← Quay lại trang sách

Chương 46

KHI CHIẾC THUYỀN DẪN ĐẦU ĐOÀN THUYỀN Mỹ cập tới chiếc cầu tàu làm bằng những sọt cát và rơm, viên thuyền trưởng tàu Susquehanna đứng dậy. Hàng nghìn con mắt chằm chằm nhìn trong khi ông quan sát bãi biển. Samuel Armstrong ngồi trên chiếc ghê giữa thuyền lại một lần nữa giật mình vì sự im lặng và bất động khác thường của đám đông khổng lồ người Nhật. Những hàng quân gần nhất gồm những tên lính bộ binh đội mũ trụ, mình mặc áo giáp bằng da và sắt, tay cầm hàng bó thương hoặc giáo. Armstrong có thể nhìn rõ những khuôn mặt rám nắng đang cau lại thù nghịch, và dưới những chiếc mũ trụ có sừng nhọn mấy viên tướng đứng đầu mỗi hàng quân cũng trừng trừng nhìn về phía cầu tàu.

Sau khi dừng lại một lúc, viên chỉ huy tàu Susquehanna bước một cách nhẹ nhàng và vững chãi lên ván cầu. Mấy giây sau Thiếu tá Pearsall cũng rút kiếm ra và nhảy lên bờ. Khi những đôi chân đi ủng da của hai viên sĩ quan Mỹ bước ngập vào cát mềm trên bãi biển, một làn sóng những tiếng xì xào giận dữ bật ra khỏi cổ những người lính Nhật đang đứng nhìn - nhưng vẫn không một ai động đậy.

Viên thiếu tá gọi:

- Ngài Armstrong, tốt nhất là ông phải nhanh lên. Và cố ngẩng đầu thật thẳng.

Nhà truyền giáo đến tận lúc này mặt vẫn còn tái nhợt ngồi trong ghế, vội vã bật dậy và bước thẳng lên bờ với một dáng đi vững chắc một cách không ngờ không hề ăn nhập với những tình cảm bên trong. Đột nhiên ông nhận ra rằng đây là lúc biết bao người Nhật đang nhìn những người ngoại quốc mà họ chưa từng bao giờ nhìn thấy chính thức đặt những bước chân đầu tiên lên mảnh đất của họ. Ông cẩn thận giữ cho thanh kiếm không đập vào hai bên đùi trong khi ông nhảy từ thuyền lên bờ.

- Hẳn là Christopher Columbus cũng phải có những cảm giác như thế khi đặt chân lên quần đảo Jamaica bốn trăm năm về trước - Armstrong lẩm bẩm nói, mắt lo âu liếc nhìn lên những lá cờ đuôi nheo lớn đang bay phấp phới giữa quân Nhật.

Thiếu tá Pearsall khô khan nói:

- Có thể. Nhưng khác ở chỗ tôi không nghĩ là vị thuyền trưởng ấy lại có thể quan sát thấy một quang cảnh đầy ấn tượng bằng cái kính viễn vọng này.

Armstrong đặt tay lên đốc kiếm một cách cố ý và bước lên để đi vào vị trí giữa hai viên vệ binh người thẳng tắp. Ông liếc nhìn ra biển, hai con tàu chạy hơi nước màu đen to lớn kềnh càng đã thả neo ngang ngay cửa vịnh. Bởi vì cả hai con tàu đều đã sẵn sàng để hành động cho nên những cuộn khói đen dày đặc mà hai cái ống khói cao lừng lững vẫn liên tục nhả lên trời. Những họng súng đại bác đen ngòm vẫn đang trừng trừng chĩa vào bờ. Mặc dầu cảm thấy yên tâm nhờ sự hiện diện của chúng, nhưng trong khi bước rất khó khăn trên lớp cát mềm, Armstrong vẫn nhận ra rằng những con tàu đó trông thật dữ dằn và nạt nộ đối với tất cả những người Nhật đứng phía sau ông, chỉ vũ trang bằng những ngọn thương, dáo, và những khẩu súng trường cổ lỗ.

Ông cũng chợt cảm thấy xấu hổ vì những nhận định chắc chắn của mình mấy ngày trước, lúc còn ởtrên con tàu đô đốc, rằng điều tốt lành của cuộc viễn chinh này là có thể truyền bá lời của Chúa Giêsu rộng rãi trên mảnh đất mới mẻ này. Từ trên bãi biển này ông có thể chính mắt nhìn thấy lực lượng của Mỹ mới đầy uy hiếp với những dụng ý xấu xa làm sao. Mặc dầu chính mình đang lâm vào vòng nguy hiểm, ông vẫn nhận thấy mình đồng cảm một cách sâu sắc với những người Nhật đang sẵn sàng chuẩn bị cho cuộc chiến tranh này.

Thiếu tá Pearsall nhìn lên bãi biển và nói:

- Ngài Armstrong, chúng ta sẽ chờ ở đây cho đến khi Đô đốc lên tới bờ. Sau đó chúng ta sẽ đi sau Đô đốc để tới lâu đài.

Nhà truyền giáo gật đầu và bắt đầu cảm thấy thở một cách dễ dàng hơn khi nhìn thấy phân đội lính thuỷ khoảng một trăm người đang bắt đầu lên tới bờ. Họ khoác súng bên vai, nhanh chóng xếp thành hàng ngũ và rảo bước hành quân qua cầu tàu rồi đứng thành hai hàng hai bên cầu tàu. Theo sau họ là các thuỷ thủ mang vũ khí rồi đến hai dàn quân nhạc đang bước trên cầu tàu, chỉ mang theo các nhạc cụ. Khoảng hai tá sĩ quan tập trung đứng thành hai hàng hai bên thiếu tá Pearsall và thuyền trưởng tàu Susquehana. Rồi một tiếng ồ lên trong cả hàng ngũ quân Nhật và quân Mỹ khi tất cả các con mắt đổ dồn lên chiếc thuyền trên đó có Đô đốc tư lệnh Hạm đội Hải quân Mỹ.

Viên Thống đốc Uraga và những người tuỳ tùng đứng tách thành một nhóm trên bãi biển chờ để dẫn đầu phái đoàn ra tiếp đón. Armstrong thấy viên Thống đốc đang vươn cổ ra để nhìn chăm chú về phía chiếc thuyền đang tới gần cầu cảng. Tuy đã rất nhiều lần lên tàu, cả ông ta cũng như các tuỳ tùng của mình đều chưa ai nhìn thấy bóng dáng của cái người Mỹ đầu tiên được gọi là "Quận công đầu triều", lúc này ông không giấu nổi vẻ căng thẳng trên gương mặt vốn dĩ thường không bao giờ để lộ một xúc động nào. Xung quanh ông ta, hầu hết những viên quan áo mũ lộng lẫy cũng kiễng chân lên để nhìn mặt cái người cho đến giờ vẫn được bao bọc bởi một bức màn oai vệ và khó hiểu. Nhưng Armstrong chớp mắt khi thấy Haniwara Tokuma không có trong số đó. Ông ta đứng hơi tách ra khỏi đám người một tí và không nhìn ra phía cầu tàu. Hai vai ông ta trễ xuống như muốn rụt lại, đầu cúi và dường như đang nhìn mải vào đám cát dưới chân. Armstrong nhìn quanh và nhận ra rằng viên phiên dịch là người duy nhất trên bãi biển không buồn nhìn giây phút viên tướng rợ nước ngoài đặt chân lên đất liền và chính điều đó làm ông thấy cảm giác bứt rứt trong mình trở thành một dự cảm chắc chắn và sâu sắc. Có cái gì đó trong toàn bộ dáng vẻ Haniwara Tokuma đã lặng lẽ nói lên sự tuyệt vọng sâu sắc của ông ta khiến nhà truyền giáo cũng cảm thấy một nỗi sợ lạnh buốt bò suốt sống lưng mình.

Nhưng ngay sau đó một tiếng hô vang lên:

- Bồng súng!

Hàng trăm cánh tay Mỹ liền nắm chắc báng những khẩu các bin giơ lên. Armstrong quay lại vừa đúng lúc kịp nhìn thấy các tay chèo của chiếc thuyền lớn chở Đô đốc Tư lệnh hạm đội dựng đứng các mái chèo và ghìm thuyền đứng lại một cách vô cùng chính xác điêu luyện. Rồi tiếng trống và tiếng kèn đồng rền vang mở đầu khúc nhạc quen thuộc "Chào Columbia", Đô đốc Matthew Calbraith Perry đứng dậy để oai vệ bước lên bờ.

