Chương 49
TRONG CABIN RIÊNG NHỎ HẸP NẰM ngay phía trên bánh lái tàu Susquehanna, Samuel Armstrong bò rạp xuống chiếc bàn viết tạm bợ của mình, hối hả viết phần cuối cuốn nhật ký chuyến đi. Cả tiếng máy tàu ầm ầm lẫn tiếng quạt nước của bánh lái đều không làm ông mất tập trung, tay ông ngoáy lia lịa chiếc bút lông ngỗng rất nhanh trên cuốn sổ ghi chép khổ rộng. Qua ô cửa sổ nhỏ phía sau, chiếc Sagatora lặng lẽ lướt đi theo vệt nước của tàu đô đốc, buồm xếp gọn ghẽ trên cột. Phía sau chiếc Sagatora là chiếc Mississippi, rồi đến chiếc Plymouth cao ngất, cả bốn con tàu làm thành những cái chấm kỳ ảo xuôi ra giữa vịnh Yedo hướng ra biển cả, Hồng Kông, Canton và Thượng Hải.
Những con tàu chiến thận trọng giữ vững khoảng cách với nhau, để lại một ấn tượng cuối cùng về sức mạnh của hơi nước trước hàng ngàn người dân cũng như binh lính Nhật Bản đang dõi theo từ trên các mỏm núi và các bãi biển. Đó là buổi sớm ngày Chủ nhật, 17 tháng Bảy 1853. Không hề có một ngọn gió nhẹ nào làm lay động mặt nước vịnh phẳng lặng sáng như gương. Vì thế những đoàn thuyền mành đánh cá giờ đây đã bình thản trở lại ngỡ ngàng nhìn những con tàu đen sừng sững nhả những cuộn khói dày đặc và nặng nề đi về hướng nam, để lại sau chúng những vệt dài cuộn xoáy. Từ trên bãi cát người ta cũng đang đẩy ra biển hàng trăm chiếc thuyền với những tay chèo tăm tắp, chở theo những người nông dân hoặc dân thành thị háo hức muốn nhìn một lần cuối những con tàu rùng rợn của bọn rợ nước ngoài cùng những máy móc hùng mạnh của chúng.
Khi những con tàu đã thả neo cách Uraga khoảng năm dặm - Armstrong đứng bên hàng lan can trên boong tàu lặng lẽ nhìn đám thuyền đông đúc đó. Thoạt tiên ông cảm thấy nhẹ lòng vì sau mười ngày căng thẳng hạm đội đã rời xa Nhật bản cùng với tất cả những hiểm nguy của nó. Ông cũng vô cùng thanh thản bởi vì vai trò phiên dịch, cái vai trò đã làm dấy lên trong ông biết bao dày vò day dứt đã kết thúc- ít nhất là vào lúc này. Nhưng rồi ông kinh hãi thấy tâm trí không sao yên tĩnh được, vậy là ông vội vã quay về cabin để cho dòng suy nghĩ thoát ra trên trang nhật ký.
Ông viết lia lịa trong nhiều phút. Sau đó một cái gì khiến ông ngẩng đẩu lên khỏi công việc đúng lúc chiếc Susquehanna quay mũi khoảng một hoặc hai độ về hướng đông để điều chỉnh hướng đi của nó trong lòng vịnh. Bờ phía tây chập chờn hiện ra qua cửa sổ phía sau, Armstrong chợt thấy bàng hoàng vì vẻ đẹp của những dãy núi xanh chạy dài không dứt và những cánh đồng đã thu hoạch xong đổ xuôi về bãi biển phía trên Uraga. Những ngọn núi trọc dốc đứng bắt đầu xa dần. Thế rồi mặc dầu đã thầm lặng báo trước sự hiện diện của mình, đỉnh núi hình côn sừng sững của ngọn núi lửa Fuji dường như đột nhiên hiện lên từ những dải mây trắng để rồi kiêu hãnh đứng nổi bật lên trên khung cảnh buổi sớm mai.
Chân núi thoai thoải của ngọn núi lửa chìm trong những đám mây thấp như thường lệ, sườn núi màu xanh tím của nó và đỉnh núi trắng muốt lại dường như trôi dạt và tan vào chân trời xa mờ. Với nhà truyền giáo, được nhìn ngắm cảnh đẹp này vốn là niềm say mê, nhưng lúc này hình ảnh đột nhiên hiện ra khiến ông phải ngừng viết và đặt bút sang một bên. Ông đứng dậy đi lại bên cửa sổ và trầm ngâm nhìn ra làm dịu đi nỗi lo âu trong tâm trí, và ông cứ đứng nhìn không chớp mắt như thế cho đến khi con tàu đô đốc lại chỉnh lại hướng đi khiến ông không thể nhìn thấy bờ tây nữa. Cảm thấy bình tâm hơn, ông quay lại bàn, nhưng thay vì tiếp tục ghi chép ông ngồi xuống và chậm rãi đọc lại những trang đã viết xong bằng nét chữ gọn gàng, ngay ngắn.
