- IV - Ngọc Tuyền thảm sử
Với giọng trong trẻo, Lan ôn tồn kể:
“Năm Nhâm Ngọ 1786, vua Thái Đức cử Nguyễn Huệ làm Tiết Chế Thủy quân tiến quân đánh Bắc Hà. Nhờ tài thao lược của Vũ văn Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh, quân của Đoan Nam Vương không còn manh giáp.
Huệ và Chỉnh vào chầu vua, lấy danh là diệt Trịnh phò Lê. Vua phong Huệ làm Uy Quốc Công và gả công chúa Ngọc Hân cho Huệ. Lê Hiến Tông đang ốm, vì bị kích thích quá, nên sau khi cử hành hôn lễ cho công chúa, vua băng hà. Hoàng tự tôn Duy Kỳ lên thay lấy tên là Lê Chiêu Thống.
Nguyễn Huệ vốn không ưa Chỉnh, nên một đêm tháng tám, Huệ mật truyền cho các quân thủy bộ rút lui về Nam, có ý mượn tay các phần tử còn lại của họ Trịnh và dân Bắc Hà trừ Chỉnh. Bị ruồng rẫy một cách tàn nhẫn, con chim bằng không biết cất cánh về đâu? Biết rằng mình hiện ở trong vòng nguy khốn, Chỉnh về Nghệ An hiệp cùng anh rể là Nguyễn Khuê lo chiêu binh và thao luyện quân sĩ. Một lần nữa, Chỉnh kéo binh phong tỏa Thăng Long. Các hổ tướng của Trịnh Bồng đều vỡ mật trước vó ngựa kiêu hùng của Chỉnh.
Hữu Chỉnh vào chầu vua. Vua Lê phong Chỉnh làm Bình Chương quân quốc. Con của Chỉnh là Nguyễn Hữu Du được phong tước Bái Đình hầu.
Bước một bước đến đài vinh quang, Chỉnh tự phụ mình có tài hơn thiên hạ. Các việc quân quốc, Chỉnh đều tự quyết, xem thường cả các quan. Chỉnh cho đi thâu chuông đồng ở các chùa về đúc tiền. Vì thế có kẻ lén viết hai câu đối này ở Đại hưng môn:
‘Thiên hạ thất tự chung, chung thất nhi đỉnh an tại,
Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần nhi điện diệt không’. [1]
Trong dân gian, lại có những câu đồng giao truyền rằng:
Nam mô đức Phật Như lai,
Vắng chuông chiêu mộ đã hai tháng rày.
Ai đưa thằng Nhắng về đây,
Chuông chùa bị cướp, hại lây sư già.
Các quan ghét Chỉnh đã nhiều, dân tình oán Chỉnh không ít. Tuy biết vậy, Chỉnh vẫn rắn rỏi làm việc theo ý mình, vì Chỉnh nghĩ: ‘Có cứng mới đứng đầu gió’. Một hôm, Chỉnh truyền gọi tất cả những người rèn kiếm giỏi nhất trong nước vào, bảo họ rằng:
- Ta muốn đúc một thanh Ngọc Tuyền kiếm. Thanh kiếm ấy phải chém sắt như chém bùn, chém gỗ như như chém chuối. Ta sẽ dùng nó mà an bang định quốc.
Bao nhiêu thợ giỏi đều nem nép cúi đầu, không ai dám đảm nhận cái trách nhiệm ấy. Chỉnh bừng bừng nổi giận, hét to: ‘Các ngươi chuyên một nghề luyện kiếm, lại không có tài đúc nổi một thanh kiếm quý. Ta nghe nước Tàu có hai thanh Mạc gia và Cang Tương, nước Nhật có hai thanh Nãi mộc và Điểm nguyệt. Nước ta là một nước võ biền, lẽ nào không có được một thanh kiếm như họ hay sao? Các ngươi toàn bọn bất tài, lại làm điếm nhục quốc thể’. Hét xong, Chỉnh truyền võ đao quân đem bọn thợ ra pháp trường trảm quyết.
Một người thợ run lập cập, quỳ xuống bẩm: ‘Tôi tuy có học phép luyện kiếm quý, song vì khó khăn nên chưa thí nghiệm bao giờ. Nay xin vâng lịnh Quốc Công, thử đúc một thanh để Ngài định an xã tắc’.
Chỉnh vui vẻ:
- Nước ta ít nhất phải có một thiên tài chứ! Vậy nhà ngươi hãy chọn những thứ thép tốt, cần bao nhiêu vàng tốt, ta sẽ giao cho. Khi rèn xong, ta sẽ ban thưởng trọng hậu.