Làn gió nhẹ làm chiếc mũ mạ vàng của ông ta hơi rung rung trong khi ông bước dọc cầu tàu, theo sau là viên thiếu uý cầm cờ và thuyền trưởng tàu Mississippi. Ông ta dừng lại kiêu hãnh ngẩng cao đầu chào trong khi thiếu tá Pearsall và thuyền trưởng tàu

Susquehanna cúi chào rất cung kính. Sau đó các sĩ quan tuỳ tùng đứng vào vị trí sau Đô đốc và hai viên vệ sĩ cao lớn đang đi thẳng tắp ngay đàng sau. Hai thủy thủ trẻ nâng những lá thư phủ vải đỏ đã chờ sẵn ở vị trí của mình. Ngay sau đó là hai người lính cầm lá cờ của Hiệp chủng quốc Hoa kỳ và lá cờ màu xanh lơ của Đô đốc. Họ đứng chờ trong khi viên chỉ huy quân đoàn Hải quân bước lên trước đạo quân mặc áo xanh, tay kiếm tuốt trần. Sau khi hô vang mệnh lệnh và hai dàn quân nhạc tâu lên khúc quân hành, mọi người bắt đầu tiến lên hàng ngũ rất chỉnh tề. Cả ba trăm con người răm rắp bước theo một nhịp, họ hộ tống những bức thư và kiêu hãnh tiến về phía lâu đài.

Samuel Armstrong đi sau Đô đốc Perry vài bước, ông nhìn viên Thống đốcUraga và các viên quan Nhật khác. Vai trò của họ là hướng dẫn đoàn quân đi về lâu đài nhưng ông nhận thấy'mặc dầu đi trước đoàn thuỷ quân Mỹ nhưng tâm trí Haniwara Tokuma vẫn để ở đâu đâu. Vẻ thờ ơ và xa xôi, viên phiên dịch thỉnh thoảng lại nhìn quanh. Điều đó gây cho Armstrong một ấn tượng mạnh rằng ông đã đoán trước được sẽ có một cái gì đó cắt ngang buổi lễ và điều đó không hề có trong chương trình đã định, nhất là mỗi lần ông ta hoảng hốt liếc nhìn về phía dãy núi bên kia vịnh.

Viên thuyền trưởng tàu Susquehanna thì thầm bên cạnh nhà truyền giáo:

- Đừng ngạc nhiên, ngài Armstrong, nếu như chúng ta không đi theo sát ngay sau theo sự hướng dẫn của viên Thống đốc. Thiếu tá Pearsall đã yêu cầu dần chúng ta đến lâu đài theo một đường ngoằn ngoèo và rộng. Vì thế, trong mấy phút tới, vũ khí và kỷ luật của chúng ta sẽ được phô bày một cách rất rõ ràng để cho bọn chúng có thể nhìn thấy - và sẽ gây ấn tượng cho bọn chúng rằng người của chúng ta đang hành quân như đang hành quân vào một lãnh thổ thù địch.

Khi đạo quân rất tề chỉnh gồm ba trăm quân Mỹ hành quân ra khỏi bãi biển dưới lá quốc kỳ phấp phới, Armstrong cố ghi nhớ từng chi tiết của quang cảnh tráng lệ xung quanh. Ông hoàn toàn ý thức được mình đang trải qua những giây phút trọng đại. Nhắm mắt lại ông cũng có thể nhìn thấy cảnh những đạo quân Nhật đang dàn thành thế trận, mỗi cánh quân bao gồm lính bộ binh được vũ trang bằng những khẩu súng cổ lỗ, thương dáo, cung tên. Trên những ngọn phướn cao và những lá cờ xí nhiều màu sắc đang phấp phới trước làn gió sớm mai, ông nhìn thấy nhiều phù hiệu khác nhau - những vòng sao, lâu đài, thêu hoa và lá - tất cả đều khẳng định một điều là đạo quân đã được rút từ nhiều quân đội riêng của các daimyo khác nhau. Ngay bên ngoài toà lâu đài mới dựng, ông cũng nhìn thấy rất nhiều các viên tướng ăn mặc rất khác nhau: Mũ chỏm trắng, thắt lưng rộng bản bằng lụa vàng, áo choàng xám và quần dài buộc túm phía dưới đầu gối. Rõ ràng rằng đó là vệ binh của các lánh chúa phong kiến. Họ đều được vũ trang bằng những khẩu súng hoả mai cổ lỗ, nhà truyền giáo còn thấy rõ cả họ đeo những cuộn dây để châm ngòi cho thứ vũ khí đã lỗi thời đó. Trên lối vào phía bên kia của toà lâu đài được phủ kín bởi một tâm màn dài người ta đã đặt một khẩu đại bác kiểu Tây ban nha rất cổ khoảng bốn bảng. Nhoài ra không nhìn thây thêm gì nữa dưới tấm màn đó. Nhìn ánh mặt trời chiếu sáng trên họng hai khẩu đại bác bằng đồng, Armstrong chợt cảm thấy dường như toà lâu đài giống như hai cái quai hàm dát vàng của một con rồng đang há ngoác ra mời mọc.

Dàn quân nhạc bắt đầu tấu một hành khúc mới. Viên thuyền trưởng nhắc khẽ bằng giọng hài hước:

- Ngài Armstrong, ngài cần phải cố gắng tỏ ra mình đang rất vui mừng mới được. Chẳng dễ gì mà được tham dự một sự kiện như thế này một lần nữa đâu.

Nhà truyền giáo gật đầu nhanh nhưng không trả lời. Phía trước, che lấp hết tầm nhìn của ông là tấm lưng rộng bè bè của Matthew Calbraith Perry đang bước theo nhịp khúc quân hành, rõ ràng là ông ta tỏ ra rất dễ chịu được bước trên mặt đất sau bao ngày lênh đênh trên biển, lồng ngực ông ưỡn căng với một sức mạnh hăm hở mới. Cảm nhận rõ nhiệt tình hừng hực của đoàn quân được huấn luyện thiện chiến đang lan sang quanh mình, Armstrong ngẩng cao đầu và bước nhanh hơn. Nhưng mặc dầu đang hành quân và đang mở mắt rất to, ông vẫn bắt đầu cầu nguyện thầm trong óc. Và ông chăm chỉ cầu nguyện trong khi đoàn quân đầy vũ khí đi vòng ra khỏi bãi biển thành một vòng rộng, tiến về phía lâu đài.

Hoàng tử Tanaka rít giọng nói rất khẽ trong khi ép mình khuất sau bụi cây thấp và rộng mọc lúp súp bên bờ khe núi ngoằn ngoèo:

- Thật yên lặng, không được có tiếng động nào. Chúng ta sẽ không phải chờ lâu nữa đâu.

Lồng ngực trần của chàng phải gồng lên vì cố gắngđể trườn xuống khe núi trước chiếc norimono lúc này đã được giấu kín dưới lùm cây. Sáu người phu cải trang của chàng cũng nằm ép người gần đó trong bụi cây và thở hổn hển hít lấy hít để không khí vào phổi sau khi cố gắng chạy gằn với chiếc kiệu trên vai để xuống một con dốc thẳng đứng. Cứ mỗi lần gặp một bụi cây họ lại vội vàng bẻ cành cây từ những bụi cây thấp gần đó để phủ lên chiếc norimono, và bây giờ tất cả mọi người đều lo âu nhìn xuống con đường dích dắc phủ đầy sương dẫn xuống núi và chẻ thành hai nhánh vòng qua một tảng đá chắn giữa đường cách đó không đầy mười mét phía dưới.

Tanaka thở hổn hển, mắt không rời tảng đá mà chàng dự đoán quân Makabe sẽ xuất hiện:

- Nếu không đi vòng theo đỉnh khe núi mà đi thẳng, có thể chúng ta sẽ đến sớm hơn chúng hai hay ba phút. Nhưng không thể thế được.

Bây giờ vì đã thôi không chạy nữa, họ có thể nghe thấy tiếng trông thì thụp đều đặn và tiếng nhạc ầm ĩ của dàn nhạc Mỹ vang lên từ phía bãi biển. Trong sự tĩnh mịch buổi sáng sớm, tiếng động từ những nhạc cụ lạ lẫm vang lên một cách xa lạ trong tai họ. Họ nhìn nhau, đành chờ đợi.

Tanaka thì thào:

- Lúc này ắt là bọn rợ đã phải lên bờ rồi. Chúng ta chỉ còn rất ít thời gian.

Chàng ngoái đầu nhìn lên đỉnh vách đá phía trên nơi chàng đã bố trí tên samurai dẫn đường. Hắn nằm nép giữa đám cây thấp trên đỉnh vách đá nên có thể quan sát rõ cả con đường phía dưới và hai nhánh chẽ ra làm đôi sẽ dẫn đến ngã ba phía trên Kurihama. Gotaro và đám quân còn lại đã mai phục hai khúc quanh đó trong những bụi cây nhô ra bên đường. Họ đã buộc ngựa ở khá xa đủ an toàn tít trên đỉnh khe, và bây giờ đang căng thẳng chờ tín hiệu báo hiệu quân Makabe đã xuất hiện.

Tanaka lẩm bẩm, giơ tay về phía tảng đá ra hiệu rằng cả chiếc norimono cũng như tốp của chàng đã sẵn sàng:

- Chúng ta chỉ còn rất ít thời gian để làm những điều cần thiết. Vì vậy cần phải hành động thật bình tĩnh và thật tự nhiên.

Chàng tiếp tục quan sát cho tói khi tên samurai làm nhiệm vụ cảnh giới nhô nhanh đầu lên khỏi tảng đá, chàng vẫy tay ra hiệu đã nhận được tín hiệu. Tanaka nhận thấy sương mù đã bắt đầu tan dần mỗi lúc một nhanh, chàng quay lại để nhìn xuống con đường bên dưới tuyệt vọng mong cho mặt trời không ló ra quá sớm. Khắp dãy núi, những tiếng động của thiên nhiên ban mai vẫn chưa hề xuất hiện. Không có tiếng chim hót, cũng không hề có tiếng thú vật chạy trong những lùm cây. Những tiếng động dội lại từ phía bờ biển vẫn là những âm thanh duy nhất vang lên trong sự tĩnh mịch dị thường. Tanaka và mấy samurai mình trần của chàng vẫn căng tai chờ một dấu hiệu gì đó chứng tỏ rằng bọn Makabe đang đến gần.

Tên samurai trẻ nhất, người đang bò gần chàng thì thầm hỏi:

- Liệu có thể chúng đi theo một con đường nào đó mà chúng ta không biết không, thưa Okami - san? Liệu chúng ta có bỏ sót ngã ba nào không?

Tanaka quả quyết lắc đầu và lại nhìn lên tảng đá trên đầu:

- Trinh sát của chúng ta biết rất rõ vùng này. Hắn quả quyết rằng không hề có một ngả ba nào khác nữa...

Một tiếng rên to dài và tuyệt vọng ngay sát bên cạnh đột nhiên phá tan sự im lặng khiến họ bật dậyvà khi nhận ra tiếng rên phát ra từ đâu, Tanaka ra hiệu mở cửa chiếc norimono. Khi tên samurai trẻ nhất vội vã tuân lệnh mở chiếc kiệu, họ thấy tên tù nhân vô cùng sợ hãi đã làm cách nào đó gỡ được nắm giẻ nhét miệng và tháo dây trói. Đầu hắn lắc lư từ bên này sang bên kia, mắt trọn trừng, đang run rẩy không thể nào dừng lại được.

Tanaka ra lệnh:

- Làm cho hắn câm miệng lại! Buộc lại cái giẻ nhét mồm cho cẩn thận - và nói rõ cho hắn biết là hắn sẽ chết ngay lập tức nếu còn kêu thêm một tiếng nữa!

Tên samurai trẻ gầm gừ rút thanh đoản kiếm giấu dưới khố ra. Hắn thô bạo quỳ một cách không hề thương tiếc lên ngực tên tù, kề lưỡi kiếm vào cổ hắn trong khi một samurai khác buộc lại miếng giẻ nhét mồm. Sau khi khẽ quát vài câu đe doạ nữa và kiểm tra lại tất cả các dây trói, họ đóng cửa chiếc norimono lại như cũ. Trong khi họ làm những việc đó thì tên lính đi đầu trong toán quân của Quận công Daizo đã hiện ra trong tầm nhìn trên mỏm đá chỉ cách đó khoảng mười lăm mét.

Tanaka nhìn Yakamochi và bọn lính của hắn tiến về phía mỏm đá ngay bên dưới chỗ bọn họ đang nấp, thì thầm:

- Chờ lệnh ta. Và cúi thật thấp xuống.

Sương mù đang tan vẫn đủ để che mờ mặt những tên cưỡi ngựa khi chúng chưa đến thật gần, nhưngTanaka có thể nhìn rõ làn khí ẩm ướt ban mai lấp loáng trên trán và trên mảng đầu cạo trọc của Yakamochi khi hắn cưỡi ngựa đì ngay bên dưới chàng và bắt đầu đi qua về phía chỗ rẽ tiếp theo.

- Sẵn sàng!

Tanaka ra lệnh khá to khi tên cuối cùng trong đám samurai đi đầu đã đi qua chỗ ngoặt bên dưới họ và chiếc norimono đen bắt đầu hiện ra. Đám phu kiệu vẫn đi một cách rất thoải mái phía sau toán đi đầu khoảng hai ba chục mét. Tanaka nhận thấy chúng vẫn đi trong đội hình như trước: Hai tên to lớn nhất đỡ đầu và cuối chiếc đòn khiêng kiệu, hai tên nhẹ hơn chạy giữa và hai tên khác chạy tay không để chờ thay đổi.

Tanaka rít giọng vội vã trong khi bọn chúng tiến đến gần:

- Chú ý vị trí và cách chúng khiêng kiệu. Hãy sẵn sàng để bắt chước bọn chúng thật giống.

Tanaka nín thở và chăm chú nhìn xem toán lính gác Makabe đi theo toán khiêng kiệu có đi gần thêm chút nào không, nhưng đúng lúc chiếc norimono đi quá bên dưới chỗ họ nấp thì con đường trở nên thật trống trải.

Chàng chỉ vào hai tên phu khiêng kiệu trông cao lớn nhất:

- Chiếm lấy vị trí đầu và cuối - Chàng chỉ tên samurai trẻ nhất và vội vã nói thêm - Ngươi và ta sẽ thay chỗ đó. Bây giờ lấy chiếc kiệu ra!

Trong giây lát các cành cây được hất sang bên và cẩn thận đặt xuống mặt đất, tại chỗ đảmbảo bên dưới không thế nhìn thấy được. Sau khi xong xuôi, Tanaka ra hiệu cho những người khiêng kiệu chuẩn bị đứng lên nhưng chàng vẫn chưa phát mệnh lệnh cuối cùng trong khi nhìn chiếc norimono của bọn Makabe chậm chạp đi xa khỏi họ về phía đoạn đường cong tiếp theo. Chàng biết rằng bất cứ lúc nào toán lính canh tiếp theo cũng có thể xuất hiện - nhưng cũng sợ rằng nếu như chàng xuất hiện quá sớm hoặc hơi ồn ào thì chính bọn phu khiêng kiệu sẽ quay lại nhìn và tất cả sẽ hỏng hết. Bắt mình phải bình tĩnh mặc dầu tim đập như trống làng trong ngực, Tanaka chờ cho đến tận khi tên phu khiêng kiệu cuối cùng của bọn Makabe chậm chạp đi xa cách khoảng mười lăm mét mới vung một tay về phía tảng đá bên trên để phát ra hiệu lệnh cuối cùng.

- Nào! Tiến lên!

Chàng ghé vào chiếc đòn khiêng và giục người của mình ra khỏi các bụi cây chạy xuống mặt dốc gần như thẳng đứng. Họ vừa trượt vừa chạy dưới sức nặng của chiếc kiệu, bàn tay để không loạng quạng níu lấy bất kỳ đám cỏ nào xuất hiện trên đường chạy. Tanaka cảm thấy như họ trượt xuống vô cùng chậm chạp trong khoảng cách ngắn ngủi có khoảng bẩy mét, và suốt thời gian đó mắt chàng đảo tới lui giữa hai mép đá mà từ đó bọn Makabe có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.

Đất đá đổ rào rào quanh họ, một người khiêng kiệu bị ngã và trượt ngửa rất đau. Tanaka sợ rằng tiếng động sẽ làm họ lộ mặc dầu bọn chúng không nhìn thấy gì. Nhưng chỉ mây giây sau họ đã xuống đến nơi và chàng nhẹ người thấy bọn phu khiêng chiếc norimono của quân Makabe rõ ràng là vẫn tiếp tục đi cho tới khi khuất dạng sau khúc quanh phía trước. Vừa thoáng thấy bóng con ngựa đi đầu tốp sau thấp thoáng sau làn sương mù, Tanaka vội đỡ người samurai bị ngã đứng dậy và xốc kiệu chạy tới trước mấy bước cho tới khi họ náu được sau một vách đá nhô ra bên đường. Sau khi đã lấy lại được thăng bằng và đi một cách yên ổn giữa đường chàng bèn cho mọi người đi chậm lại. Chàng nói rít qua kẽ răng:

- Bây giờ đi thật thoải mái vào. Chạy thật giống như chúng ta thấy bọn chúng đã chạy - nhưng chậm hơn một chút. Quan trọng là bọn lính đi đàng sau cần nhìn thấy chúng ta sớm.

Họ vòng qua một khúc ngoặt gấp nữa và nhận ra là vẫn nhìn thấy chiếc norimono kia và họ lưỡng lự nhìn theo cho đến khi nó một lần nữa biến mất sau con đường ngoằn ngoèo. Tanaka nhìn lên tảng đá trên cao, thấy tên linh trinh sát của mình vẩy tay ra hiệu không có dấu hiệu nguy hiểm nào. Nhưng hắn vẫn ra hiệu đi chậm lại hơn nữa và Tanaka tỏ ý đã nhận được tín hiệu bằng cách cũng giơ tay ra hiệu cho quân lính đi chậm lại.

Chàng ra lệnh sắc gọn và chạy chậm lại chỉ nhanh hơn đi bộ một tí:

- Chậm nữa lại! Chúng ta đang đến gần khu vực cái ngã ba ấy- nơi Gotaro và quân ta đang mai phục! Chúng ta chỉ có mấy giây để hành động... Vì thế phải cầm chân bọn đi đằng sau kia lại.

Mấy giây sau bọn Makabe bắt đầu hiện ra phía sau họ. Tanaka cố dằn mình chờ nghe thấy một tiếng hét bật ra cho thấy bọn họ đã bị lộ. Xung quanh chàng, tất cả mọi khuôn mặt thật căng thẳng, mọi người đều cúi đầu cố gắng bắt chước thật giống cách bước đi của bọn phu khiêng kiệu kia. Họ bước đi đều đặn hơn và giảm dần nhịp hô "yo-ho, yo-ho, yo-ho...” ngân nga theo từng bước chân. Bằng vào vẻ mặt căng thẳng của họ Tanaka cảm thấy rõ những tia mắt đầy cảnh giác của bọn Yakamochi đang dồn lên lưng.

Khi đến gần một khúc quanh gấp khác, Tanaka khẽ ra lệnh:

- Bây giờ cố giữ thật bình tĩnh. Bọn chúng sẽ không nhận thấy gì khác đâu, may nhờ có sương mù.

Họ bắt đầu nghe rõ cả tiếng càu nhàu của bọn lính mỗi lúc một to khi bọn chúng đến gần hơn, nhưng vẫn không có điều gì đáng ngại và Tanaka lại lẩm bẩm động viên người của mình lần nữa. Nhìn về phía người lính trinh sát của mình chàng thấy anh ta ra hiệu quả quyết bằng cả hai bàn tay về phía quân Kago đang mai phục. Theo lệnh, anh ta đã rút khỏi chỗ nấp vào một thời điểm thích hợp nhất để ra hiệu cho họ hành động. Tanaka biết rằng chỉ vài giây nữa thôi Gotaro và những samurai khác sẽ nhảy từ những bụi cây ven đường ra một cách bất ngờ. Khi thấy chàng và bọn phu khiêng kiệu giả đang đến gần một khúc quanh mà từ đó bọn lính đi sau không thể nhìn thấy được chàng bèn giơ tay vẫy một người phu dự trữ chạy lên thay vào chỗ chàng rồi ra lệnh:

- Tiếp tục giữ tốc độ như thế này. Rồi sau đó đi nhanh lên hơn một tí. Nếu mọi việc trôi chảy và các người đến được chỗ ngã ba mà không lộ thì phải đảm bảo là các người đi theo Yakamochi đến tận bãi biển trên bờ vịnh!

Đúng lúc họ đi qua khúc quanh và tạm thời trốn được khỏi con mắt của bọn gác đi theo, Tanaka bèn chui ra khỏi chiếc đòn khiêng. Chàng thì thào và lần lượt nhìn vào mặt từng người:

- Tất cả chúng ta đều đã hành động rất tốt. Hãy cố đóng vai như thế càng lâu càng tốt. Nếu bị lộ, hãy chiến đấu đến cùng hoặc nếu có thể thì trốn đi để giữ lấy tính mạng! Tất cả các ngươi đều có quyền tự do lựa chọn!

Sau khi liếc nhanh về phía sau để chắc chắn rằng họ vẫn không bị nhìn thấy, Tanaka lủi nhanh sang bên đường và trong giây lát đã biến mất sau khúc quanh tiếp đó của con đường núi quanh co.

Mới thoạt nhìn Samuel Armstrong cứ tưởng đó là hai hình nhân được đặt bên cạnh chiếc rương lớn màu đỏ thẫm kê phía đầu kia của toà lâu đài nơi sẽ tổ chức buổi lễ. Hai viên đại diện cho triều đình đã ngồi rất trịnh trọng trong hai chiếc đôn sứ được trang hoàng lộng lẫy, họ ngồi cứng đơ như hai pho tượng không hề có sự sống trong khi Đô đốc Mathew Perry và ba trăm tuỳ tùng rầm rập bước vào gian tiền sảnh của toà lâu đài cùng với dàn quân nhạc và cả một rừng màu sắc rực rỡ. Bên trong lâu đài tối lờ mờ tương phản với ánh nắng rực rỡ bên ngoài bãi biển, nhưng mái đầu cạo trọc và cái đuôi sam bôi dầu bóng loáng vẫn ánh lên mờ mờ trong căn phòng tranh tối tranh sáng.

Cả hai vị thượng thư đều mặc những chiếc áo bào rộng vai độn cứng may bằng gấm quý, mang thắt lưng màu nâu trên đó giắt đôi kiếm cổ truyền. Họ mặc quần thụng bằng lụa màu tía phủ gần kín đôi hài bằng những màu rực rỡ trên ống tay áo rất rộng che kín hết hai bàn tay. Những đôi mắt nhỏ nhìn vào khoảng không xa xôi tựa như mắt của những pho tượng đá. Thậm chí khi đoàn người tiến đến trước gian tiền sảnh và đứng lại họ cũng như không hề nhìn thấy.

Vào lúc đoàn quân dừng lại, dàn quân nhạc cũng ngừng chơi, rồi một sự im lặng lại bất ngờ bao trùm lên toà lâu đài. Dường như hàng ngàn quân lính và thường dân cũng như ngừng thở, không dám chắc điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Những hàng người đầu đội mũ chỏm đứng quanh lâu đài tròn mắt trước những tên rợ người nước ngoài lần đầu tiên trong đời họ nhìn thấy đang bước đến gần - nhưng không một ai động đậy.

Khi đoàn người đến gần hơn, Armstrong nhận thấy viên Thống đốc và Haniwara Tokuma đang trịnh trọng đứng chờ bên cạnh lối vào. Bởi vì lúc này có hàng ngàn con mắt đang chằm chằm nhìn vào nên người phiên dịch rõ ràng đang rất cố gắng giấu nỗi bứt rứt của riêng mình. Ông đứng thẳng, mắt nhìn nghiêm trang về phía trước. Nhưng khi đến gần hơn nhà truyền giáo nhận thấy vẻ mặt xanh xao hoảng hốt của ông ta vẫn rất rõ ràng và đột nhiên Armstrong nhớ lại trong óc những câu cảnh cáo đầy hoảng hốt mà người phiên dịch Nhật đã lẩm bẩm trong cuộc nói chuyện riêng cuối cùng giữa hai người trên tàu Susquehanna - "Các ông phải dừng lại... nỗi nguy hiểm lớn hơn các ông tưởng nhiều ".

Điều vừa nhớ lại đó khiến cho sự nghi ngờ trong óc Armstrong trở nên mãnh liệt, thế rồi trong một giây rất bản nàng, ông bước tới và trịnh trọng cúi đầu trước hết chào viên Thống đốc sau đó chào người phiên dịch. Ông cung kính nói bằng tiếng Nhật:

- Có lẽ bây giờ Ngài Thống chế muốn thông báo cho chúng tôi biết về những nghi thức sẽ tiến hành. Như vậy chúng tôi có thể cố gắng góp phần làm cho buổi lễ này tiến hành trôi chảy.

Viên Thống đốc nói:

- Không cần phải có một giải thích nào trước cả,- Ông ta gật đầu về phía những chiếc ghế bành bằng gỗ vốn dùng để cho các nhà sư hoả tịch, lúc này được phủ thảm và đặt bên phải chiếc rương gỗ đỏ,- Bây giờ tôi sẽ đưa Thuỷ sư đô đốc của các ngài cùng với các sĩ quan tuỳ tùng về chỗ ngồi dành cho họ.

- Và sau đó thì sẽ thế nào?- Armstrong quay lại nhìn người phiên dịch, liếc mắt đầy ngụ ý rằng ông muốn trao đổi riêng vài câu với ông ta - Sau đó sẽ là những nghi lễ gì?

Viên Thống đốc lạnh nhạt trả lời và bắt đầu đi trước dẫn đoàn người vào lâu đài:

- Mọi việc sẽ rõ ràng ngay đây thôi. Chúng tôi sẽ chỉ dẫn cho các ngài biết các bức thư của các ngài sẽ được đệ trình bao giờ và như thế nào. Chúng tôi sẽ tiếp nhận theo nghi lễ triều đình - nhưng sẽ không có bất cứ một hình thức đối thoại nào diễn ra. Bây giờ xin mời ngồi.

Armstrong quay nhanh lại và giải thích cho Thiếu uý Rice và Đô đốc Perry nghe. Đô đốc và viên thiếu uý cầm cờ cả hai phớt lạnh đi theo viên thống đốc đi qua cửa chính bước vào gian điện. Người phiên dịchNhật Bản bắt đầu tiến lên, cùng lúc ấy Armstrong giật nhẹ tay áo ông ta và khẽ ra hiệu cho một nhóm sỹ quan Mỹ đi lên trước họ.

Nhà truyền giáo đi chậm lại và thì thầm vội vã bằng tiếng Đức để lần này không ai quanh họ có thể hiểu được:

- Hãy nói cho tôi biết đi, ngài Haniwara. Ngài có thể tin cậy ở tôi. Tôi biết rằng có một nguy hiểm lớn lao nào đó. Tôi hứa là tôi sẽ làm tất cả mọi việc trong phạm vi quyền lực của tôi để giúp ngài.

Người phiên dịch nhỏ bé im lặng bước đi mấy bước nữa, mắt vẫn gắn xuống tấm thảm dưới chân. Cuối cùng ông thì thầm:

- Ai có thể giúp gì được bây giờ? Quá muộn rồi.

Armstrong nài nỉ:

- Cả ngài và tôi đều là những con người thiện tâm. Nghĩa vụ con người buộc chúng ta phải cùng nhau hành động cho một nền hoà bình.

Nhà truyền giáo nhìn lên phía trước và thấy họ đã đến gần gian điện chính trần cao hơn, tường được phủ bằng những tấm rèm lụa dài chấm đất và những bức tranh tường khổ lớn. Khi các sĩ quan Mỹ tiến lên để ngồi xuống ghế, trong lúc đó đám quý tộc Nhật đầu để đuôi sam tiến vào từ lối vào phía bên kia. Tất cả bọn họ đều đeo song kiếm và từng người một đứng thành hàng dọc theo bức tường, quỳ một gối cạnh hai vị đại diện triều đình lúc này vẫn im như tượng.

Viên phiên dịch nhìn lên rất nhanh, và nhà truyền giáo nhận thấy trên vẻ mặt của ông ta sự sợ hãi đã át cả dè dặt kín đáo vốn có. Ông ta thì thào:

- Viên sĩ quan Eden của các ngài đã bị bắt.

Armstrong kêu lên, cảm thấy nhẹ cả người:

- Vậy anh ta còn sống! Bây giờ anh ta ở đâu?

Haniwara sợ hãi thì thầm:

- Không xa đây lắm. Nhưng một trong những daimyo hiếu chiến nhất trong chúng tôi đang xích cổ anh ta đem đến. Khi anh ta đã bị đem đến đây thì không còn ai có thể ngăn được một cuộc chém giết xảy ra...

Trước khi Armstrong kịp trả lời thì một tiếng xôn xao làm náo động cả gian điện và dòng người đang đi tới bỗng dừng lại. Armstrong nhìn lên phía trước và thấy hai viên đại diện triều đình đang đứng lên, người vẫn cứng đơ. Không hề nhìn vào mặt một người nhất định nào trước mặt, họ cúi thấp xuống chỗ trông trước mặt, trịnh trọng tỏ ý đã ghi nhận sự có mặt của viên Đô đốc chỉ huy Mỹ. Viên Thống đốc, lúc này đã bước sang một bên bèn phủ phục xuống tấm thảm đỏ trước mặt hai viên đại diện, dập trán xuống đất một hồi lâu. Mặc dầu vậy, Đô đốc Mathew Calbraith Perry chỉ giơ tay lên chạm khẽ vào dải băng bằng vang trên mũ và hạ cằm hơi thấp xuống vài in sơ tỏ ý đáp lễ.

Một đợt sóng những tiếng xì xào phẫn nộ bật lên trong đám đông người Nhật đang chăm chú theo dõi và trong đám sĩ quan Mỹ cũng có vài tiếng thì thào bàn tán trong khi lục tục ngồi vào chỗ. Bên cạnh Armstrong, người phiên dịch Nhật cũng đang phủ phục xuống trước mặt thượng quan của mình và nhà truyền giáo phải chờ cho đến khi ông ta đứng dậy mới tiếp tục đi bên cạnh ông ta. Ông hỏi khẽ, mắt liếc nhanh nhìn đám quý tộc lúc này đã đứng thành hàng tề chỉnh ở một phía của gian điện:

- Viên daimyo mà ngài vừa nói có mặt ở đây không?

Người phiên dịch trả lời bằng giọng thì thầm khiếp sợ, mắt lại dán chặt xuống nền nhà:

- Có. Nhưng ngài không thể nói gì về những điều này được đâu. Lão ta đã bắt vợ và các con tôi làm tin để đảm bảo là tôi sẽ làm theo lệnh lão... Nếu tôi không tuân lệnh, vợ con tôi sẽ bị giết ngay...

Tất cả đám quan lại Nhật đều nhìn chăm chằm vào những sĩ quan Mỹ đang bước vào nhưng Armstrong vẫn cảm nhận thấy một cái nhìn độc ác tuy chỉ thoáng qua rất nhanh của Quận công Daizo, lão này đứng hơi tách ra khỏi những người khác và gần với cửa ra vào hơn cả. Đôi mắt nhỏ ti của lão nhìn như xoáy vào hai người và Armstrong nhận ra rằng lão đã nhận thấy vẻ khổ sở của Haniwara.

Khi họ bước vào đến bên trong gian điện và sắp sửa rẽ ra mỗi người một ngả, Armstrong thì thầm hỏi lần cuối cùng.

- Ngài nhận được mệnh lệnh như thế nào? Ngài phải làm gì?

Người phiên dịch run run:

- Để đề phòng, một số samurai có mang vũ khí đang ẩn náu ở đây. Để cứu mạng gia đình tôi, tôi buộc phải làm một tín hiệu mật cho họ tấn công...

Ông ta đột ngột ngừng lại khi nhìn thấy hai viên sĩ quan Mỹ vẫn đứng trước mặt tự nhiên lại bước sang một bên, từ nãy giờ họ vẫn che khuất ông và Haniwara khỏi ánh mắt của hai viên đại diện triều đình. Hai người đi nhanh hơn và đứng vào vị trí sau lưng Đô đốc lúc này đã ngồi lên chiếc ghế tựa trải thảm. Lưng Đô đốc Perry thẳng băng, tay đặt một cách cố ý lên đuôi kiếm, mắt dán chặt vào mặt đối thủ của mình. Không còn cách nào khác, Armstrong đành miễn cưỡng đứng tách khỏi người phiên dịch và quay sang phía mà ông cho là chỗ dành cho mình, kính cẩn đứng lùi về phía sau ghế của Đô đốc một hai bước. Ông nhìn Haniwara quỳ xuống bên cạnh viên Thống đốc, lòng tuyệt vọng phân vân nghĩ về những lời chưa kịp nói ra của người phiên dịch. Và khi sự im lặng nặng nề bao trùm lên khắp gian điện, ông lo lắng nhìn quanh cố gắng một cách bất lực để tìm xem những tên lính kia có thể ẩn nấp chỗ nào phía sau những bức tường phủ lụa kín mít. Ông vô cùng muôn cúi xuống ghé vào tai viên Đô đốc để thì thào một lời cảnh báo về nỗi nguy hiểm đang đe doạ họ- nhưng rồi cuối cùng lời hứa sẽ giữ kín những điều bí mật của người phiên dịch Nhật đã ngăn ông lại. Chờ đợi một cách đau đớn khắc khoải, ông cố nghĩ xem mình có thể làm được điều gì hữu ích, nhưng rõ ràng là chẳng có một phương cách nào cả, ông đành đắm mình thầm cầu nguyện khẩn thiết.

Viên Thống đốc đột ngột cất tiếng nói và cúi đầu về phía những người Mỹ đang ngồi:

- Toda-Idzu-no-kami to Ido - Iwami-no-kami de guzaim-asu. Toda-Idzu-no-kami-wa dai-rochu-de-guza- imasu.

Haniwara Tokuma dịch những lời viên trưởng quan vừa nói sang tiếng Đức bằng giọng hơi run run:

- Ngài Toda, Hoàng thân xứ Idzu và ngài Ido, Hoàng thân xứ Iwami sẽ tiếp kiến các ngài. Hoàng thân Toda, ngồi bên trái, là Tể tướng của Hoàng đế.

Sau khi Armstrong dịch lại sang tiếng Anh, một lần nữa sự im lặng tò mò lại bao trùm lên toàn gian điện, không một ai nói một lời nào. Hai viên đại diện triều đình, tuổi khoảng năm lăm sáu mươi gì đó và đều có vẻ mặt âm u như hai nấm mồ, vẫn tiếp tục ngồi im như tượng trên những chiếc đôn. Đối diện với họ, Đô đốc Perry và hai viên đô đốc luống tuổi cũng ngồi im không kém. Không hề có một vẻ gì trên gương mặt hai viên quan Nhật tỏ ra họ đang có bất cứ một thứ cảm xúc nào, nhưng sau khi quan sát rất kỹ, Armstrong cảm thẩy trong vẻ thờ ơ xa xôi của họ một cái gì đó nhiều hơn một ẩn ý.

Ở bậc cuối cùng của hàng tam cấp trải thảm đỏ, hai thuỷ thủ trẻ của tàu Susquehanna cũng đang cố đứng im phăng phắc, hai tay nâng chiếc hộp bằng gỗ hồng đựng những lá thư của Tổng thống Hoa Kỳ. Bên cạnh những người làm nhiệm vụ trao thư, hai tên vệ sĩ da đen t rông có vẻ như cao lừng lững hơn bao giờhết. Với những lưỡi lê sáng quắc bẻ đứng nhô lên trên vai, hai người này cũng nhìn chăm chăm về phía trước một cách vô cảm, dường như không hề nhìn thấy một ai trong gian điện. Phía sau họ, Armstrong lại nhận ra trong đám quý tộc đang đứng túm tụm trên sảnh ánh mắt dữ dằn của viên Daimyo lúc nãy đang nhìn chằm chằm vào Haniwara Tokuma. vẻ mặt cau có của Quận công Daizo vẫn không hề thay đổi và nhà truyền giáo nhận thấy ánh mắt lão chốc chốc lại rời khỏi người phiên dịch đang quỳ dưới đất để nhìn lên trên. Mặc dầu vậy cứ mỗi lần như thế lão ta lại nghển đầu lên tựa như đang chờ để nghe ngóng một tiếng động bên ngoài gian điện. Nhận thấy điều đó, Armstrong hiểu rõ rằng không hề nghi ngờ gi nữa, những gì người phiên dịch vừa nói là sự thật.

Sau khi thì thào bàn bạc gì đó với viên Thống đốc đứng bên cạnh, đột nhiên Haniwara Tokuma hỏi bằng tiếng Đức:

- Các bức thư và những bản dịch đã sẵn sàng để được đệ trình chưa? Nếu đã sẵn sàng, Hoàng thân Toda đã sẵn sàng dể tiếp nhận. Người phiên dịch tránh ánh mắt của Armstrong, nhưng nhà truyền giáo vẫn có thể nhận thấy vẻ căng thẳng bên trong của ỏng ta vẫn đang tăng lên. Armstrong cảm thấy mình càng bất lực, ông dịch câu nói rất nhanh và nhìn Đô đốc Perry giơ một bàn tay đeo găng trắng về phía hai học viên sĩ quan và những tên vệ sĩ da đen hãy sẳn sàng.

Người phiên dịch Nhật vội vã đứng lên chỉ tay về phía chiếc khay phủ vải được đặt trên chiếc hòm sơn mài vội vã nói thêm:

- Chúng tôi muốn nói rõ rằng Hoàng thân Toda sẽ không chạm đến những bức thư đó. Nói chung là không được đến gần Hoàng thân.... Những bức thư của các ngài sẽ được dặt lên đây sau khi những người mang nó quỳ xuống để tỏ lòng cung kính.

Sau khi nghe Armstrong dịch lại, Đô đốc gầm gừ:

- Ở nước chúng ta người ta tỏ lòng cung kính bằng cách đứng thẳng. Sẽ không có ai quỳ gối cả- dầu là ta hay bất cứ ai trong những người của ta ở đây.

Sau khi nghe câu trả lời của Perry, viên Thống đốc chậm rãi đứng lên vài bước đến đứng cạnh người phiên dịch của mình, để lại một khoảng cách khá rõ giữa ông ta và chiếc hòm gỗ sơn mài. Một lát sau viên đô đốc vẫy tay ra hiệu cho hai sĩ quan man g những bức thư tiến vào gian diện trong. Theo sát sau họ là hai viên vệ si lừng lững, hai chàng thuỷ thủ trẻ kiêu hãnh im lặng bước vào. Trên gương mặt họ hiện rõ niềm vui sướng vì giây phút này. Trong khi bước đi, trong đầu họ vẫn như còn đang nghe thấy giọng nói sang sảng của Đô đốc sáng nay: "Các anh sẽ được vinh dự mang các bức thư của Tổng thống lên bờ. Các anh sẽ được mang chính chiếc chìa khoá sẽ dùng để mở cửa Nhật Bản".

Đến bên cạnh chiếc hòm đỏ hai chàng thuỷ thủ trẻ đứng lại, lịch sự quay người và miễn cưỡng trao chiếc hộp lộng lẫy vào tay hai vệ sĩ da đen lúc này đã tiến lên đứng bên cạnh họ. Hai viên vệ sĩ da đen giở tấm vải phủ và giơ chiếc hộp bằng gỗ hồng chạm trổ cầu kỳ cho tất cả mọi người nhìn thấy. Rồi họ lây bức thư của Tổng thống gửi Hoàng đế cùng vời bức thư của Đô đốc ra khỏi chiếc hộp, giơ lên cao một hồi lâu để tất cả mọi người cùng nhìn rõ chúng được viết rất đẹp trên giấy da dê và được buộc bằng một dải lụa xanh.

Bức thư của Tổng thống được đóng xi niêm phong bằng những sợi lụa và đặt trong một chiếc hộp tròn bằng vàng ròng to đường kính khoảng sáu in sơ, chiếc hộp lại được bọc trong một tấm lụa quý. Khi hai tên vệ sĩ da đen cao lớn cúi xuống để đặt những bức thư được trang điểm rất cầu kỳ cùng với chiếc hộp đựng nó vào chiếc khay, những tiếng xì xào bàn tán cố nén lan dần trong đám những người Nhật. Sau đó họ mở những chiếc túi nhỏ bằng vải len tuyết và lấy tiếp ra hai bức thư của Đô đốc gửi Hoàng đế cùng với các bản dịch của các bức thư đó và cung kính đặt lên mặt chiếc hòm gỗ. Làm xong nhiệm vụ, hai viên vệ sĩ đứng thẳng lên và trang nghiêm giơ tay chào những văn kiện vừa được trao. Sau khi liếc nhìn đô đốc chỉ huy và được ông ta gật đầu cho phép, họ quay người đi đều về chỗ của mình bên cạnh hai sĩ quan học việc.

Đô đốc đứng lên và gật đầu về phía Samuel Armstrong, tuyên bố lớn giọng:

- Hãy thông báo với Hoàng thân Toda là bức thư của Tổng thống Hoa Kỳ cũng như của ta được trao một cách đúng thể thức. Cũng nói rõ cho Hoàng thân hiểu rằng các bản sao cũng như bản dịch sang hai thứ tiếng Đức và Trung Quốc cũng đã được gửi kèm để cho ngài tiện đọc.

Armstrong tuân lệnh và nhìnHaniwara cúi đầu về phía viên Thống đốc trước khi lúng búng dịch với một giọng rất ngập ngừng. Đến lượt mình, viên Thống đốc cũng cúi rạp mình trước Hoàng thân và thì thầm nói những điều vừa được dịch lại. Nhưng vị đại diện của triều đình không hề có một cử chỉ nào tỏ ra đã nghe thấy, và trong sự im lặng nối tiếp theo đó Armstrong nghe thấy những âm thanh đầu tiên của một sự náo động tít xa phía bên ngoài những bức tường bằng vải của toà lâu đài. Có nhiều giọng giận dữ la hét hỗn độn và tiếng ồn ào ngày càng to dần lên và tiến đến gần hơn. Mặc dầu vậy, Đô đốc Perry không hề liếc ra phía ngoài và ra hiệu cho Armtrong dịch tiếp. Ông cao giọng nói:

- Tiếp theo hãy thông báo với Hoàng thân rằng nội dung chính của bức thư của Tổng thống là bày tỏ mong muốn của chúng ta về việc Nhật Bản và Hoa Kỳ cần phải có những quan hệ buôn bán trên cơ sở lợi ích của cả hai bên. Rằng họ cần phải bán than cũng như các nhu yếu phẩm cho tất cả các tàu bè của chúng ta qua đây vào bất cứ lúc nào các tàu đó yêu cầu. Và các công dân Mỹ trên các tàu Mỹ bị đắm và dạt vào bờ biển Nhật Bản cần phải được đảm bảo an toàn...

Perry dừng lại để Armstrong kịp dịch, sau đó vươn thẳng người thêm thẳng băng dường như để nhấn mạnh thêm cho những lời của mình.

- Thêm vào đó, các bức thư của ta gửi Hoàng đế chỉ nhằm nhắc lại rằng chúng ta mong muốn được sống trong hoà bình và hữu nghị với Nhật Bản- nhưng trong các bức thư đó cũng đã nói rất rõ rằng sẽ không thể có một tình hữu nghị nếu không chấm dứt việc Nhật Bản đối xử với các công dân Mỹ như với những kẻ thù tồi tệ nhất của họ. Sẽ không được phép tiếp tục đem các thuỷ thủ Mỹ bị đắm tàu đóng cũi và diễu cho dân chúng xem như xem những con vật! Sẽ không có những tàu Mỹ đến Nhật bị buộc phải quay trở ra biển! Hãy nói với Hoàng thân rằng các bức thư của ta cũng nói rõ, việc lần này chúng ta đến đây chỉ với bốn tàu chiến chính là một bằng chứng của thiện chí- nhưng nếu như cần thiết chúng ta sẽ quay lại Vịnh Yedo trong một thời gian rất ngắn với một lực lượng lớn hơn nhiều!

Trong khi dịch lời tuyên bố đó, Armstrong nhận thấy sự náo động bên ngoài vẫn tăng lên. Rõ ràng là Haniwara cũng nhận thấy điều đó và đến lượt ông ta dịch, ông ngắc ngứ rất nhiều lần. Một số các sĩ quan Mỹ cũng bắt đầu nhíu mày lắng nghe tiếng ồn ào đó. Mặc dầu vậy các đại diện của triều đình Nhật vẫn ngồi im trên ghế như những bức tượng. Armstrong nhìn qua khoé mắt và thây một đám đông ồn ào đang bất ngờ xuất hiện ngay chỗ cổng vào lâu đài; phía trên gian điện, khuôn mặt cau có của Quận công Daizo đã biến mất.

Thiếu uý Rice thì thào bên vai nhà truyền giáotrong khi viên Thống đốc truyền đạt lại lời dịch với thượng quan của mình:

- Lần sau chúng tôi muốn ngài sẽ dịch lại từng lời trong bức thư. Và đừng chú ý tí nào đến những tiếng động bên ngoài kia, dầu đó có là gì chăng nữa. Đô đốc muốn rằng chúng ta cần phải luôn luôn tỏ ra tuyệt đối điềm tĩnh. Vì thế ông cứ từ từ. Không cần phải vội vàng.

Quận công Daizo phi nước đại qua hàng lính và các cung thủ lúc này đang rút về phía sau toà lâu đài, lão lẩm bẩm vẻ hài lòng khi nhìn thấy những lá cờ đuôi nheo nhấp nhô mang huy hiệu của mình. Những lá cờ đó phấp phới cùng với đoàn samurai cưỡi ngựa xuống núi, ngay lập tức lão nhận ra cái bóng ngạo nghễ của con trai cưỡi ngựa đi đầu. Cùng lúc đó cũng nhận ra chiếc norimono đen trên vai những người phu khiêng kiệu đầu đội mũ chỏm nhâp nhô đi về phía đường cái, sau Yakamochi khoảng năm mươi mét. Một vòng người trên bãi biển bắt đầu quây lại để theo dõi đoàn quân đang đến gần, những người dân đã bắt đầu hò hét chạy theo chiếc norimono và đoàn người hộ tống nó xuống núi.

Tiếng hò hét đã khiến lão nhảy bổ khỏi gian điện và nhảy phắt lên con ngựa buộc phía sau toà lâu đài mỗi lúc một to hơn, và một nụ cười thoả mãn nở rộng trên khuôn mặt Daizo. Lão đã dặt dò con trai ra lệnh khi đoàn quân đến gần bãi biển mọi người sẽ hét vang khẩu hiệu chống bọn mọi rợ, và bây giờ lão nghe thấy rõ những giọng giận dữ gào thét, những tiếng thét lặp đi lặp lại không ngừng:

- "Son no Jo-i! Son no Jo-i" - Bảo vệ Đức Hoàng đế! Tống cổ kẻ thù ghê tởm đi!

Quận công Daizo thúc ngựa phi về phía trước và đã tới được chỗ chân cồn cát, theo sát lão là ba tên vệ sĩ. Khi hai toán người gặp nhau và dừng lại, con trai lão ngồi trên ngựa tận tụy cúi chào, Sawara cũng làm theo như vậy. Đó là tên chỉ huy vệ binh mới của hắn và vẫn phi ngựa theo sát hắn từ bao giờ. Nhìn thấy phù hiệu daimyo của thị tộc Makabe lấp lánh trên chiếc áo choàng lụa thêu thùa rực rỡ của lão, đám người từ nảy đến giờ vẫn hò hét đi theo đoàn quân chợt im lặng và lạ lùng nhìn chằm chằm vào chiếc norimono lúc này đã hạ xuống.

Daizo gật đầu hài lòng:

- Yakamochi, con hành động khá lắm. Con đến đúng lúc cần thiết. Yakamochi cúi đầu nhận lời khen:

- Con xin cám ơn, thưa O Kami-san. Con rất vui mừng đã thực hiện xong mệnh lệnh cha giao.

Daizo liếc nhìn đám người mỗi lúc một đông đang vây chặt lấy họ và hỏi:

- Con đã sẵn sàng để lôi tên rợ ra cho mọi người xem chưa? Đã ai nhìn thấy hắn chưa?

Yakamochi đáp:

- Chưa ạ, thưa O Kami-san. Nhưng họ đã biết rằng chúng ta nhốt một tên man rợ nước ngoài trong đó- và cha cũng đã nghe thấy tiếng giận dữ gào thét chờ đón hắn rồi đó!

Daizo giận dữ ra lệnh:

- Chính lúc này là lúc hãy để cho những bọn đang ở trong lâu đài kia nghe thấy tiếng thét giận dữ của nhân dân Nippon. Bây giờ hãy cho dân chúng nhìn thấy hắn đi.

Yakamochi gật đầu ra hiệu cho Sawara. Tên này bèn xuống ngựa và xăm xăm đi về phía chiếc norimono lúc này đã được đỗ xuống, các phu khiêng kiệu bước lùi lại vài bước. Hắn kéo cửa sang một bên và cúi vào - rồi sững người như hoá đá nhìn vào chiếc kiệu với vẻ mặt ngỡ ngàng. Mất mây giây viên tân chỉ huy vệ binh đứng như trời trồng, rồi sau khi lo lắng liếc nhìn về phía chủ đang đứng chờ, hắn run rẩy chỉ ngón tay về phía tên khiêng kiệu mà bọn samurai của bộ tộc Kago bắt được lúc rạng sáng. Hai mắt vẫn bị bịt chặt và tay chân vẫn bị trói, người dân Nippon tội nghiệp đang cố quờ quạng chân trong khi Quận công Daizo, Yakamochi và tất cả toán lính cùng đám người vây quanh nhìn hắn mà không thể nào tin nổi vào mắt mình.

Đột nhiên Quận công Daizo quát lên:

- Ai đây? Xem nó là ai?

Viên chỉ huy samurai giơ một tay giật phắt tấm băng bịt mắt và tấm băng thấm đẫm máu quấn quanh đầu để cải trang. Bị loá mắt vì sáng bất ngờ người tù cố quay đi che mặt và suýt ngã nếu viên chỉ huy vệ binh không kịp đỡ vai hắn.

Daizo hỏi, giọng lão run bần bật:

- Tên rợ nước ngoài đâu?- Lão giục ngựa tiến tới, nhìn chằm chằm một lúc vào chiếc kiệu không người rồi quay sang hỏi con trai- Tựa như là hắn biến mất vào không khí vậy! Mặt trắng bệch không nói được tiếng nào, Yakamochi nhảy xuống khỏi yên ngựa và vội nhìn vào chiếc norimono trống rỗng - Hắn ngước nhìn cha lắp bắp nói:

- Con không hiểu gì cả. Con không thể hình dung như thế nào... Sawara nhìn chằm chằm vào tên tù binh đang run như dẽ, đột nhiên kêu lên:

- O Kami-san, đây là một trong những tên phu khiêng kiệu của ta đây mà. Nhưng còn những tên khác đâu rồi? Daizo ngồi trên yên quát lên và chỉ về phía đầu đám đông:

- Kia kìa! Chúng đang bỏ chạy!

Các samurai Kago cải trang vừa lúc nảy còn đứng cách đòn gánh mấy bước không ai để ý đã lặng lẽ lủi qua đám đông và lúc này đang chạy qua bãi cát về phía chân núi. Nhưng họ không chạy tán loạn như những kẻ đang hoảng sợ thường làm mà rõ ràng là chạy một cách có chú ý thành một nhóm có kỷ luật và hướng về đường dẫn đến bìa rừng gần nhất. Một vài người trong bọn họ đã tụt chiếc mũ chỏm ra và lúc này người ta đã nhìn thấy rất rõ những mái đầu cạo trọc kiểu samurai. Yakamochi kinh ngạc thốt lên:

- Bọn samurai cải trang! - Hắn nhìn theo đám người đang chạy trốn và quay phắt lại ra lệnh cho viên chỉ huy vệ binh - Cho người chặn phía trước bọn chúng. Cố bắt sống lấy một đứa để hỏi cung!

Trong khi khoảng hai tá chiến sĩ Makabe hét vang và quất ngựa phi về phía ngọn núi, chồm qua cả đám đông chắn trước mặt Yakamochi rút kiếm và kéo tóc người tù đang khiếp sợ. Hắn quát lên, đấy anh ta ngã dúi:

- Chuyện gì đã xảy ra? Phải khai thật!

Tên phu khiêng kiệu van lơn:

- Xin ông chủ rộng lòng. Con bị bắt lúc tảng sáng.

- Ai đã bắt mi?

- Thưa chúa công, người của bộ tộc Kago... Bọn họ doạ sẽ giết con. Bọn họ bắt con phải nói cho họ biết tên rợ nước ngoài...

- Và mi đã nói cho chúng biết?

Tên phu khiêng kiệu tuyệt vọng gật đầu:

- Vâng, thưa chúa công. Và chúng nhìn thấy một chiếc norimono giống hệt của chúng ta... Chúng trói con lại và tống vào đó... Sau đó chúng đi theo ngài, dọc theo khe núi chờ dịp để đánh tráo chiếc kiệu và lừa chúa công.

Khi đã hiểu, Yakamochi thả tên phu khiêng kiệu ra mặc cho hắn ngã dụi xuống... Trong giây lát ngắn ngủi hắn nhìn xuống, mắt loé lên tia giận dữ vì thất bại. Hắn khẽ nói:

- Mi đã phản bội bộ tộc Makabe và phản bội đất nước của thần linh này.

Tên phu khiêng kiệu van vỉ:

- Chúa công, con vô cùng hối hận. Xin chua công tha thứ cho sự yếu đuối của con.

Yakamochi rít lên:

- Không thể nào tha thứ cho một tội lỗi như vậy.

Cùng lúc đó hắn vung kiếm xuống chém một nhátdữ dội, khiến đầu tên phu kia lìa khỏi cổ. Hắn lạnh lùng nhìn cái thây không đầu lăn ra xa, sau đó bước tới một bước và lau lưỡi kiếm đẫm máu vào chiếc áo rách tả tơi trên cái xác rồi tra kiếm vào vỏ.

Yakamochi nhìn lên và gặp ánh mắt của viên chỉ huy vệ binh. Mặt Sawara trắng bệch không còn chút máu khi nhìn cuộc trừng phạt tàn bạo, và hắn hiểu ngay cái nhìn của Yakamochi. Hắn hít một hơi dài thật nhanh và gật đầu về phía tên lính Makabe đứng gần nhất rồi chậm rãi quỳ xuống bãi cát. Hắn vứt chiếc áo giáp sang một bên, trật áo để trần xuống tận dưới thắt lưng sau đó rất chậm rãi rút thanh đoản kiếm khỏi bao. Mũi kiếm mỏng tang sáng lấp loáng dưới ánh mặt trời. Sawara nhìn mũi kiếm vài giây, mắt điềm tĩnh một cách lạ lùng. Hắn nói rất nhẹ nhàng:

- Tôi, Sawara đã không làm tròn nghĩa vụ đối với bộ tộc Makabe. Vì thế hành động này là không thể nào khác được.

Hắn cúi nhanh xuống và chặn vạt kimono xuống đầu gối rất cẩn thận để tránh bị ngã ngửa một cách nhục nhã lúc không còn tỉnh táo nữa. Sau khi xong xuôi, hắn cầm chặt thanh đoản kiếm trong cả hai tay, chĩa mũi kiếm vào trong, phía bên phải dưới bụng rồi đâm thẳng đến tận gan. vẻ mặt bình thản hắn quay lưỡi kiếm một cách rất vững vàng sang bên phải rồi rạch ngược lên trên. Tận bấy giờ vẻ mặt hắn mới để lộ nét đau đớn đầu tiên, cổ hơi dướn lên. Đúng lúc đó tên lính vẫn đứng chờ bên cạnh hắn rút soạt thanh kiếm của mình ra khỏi thắt lưng. Trong một giây, lưỡi kiếm vung lên không rồi xả xuống và đến tiếng lưỡi kiếm rút về, sau đó là một tiếng động khác khẽ hơn. Vào lúc viên chỉ huy vệ binh bị chém bay đầu, hắn không hề thốt lên một tiếng kêu nào và im lặng chết.

Một sự im lặng hãi hùng bao trùm lên đám dân thường đứng quanh. Rất lâu, họ đứng im nhìn trân trân vào những cái xác không hồn của tên phu khiêng kiệu và tên chỉ huy vệ binh, nằm cách nhau không đầy một mét. Thế rồi như theo một sự thoả thuận ngầm nào đó họ lặng lẽ lần lượt quay đi.

Phía xa, dưới chân núi, bọn samurai phi ngựa đuổi theo đã bắt đầu đuổi kịp những người đang chạy trốn. Chúng hoa kiếm loang loáng dưới ánh mặt trời, thỉnh thoảng lại nhổm người lên trên yên. Hai chiến sĩ Kago bị ngã trước khi đến được vạt rừng, rồi cả người chạy lẫn người đuổi biến mất trong rừng rậm rạp. Quận công Daizo từ nãy giờ vẫn ngồi im nhìn cảnh con trai hắn chém đầu tên phu khiêng kiệu xâu số rồi cảnh viên chỉ huy vệ binh tự mổ bụng, lúc này mới thì thầm giận dữ:

- Vẫn chưa phải là đá quá muộn - lão quay về phía con trai ra hiệu - Cho thêm người đến khu rừng kia kiểm tra lại! Yakamochi cúi người tuân lệnh:

- Vâng, thưa O Kami-san. Con sẽ cho làm ngay lập tức.

Quận công Daizo nhìn con trai tập hợp một số lớn chiến sĩ để bắt đầu bao vây quả núi, lão cúi xuống nói:

- Chúng ta vẫn còn có thể tổ chức tấn công vào lâu đài. Ngay cả nếu không có tên tù binh người rợ đó, các chiến sĩ nấp dưới sàn nhà cũng sẽ vẫn tuân theo hiệu lệnh của ta do tên phiên dịch truyền đạt. Dẫn những tên còn lạ