Niềm vui lớn nhất của tôi sau khi từ Kurihama trở về là được biết Robert Eden đã được đưa trả về tàu đô đốc một cách bí ẩn trong khi tôi vắng mặt. Đối với tôi dường như những lời cầu nguyện nhiệt thành của tôi đã được đáp lại, trên cả hai mặt trận. Đã tránh được một cuộc xung đột khủng khiếp trên bờ và chàng thiếu uý dũng cảm xứ New England đã được trả về tàu một cách bí ấn, còn sống sau khi mất tích bảy ngày. Niềm vui của tôi giảm đi khi được biết rằng Thiếu uý Eden bị thương rất nặng và cho đến sáng nay anh ta vẫn phải chiến đấu chống lại tử thần ở trong khu vực đặc biệt của bệnh xá của tàu. Anh ta nằm gục ở chân một chiếc thang lên tàu sau khi được một chiếc thuyền Nhật lặng lẽ đem đến đặt ở đấy và được hai người lính gác khiêng lên. Lúc này, ba thuỷ thủ mang đầy đủ súng các bin và dao găm đang canh gác hai tư giờ mồi ngày cạnh giường bệnh của anh ta - giường bệnh của anh ta được coi như nhà giam tạm thời trên tàu. Người ta làm như vậy bởi vì từ lâu đã có một mệnh lệnh nghiêm ngặt là một khi anh ta đặt lại chân lên tàu thì phải bắt giam ngay. Thiếu uý cầm cờ Rice cũng cho tôi biết rằng chàng thiếu uý bị thương cũng chỉ mới báo cáo rất sơ sài về những gì đã xảy ra cho anh ta trên bờ... Nếu sống được, anh ta sẽ phải ra trước một phiên toà hải quân với những hình phạt thích đáng. Tương lai chắc chắn sẽ là bị tống giam và tước bỏ các chức vụ hải quân...
Armstrong ngừng đọc, trong lòng trào lên một sự ngưỡng mộ và thương cảm cho Eden. Chàng sĩ quan trẻ khi trốn khỏi tàu rõ ràng đã biết rõ những nguy hiểm cho cuộc đời cũng như cho tương lai của mình. Armstrong so sánh và chợt thấy hành động của chính ông khi ông đeo thanh kiếm đầu tiên trong đời để khỏi phải lên bờ tay không thật nhỏ nhoi và chẳng có giá trị gì. Ông hơi lắc đầu tự chê trách mình trước khi một lần nữa quay lại cuốn nhật ký:
Để làm cho mọi chuyện thêm tồi tệ hơn, sau khi y sĩ trên tàu mổ vết thương ở đầu và ở chân, Eden lại bị sốt. Cơn sốt cao mãi đến hôm qua mới dứt, người ta nói anh ta còn rất yếu vì sốt và vì mất nhiều máu. Tôi đã nhiều lần viết thư cho cả Eden lẫn cho y sĩ đề nghị được đến thăm và động viên tinh thần cho anh ta - nhưng cho đến bây giờ chưa nhận được trả lời. Rất phi lý là tất cả những cái đó lại làm cho tôi bứt rứt hơn bao giờ hết về vai trò của mình trong những sự kiện to lớn mười ngày vừa rồi. Robert đi theo xác tín về hoà bình, đã bất chấp tất cả nguy hiểm. Còn tôi, mặc dầu sự ghê tởm mỗi lúc một lớn lên trong lòng ; tôi vẫn tiếp tục đóng vai trò đi đầu làm kẻ tòng phạm trong những hành động đe doạ quân sự trơ tráo. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng những cố gắng bí mật của tôi giúp Haniwara Tokuma chống lại sự đe doạ đó có thể là một phần nhỏ nào đó đền bù lại. Dù điều đó có chút nào có ích, tôi vẫn không hề thật sự sửa chữa được thái độ thù địch của chúng ta đối với người Nhật...
Armstrong lại ngừng đọc cuốn ghi chép, ông nhớ lại đô đốc Perry đã cay cú như thế nào trước những lời cuối cùng không hề có tính chất ngoại giao trong tờ tiếp nhận của triều đình mà người ta đã trao cho ông ta trong buổi lễ: "Bức thư của Tổng thống của các người đã được nhận, bây giờ các người phải rời khỏi đây!"