Người thợ dạ dạ vâng lời. Chỉnh truyền lịnh tha cho tất cả bọn thợ. Họ riu ríu ra về, mặt không còn chút máu.
Người thợ lãnh trách nhiệm ấy tên là Huyền Tôn. Một tuần sau, Huyền Tôn đem những thứ thép tốt vào ra mắt Chỉnh. Chỉnh sai đốt hỏa lò lên vào trao cho Tôn 10 lạng vàng.
Tôn bắt đầu luyện kiếm. Ròng rã ba tháng, thanh kiếm luyện gần thành. Tôn dâng lên cho Chỉnh xem. Ánh kiếm long lanh, tỏa ra một làn khí lạnh. Cán kiếm bằng vàng chạm hình một con rồng đang vương vuốt. Ở chuôi, cẩn hai hạt ngọc, phản chiếu với ánh kiếm thành những tia sáng ngũ sắc, đẹp và lộng lẫy một cách lạ thường.
Chỉnh hân hoan, ngỏ ý muốn thử. Tôn vội vàng thưa:
- Theo phép luyện báu kiếm, phải có đủ thần khí âm và dương. Nếu luyện riêng hai thanh thì một thanh thư, một thanh hùng. Nay thanh Ngọc Tuyền chỉ có hình mà chưa có thần, chưa thể gọi là báu kiếm.
Chỉnh hỏi:
- Vậy phải làm thế nào cho kiếm đủ thần khí?
- Các đạo sĩ ngày xưa thường lấy thần khí bằng linh hồn của hai vị nam nữ đồng trinh. Quốc Công nếu muốn được một thanh gươm quý như thanh Cang Tương, tất cũng phải theo phép ấy.
Chỉnh cười rùng rợn:
- Nếu vậy, phiền người một lần nữa, tìm cho ta hai vị đồng tử. Nội trong ba hôm, ngươi trở vào đây luyện nốt thanh thần kiếm. Huyền Tôn từ tạ lui ra.
Tôn có một đứa con gái tên là Huyền Tiên. Mới 16 tuổi mà sắc nước hương trời, nàng đã làm thẹn cả hoa và làm hờn cả nguyệt. Hôm ấy thấy cha về có mang theo một thanh kiếm, nàng niềm nở tiếp lấy thanh gươm, ngắm nghía. Và nàng hí hởn hỏi:
- Thanh kiếm của ai mà đẹp như vậy, cha?
- Đó là thanh Ngọc Tuyền của Bình Chương quân quốc.
Tôn thuật rõ câu chuyện luyện kiếm lại cho con nghe. Nét hoa sa sầm, nàng chau mày nói:
- Sao cha lại nhận luyện làm gì?
Tôn buồn rầu:
- Nếu không nhận thì bao nhiêu đồng nghiệp bị rơi đầu một cách vô lý!
Nàng vẫn dằn dỗi:
- Bao nhiêu người rơi đầu, còn hơn là để giang san nghiêng ngửa.
Lặng yên một lúc, nàng tiếp:
- Cha lãnh tìm hai vị đồng tử thật sao?
- Ngộ biến phải tùng quyền. Nếu để thử kiếm thì cũng chết mà không nhận thì cũng chết. Vì kiếm nào lại có thể chém sắt như chém bùn?
Nàng thẫn thờ:
- Bây giờ phải làm sao?
Tôn cương quyết:
- Chỉ còn có cách là đào tẩu. Vậy con hãy lo sửa soạn, ta phải lên đường ngay.
Mắt Tiên bừng lên một tia sáng. Nàng riu ríu đi vào tom góp đồ đạc. Tiên có cảm tưởng như đời nàng đang chuyển dịch đến một đoạn đường nguy hiểm, mà nàng cần phải giữ vững tinh thần phấn đấu trước mọi trở lực, gian lao...
Qua ba ngày, Bình Chương quân quốc không thấy bóng Huyền Tôn trở lại. Rồi bốn ngày, năm ngày, một tuần... Chỉnh biết rằng mình bị lừa. Cơn giận của Chỉnh lên đến cực điểm. Ông hò hét, quát tháo, náo động cả dinh. Và lập tức, ông truyền cho quân sĩ bốn phương tập nã. Một mặt, ông gọi con là Nguyễn Hữu Du lại phán rằng:
- Ta có ý mưu đồ đại sự, nên mới rắp tâm cho luyện thanh kiếm Ngọc Tuyền. Nay thanh kiếm gần xong, lại bị người mang đi mất. Nếu để lọt về tay Trịnh chúa, vua Thái Đức hay Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, thì bao cơ nghiệp của ta gầy dựng, ắt rồi sẽ tiêu tan. Vậy con phải lên đường, gắng công tìm lại cho được thanh bảo kiếm.
Hữu Du vâng lời cha, lên ngựa ra đi...”
Tiếng ngựa hí làm cho ba người giật mình. Sơn ngoảnh lại nhưng trí còn đeo đuổi vẩn vơ theo câu chuyện. Nhi từ nãy giờ mê man nghe, thấy Lan ngưng, cậu hỏi:
- Rồi sao nữa, chị Lan? Hữu Du có tìm được thanh kiếm chăng?
Lan mỉm cười kể tiếp:
“Hữu Du đi khắp kinh kỳ, đi từ tỉnh này qua tỉnh khác, nhưng mây ngàn hạc nội, biết đâu mà tìm. Chàng nghĩ rằng: ‘Có lẽ vì sợ tập nã, Huyền Tôn đã trốn về những nơi thâm sơn hẻo lánh chăng?’ Và bắt đầu từ đây, chàng rời bỏ những nơi đô thị, một mình một ngựa bôn ba khắp chốn rừng xanh.
Ròng rã mấy tháng trường từ núi này sang núi khác, từ rừng này sang rừng khác Hữu Du không thấy được tăm hơi thanh kiếm Ngọc Tuyền. Nhưng chàng thanh niên không nản chí, cái hình ảnh giang san trước mắt đã giục giã chàng phải kiên chí bền gan. Phong cảnh dầu đẹp đến đâu cũng không thể lưu luyến lòng người tráng sĩ.
Cho đến một ngày đầu thu. Gió thu reo võ vàng trên hoa cỏ, sương thu mờ trên cảnh vật đìu hiu. Chàng đang thơ thẩn buông cương, bỗng thấy dạng một người xa xa. Chàng ruổi ngựa đến, thì may quá, người ấy là Huyền Tôn.
Không thể tả hết nỗi vui mừng của chàng, cũng không làm sao tả được sự kinh hoàng của lão thợ. Lão muốn tránh cũng không thể nào tránh được. Hữu Du đã sừng sững trước mặt lão như một vị hung thần.
Hữu Du điềm nhiên cúi đầu chào:
- Tôi vâng linh phụ thân đi tìm thanh bửu kiếm. Vậy phiền lão hãy trao thanh Ngọc Tuyền lại cho tôi, rồi theo tôi về yết kiến Bình Chương quân quốc.
Nét mặt Huyền Tôn từ màu xanh mét đổi ra màu đỏ, từ vẻ sợ sệt đổi ra vẻ căm hờn. Lão cười gằn bảo Du:
- Thanh Ngọc Tuyền lão không còn giữ. Công tử cứ lấy đầu lão mà thay cho thanh kiếm.
Hữu Du căm tức:
- Ta chỉ cần thanh kiếm chứ không cần đầu lão.
Tôn thản nhiên:
- Thế thì công tử hãy trở về không vậy.
Một dòng máu nóng sôi trong huyết quản chàng trai trẻ. Chàng rút gươm kê sát vào cổ lão, gằn từng tiếng:
- Lão phải chỉ mau: thanh kiếm lão giấu ở đâu?
Ngước mắt nhìn thẳng vào mắt Du, lão khẽ lắc đầu đáp:
- Tiếc thay, người khí phách như công tử mà lại đi lạc đường. Một thanh bảo kiếm có khi nào để lọt vào tay một kẻ phản quốc?
Tiếng ‘Phản quốc’ lão vừa thốt, lưỡi gươm của Hữu Du vừa vung lên. Máu từ cổ lão tóe ra nhuộm đỏ cả tay chàng tráng sĩ. Chàng lau tay đút trả kiếm vào vỏ, rồi ngất ngưởng ruổi ngựa đi. Đôi mắt chàng đỏ ngầu như say máu.
Một làn gió thổi qua, trút những chiếc lá vàng tơi tả. Mây lam đọng trên lưng chừng núi, xây những bức tường thành kiên cố uy nghi. Đi được năm dặm, Hữu Du chợt thấy trước mặt một ngọn suối. Tiếng róc rách điều hòa vang trong thung lũng tấu thành một bản nhản thiên thu. Một thiếu nữ xoã tóc ngang vai ngồi mơ màng trên một hòn đá.
Du lần tới. Thiếu nữ kinh ngạc nhìn Du, vẻ thẹn thùng bẽn lẽn. