với đoàn hộ tống để lên bờ. Ngài sẽ đi trên con thuyền đầu tiên cùng với Thiếu tá Pearsall và thuyền trưởng tàu Susquehanna. Đô đốc Perry sẽ đi trên thuyền lớn cùng với đoàn hộ tông chính cách thuyền đầu một quãng nhất định. Đi cùng với Đô đốc sẽ gồm có tôi và thuyền trưởng tàu Mississippi.
Nhà truyền giáo lưỡng lự nói, cố giấu vẻ mất tinh thần trước viễn cảnh phái đi trên con thuyền đầu tiên đến giáp mặt với lực lượng phòng bị khổng lồ trên bãi biển:
- Thiếu uý, xin cám ơn anh. Tôi sẽ rất vinh dự... được đi trong số những người đầu tiên lên bờ.
Nhận thấy nhà truyền giáo có bộ ria xám vẫn đang rất bồi hồi vì nhiệm vụ của mình, viên thiếu uý cầm cờ mỉm cười và chỉ về phía boong chính, ở đó người ta đã kết thúc việc tập luyện đổ bộ:
- Ngài Armstrong, có lẽ ngài cần thư dãn đi một lúc. Có thể ngài nên đi dạo một vòng quanh tàu làm quen với cái việc xa lạ là đi lại với thanh kiếm bên hông. Ngài thử làm thế này xem.
Viên thiếu uý cầm cờ cúi xuống sửa chiếc dây đeo kiếm và bao kiếm cho ông, sau đó cười động viên trước khi vội vã quay đi để thực hiện các mệnh lệnh khác.
Vì chiếc thuyền Nhật đã ghé vào cho nên Armstrong đứng trên boong chỉ huy chờ cho đến khi viên Thống đốc Uraga và các tuỳ tùng bước hẳn lên tàu xong. Khi họ được đưa đến những chiếc ghếđã dành sẵn, ông nhận thấy viên Thống đốc ăn mặc lộng lẫy hơn những lần trước với chiếc áo dài sáng lấp lánh bằng lụa nhiều màu điểm những châm màu vang chanh rực rỡ. Phù hiệu dòng họ của ông ta cũng được thêu bằng chỉ vàng trên lưng áo và trên ống tay áo rộng và đung đưa tay trong ông tay áo khi bước đi. Ông ta mặc chiếc quần bằng lụa châm tới gót và đội chiếc mũ sơn mài màu đen có hai cánh chuồn làm tăng thêm vẻ trang trọng cho bộ mặt nghiêm nghị.
Bên cạnh đó, Haniwara Tokuma càng ảm đạm trong chiếc áo đài mầu thẫm hơn viền sa tanh đen trông rất thâm trầm. Ông ta cũng đội chiếc mũnhẹnhõm hơn bằng lụa đen, nhưng trong cử chỉ có cái gì đó không ảm đạm như bộ trang phục khiến cho Armstrong phải nhìn chằm chằm vào viên phiên dịch của Nhật. Gương mặt xanh xao rõ rệt so với trước, thậm chí Armstrong vẫn thấy dường như ông ta gập hẳn người xuống vì căng thẳng khi gượng gạo ngồi xuống chiếc ghê lưng tựa lạ lẫm kiểu phương tây. Trong khi thời gian chậm chạp trôi qua, vẻ gượng gạo của ông càng làm tăng thêm cảm giác bứt rứt vốn có của Armstrong. Khi bắt gặp ánh mắt của viên Thống đốc, Armstrong cúi chào và cũng có cảm giác sâu sắc tương tự khi nhìn vào khuôn mặt ông ta, nhưng viên phiên dịch dán chặt mắt vào sàn tàu phía trước mặt và không một lần nhìn lên.
Ngay cả khi tiếng trống dồn dập vang lên từ phía mũi tàu và tiếng các viên sĩ quan chỉ huy pháo binh bắt đầu hô to các mệnh lệnh để chuẩn bị cho khẩu đại pháo sáu mươi tư bảng hoạt động, Haniwara vẫn không hề ngẩng đầu lên. vẻ mặt của viên Thống đốc và những người còn lại gần như không hề biểu lộ một cảm xúc nào khi nhìn quang cảnh các pháo thủ Mỹ rầm rập chạy qua chạy lại, nạp đạn; mồi súng và nâng nòng súng nặng nề của khẩu pháo để đẩy nó vào vị trí. Nhưng trong suốt thời gian đó viên phiên dịch của Nhật vẫn tiếp tục dán mắt và một chỗ nào đó trước mặt dựa như đầu óc ông ta còn đang lang thang ở một noi khác và vào một thời gian khác.
Khi mọi sự ồn ào đã lắng xuống và mọi việc chuẩn bị cho chiến đấu đã sẵn sàng, Armstrong cảm thấy mình không để tiếp tục đứng yên trên boong chỉ huy như vậy nữa. Ồng liền quay xuống để đi lại trên boong trụ buồm, cố gắng làm dịu đi nỗi bứt rứt của riêng mình đang mỗi lúc một tăng lên. Bây giờ ông lại dừng lại để nhìn qua một lỗ châu mai về phía đám đông trên bãi biển, nhưng lại càng cảm thấy bứt rứt hơn vì sự tề chỉnh và im lặng của hàng ngũ quân Nhật. Càng gần đến giờ đổ bộ, thì trước mắt con mắt lo lắng của ông dường như họ càng tăng thêm quyết tâm chống lại sự xâm lăng.
Trên một doi đất dài nhô lên phía bên kia bãi biển ông thấy một đám đông lớn thường dân đã tập họp lại để theo dõi sự kiện. Dường như họ cũng đứng bất động một cách khác thường để nhìn xuống khu vực sẽ đổ bộ. Quang cảnh ấy khiến ông đột nhiên nhớ tới cảnh quảng trường lớn ở La Mã nơi những tín đồ Thiên Chúa giáo yếu đuối đã bị vứt để lam mồi cho sư tử trước con mắt của đám đông gào thét. Ông chợt rùng mình mặc dầu đang tắm mình trong ánh nắng mặt trời buổi sớm mùa hè, rồi lại tiếp tục đi bách bộ và nhận ra rằng mình đã nhanh chóng học được cách giữ thanh kiếm bằng một tay để có thể bước đi dễ dàng. Cuối cùng nghe thấy tiếng động loảng xoảng khi người ta hạ các thuyền của tàu Susquehanna xuống và tiếng những sĩ quan hô vang các mệnh lệnh để tập hợp lực lượng đổ bộ, ông đành chậm chạp leo lên một cái thang một cách vô cùng miễn cưỡng.
Khi ông lên đến đỉnh thang, một dãy gồm mười lăm chiếc thuyền Mỹ đã đậu bập bềnh thành một hàng dọc theo thành con tàu chiến. Hầu hết chúng đầy ắp các thuỷ thủ mặc áo khoác màu nước biển, dàn nhạc của con tàu cũng đã ngồi trên hai con thuyền. Viên Thống đốc Uraga đã cùng với đoàn tuỳ tùng của mình ngồi yên vị trên hai con thuyền dẫn đường của Nhật, ngay sau khi Armstrong vội vã bước xuống thuyền của viên chỉ huy tàu Susquehanna, cả đoàn thuyền bắt đầu tiến về phía bờ.
Các tay chèo Nhật chỉ đóng khố đến thắt lưng cúi rạp xuống chèo, mỗi nhịp chèo lại hô lấy nhịp theo thói quen và lao vút lên trước. Bị nhịp điệu đó kích thích, các thuỷ thủ Mỹ cũng bắt đầu vung mái chèo với nhịp độ nhanh hơn nhằm bắt kịp, cả đoàn thuyền dài lướt nhanh về phía trước trên mặt nước sáng lấp lánh để lại những vệt dài chậm chạp loang xa về phía sau. Trong khi họ tiến lên Armstrong nhận thấy một số thuỷ thủ trẻ nhìn đăm đăm vào bờ, vẻ mặt nghiêm trang của họ cho thấy nỗi lo âu băn khoăn không biết ngày hôm đó sẽ diễn ra như thế nào. Tuy vậy, mặt khác những tiếng đùa cợt ồn ào khiến cho họ vẫn giữ vững được tinh thần.
Mặc dầu vẫn còn một ít sương mù vương trên dãy núi phía trên Kurihama, mặt trời đã bắt đầu toả sáng rực rỡ trên mặt biển. Ánh mặt trời lấp lánh trên những cái ngù lông của các bộ đồng phục thuỷ thủ, những chiếc mũ mạ vàng và những dải băng bằng vàng trên người các sĩ quan càng thêm rực rỡ. Anh nắng cũng phản chiếu trên những khẩu súng cacbin và những thanh đoản kiếm cắm tua tủa trên các thuyền. Những tia nước từ các mái chèo nhanh vun vút bắn tung toé lên mặt Armstrong và mặc dầu mang tinh thần Thiên Chúa giáo với lòng căm ghét sâu sắc đối với chiến tranh, đột nhiên ông vẫn thấy trong lồng ngực dấy lên một niềm hân hoan rất vô lý. Hai dàn nhạc nổi lên một khúc nhạc vui tươi về biển cả, cứ như là nỗi nguy hiểm của bờ biển Nhật Bản với lò lửa hừng hực đang chờ sẵn họ kia không hề tồn tại. Lần đầu tiên trong ngày hôm nay Armstrong để mặc thân hình mình thư thái dựa lên mạn thuyền. Đúng lúc đó một trong những khẩu đại bác khổng lồ của tàu Susquehanna bắt đầu gầm lên một tiếng làm rung chuyển cả vùng vịnh. Một giây sau phát đạn thứ hai cũng rung lên, và đám đông người Nhật mà Armstrong vừa nhìn thấy đã bắt đầu tan tác về tứ phía . Phát súng thứ ba được bắn từ con tàu đô đốc khiến cho nhà truyền giáo hoảng hốt chui người xuống dưới mạn thuyền.
Thiếu tá Pearsall an ủi:
- Đừng lo, ngài Armstrong. Đó là chỉ mười ba phát súng bắn chào mừng thôi. Lúc này đô đốc đang rời tàu.
Armstrong sợ sệt ngồi thẳng lên quay lại và nhìn thấy viên Đô đốc chỉ huy Hạm đội Hải quân Mỹ đang bước xuống thuyền. Trông ông ta thật là lộng lẫy với chiếc mũ dát vàng, găng trắng, đeo thanh kiếm nghi lễ và bộ lễ phục màu xanh lơ đeo dây vàng. Ông ta dừng lại một tí và có vẻ như quan sát bờ biển một lúc trước khi bước lên thuyền và ngồi xuống. Khẩu đại bác sáu mươi tư bảng tiếp tục khạc đạn điếc cả tai rền vang khắp vịnh. Khi chiếc thuyền bắt đầu ngoan ngoãn tuân theo sự điều khiển của các tay chèo, Armstrong quay nhìn bờ và thấy đám đông thường dân đã vội vã quay lại bãi biển sau khi nhanh chóng nhận ra rằng những tiếng gầm của các khẩu súng của bọn rợ nước ngoài chỉ đơn thuần là tượng trưng và thật ra không có gì là nguy hiểm cả.
Mặc dầu vậy dường nhưng không một ai trong hàng ngàn chiến sĩ Nhật Bản trên bãi biển tỏ ra dù chỉ hơi động đậy. Tất cả các hàng quân đều đứng bất động và im phăng phắc như trước. Armstrong linh cảm thấy mình đang được hấp thụ một bài học tối ư quan trọng về một dân tộc vốn vẫn là một cái gì vô cùng rộng lớn và huyền bí đối với ỏng. Ông nhận thấy ngay cả những sarmurai ăn bận lộng lẫy vẫn đang cưỡi ngựa im lặng sau những bức màn. Mặc dầu có vài con ngựa hí vang và chui đầu khi nghe tiếng gầm của đại bác, nhưng các kỵ sĩ đã nhanh chóng vỗ chúng đứng yên. Tuy hàng ngũ không được thẳng tắp như đội ngủ các lính thuỷ Mỹ, nhưng sự chấp hành nhiệm vụ không hề nao núng thể hiện ở sự yên lặng kỳ lạ đó gây nên một ấn tượng thật mạnh mẽ. Nhà truyền giáo kiêm phiên dịch tiếp tục nhìn toàn bộ hàng ngũ của họ bằng con mắt đầy hoài nghi trong khi đoàn thuyền Mỹ vẫn tiếp tục tiến vào bãi biển.