Khi về đến tàu đô đốc, câu trả lời của ông ta là ra lệnh cho cả bốn con tàu tiến vào gần Yedo thêm mười dặm nữa, trong khi tiến lên thì kéo buồm căng hết cỡ và tiến hành đo đạc chiều sâu thật công khai. Sau đó người ta thả thêm mười chiếc thuyền nhẹ để tiến hành thêm một số đo đạc khảo sát gần bờ. Khi Thống đốc Uraga hoảng hốt lên tàu để hỏi tại sao hạm đội vẫn chưa rời đi như đã được yêu cầu, chính Armstrong đã được lệnh phải nói với ông ta rằng người ta đang tìm chỗ để thả neo an toàn cho một hạm đội các tàu chiến lớn hơn sẽ trở lại đây trong vòng vài tháng tới để nhận câu trả lời của Hoàng đế. Ngày hôm sau Đô đốc đã chuyển cờ hiệu của mình sang tàu Mississippi và đưa con tàu đến sâu thêm vào vịnh mười dặm nữa biểu thị một sự đe doạ không thể nhầm lẫn được rằng các tàu Mỹ hoàn toàn có thể tiến đến gần thủ đô trong khoảng tầm bắn.
Trong khi các hành động đó diễn ra, viên Thống đốc và tốp quan chức của mình lại yêu cầu được lên tàu Susquehanna. Không hề thấy bóng dáng Haniwara Tokuma đâu. Viên Thống đốc lảng tránh mọi câu hỏi của Armstrong, chỉ trả lời cụt ngủn là ông ta "đã làm xong nhiệm vụ". Một người phiên dịch khác đã thay vào chỗ ông ta. Viên thống đốc vẫn giữ thái độ lịch sự và hoà nhã không hề thay đổi mặc dầu không khí xung quanh vô cùng căng thẳng do việc các tàu chiến tiếp tục tiến lên gây ra. Bản thân Armstrong quyết định không nói gì về những điều mà ông biết được về những cuộc xung đột và vận động ngầm ởKurihama. Trước khi hạm đội rời đi, cả phái đoàn Nhật đã hai lần được mời thưởng thức rượu vang và rượu whisky cũng như xúc xích và các đặc sản khác của Mỹ, họ đã thích thú nếm thử. Họ cũng được mời đi xem các động cơ và các súng ống vũ khí trên tàu. Rõ ràng là họ bị hấp dẫn bởi những thứ đó. Viên phiên dịch mới đã phải dịch lại những câu hỏi không dứt của các vị quan đi trong đoàn và trước sự ngạc nhiên của các sĩ quan Mỹ, ông ta đã ghi chép tỉ mỉ các kích thước cũng như cách vận hành các khẩu súng và các động cơ máy móc. Cuối cùng còn có cuộc trao đổi các quà tặng không hề được chuẩn bị trước - những hạt giống cây của Mỹ, những cuốn sách lịch sử được trao đổi với những chiếc quạt Nhật, mũ sơn mài và tẩu thuốc. Nhưng theo những gì đã ghi trong nhật ký, Armstrong không thể nào bỏ qua được việc tất cả những cử chỉ đời thường đó lại diễn ra bên cạnh sự thù địch và doạ dẫm của những con tàu chiến.
Chính Đô đốc Perry đêm qua đã nói lên sự thật hiển nhiên đằng sau những động tác đó. Tôi đã nghe thấy Đô đốc nói lúc ở trên boong chỉ huy rằng người Nhật "chỉ có thể hiểu được lý lẽ khi mà họ sợ!" Ông ta cũng nói rằng ông tin một khi người Nhật nhận ra rằng bờ biển của họ hoàn toàn nằm trong tay một lực lượng hải quân hùng mạnh "thì họ sẽ làm tất cả những gì người ta yêu cầu". Mặc dầu chỉ Thượng nghị viện của Họp chủng quốc mới có quyền cồng bố chiến tranh và rõ ràng là chưa hề tuyên bố chiến tranh với Nhật Bản, nhưng trong mười ngày qua bằng tất cả những hành động của mình Đô đốc đã nhiều lần tuyên bố chiến tranh với người Nhật. Và tôi - lúc này đang vô cùng ân hận - đã giúp sức trong tất cả những cái đó, mặc dầu trong lòng mỗi lúc một căm ghét. "Cuối cùng Nhật Bản đã phá vỡ luật lệ của riêng mình để tuân theo luật lệ chung của toàn thế giới là hiếu khách" - Đó là lời của một sĩ quan cao cấp khác nói đêm qua. Nhưng lương tâm Cơ đốc của tôi lúc này không thể chấp nhận được rằng người ta có quyền đòi hỏi một "luật hiếu khách chung của toàn thế giới" bằng những khẩu súng sáu mươi tư bảng...
Armstrong ngừng đọc và một lần nữa cảm thấy một cách mạnh mẽ hơn những kẽ hở trong lý lẽ đã được dùng để bào chữa cho hành động của hạm đội hải quân Mỹ. Ông cứ băn khoăn tại sao trong suốt cuộc hành trình trên biển ông không nhìn thấy kẽ hở đó một cách rõ ràng như thế sớm hơn, thế rồi ông nhận ra rằng thực tế ông đã lờ mờ nhận thấy trong thái độ của mình có những mâu thuẫn. Cuối cùng ông nghĩ có lẽ là do ông đã tìm cách lờ đi những mâu thuẫn khó chịu và với nỗi xấu hổ này ông quay lại viết những dòng kết thúc cuốn nhật ký.
Tôi tin rằng Robert Eden thật trẻ trung khỉ hành động một cách vô cùng dũng cảm và quả quyết như vậy. Có lẽ tôi không thể nào dữ dội và khoan nhượng như vậy được nữa, sau bao nhiêu năm cố gắng hoà giải những xung đột tưởng như không thể hoà giải được giữa các tín ngưỡng khác nhau. Có lẽ từ lâu khoan nhượng đã là một cách sống của tôi. Có lẽ đó là những điều mà kinh nghiệm cuộc đời đã dạy cho tôi. Có lẽ đó là bài học lớn mà mỗi người đều phải học một khi người ta đã già đi hoặc có thể là không phải như vậy! Có thể trong một vài tình huống nào đó khoan nhượng lại là cách xử lý làm người ta đáng xấu hổ, có những nguyên tắc quan trọng không bao giờ được phép khoan nhượng! Có thể thế giới sẽ tốt hơn nếu như có nhiều những linh hồn trong sạch và dũng cảm - nhiều Robert Eden hơn? Cấp trên của anh ta hoàn toàn có quyền nói rằng bằng cách hành động một cách bột phát không được phép, anh ta đã làm tăng nguy cơ chiến tranh và có thể huỷ diệt tất cả chúng ta. Nhưng chắc chắnEden sẽ trả lời là hành động của cấp trên của anh là sai - và anh ta cố gắng để sửa chữa sai lầm cho họ. Dẫu cho lời đáp cho tất cả những câu hỏi đó là thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn hy vọng trong những năm sau này người Nhật sẽ không mãi mãi nung nấu mối căm hận đối với lần tiếp cận đầu tiên với người Mỹ này, mà tôi có tham gia rất mật thiết trong đó. Dĩ nhiên là họ hoàn toàn có quyền oán hận. Tôi chỉ có thể khiêm tốn cẩu nguyện rằng Chúa lòng lành sẽ giúp chúng ta chấm dứt sự cô lập của Nhật Bản- và đưa dân tộc họ vào tình thân ái với phần còn lại của thế giới mà không cần đến máu đổ và bạo lực.
Có tiếng gõ cửa khiến Armstrong không đọc tiếp được. Khi đứng dậy mở cửa, ông thấy Chuẩn uý Harrisđang đứng nghiêm trên ngưởng cửa. Chuẩn uý lịch sự giơ tay chào nói:
- Ngài Armstrong, Thiếu uý cầm cờ Rice gửi lời chào ngài. Và tôi được lệnh nói với ngài rằng lời yêu cầu của ngài được đến thăm thiếu uý Eden đã được chuẩn y.
Nhà truyền giáo kinh ngạc kêu lên:
- Tuyệt vời! Có phải như vậy có nghĩa là thiếu uý đã qua cơn nguy hiểm rồi không?
Harris lắc nhanh đầu, mặt anh nghiêm nghị:
- Thưa ngài, tôi e rằng không phải. Có chăng là anh ấy hơi xấu đi. Y sĩ nói rằng cơ may của anh ấy là năm mươi - năm mươi.
Armstrong vội hỏi:
- Có phải vì thế mà tôi cần đến thăm anh ấy bây giờ không.
- Không, thưa ngài. Theo tôi hiểu thì hình như chính thiếu uý Eden yêu cầu được gặp ngài.
Gương mặt nhà truyền giáo tối đi vì lo âu:
- Vậy khi nào tôi có thể gặp anh ấy.
Viên chuẩn uý trẻ đáp:
- Tôi được lệnh đưa ngài đến đó ngay bây giờ.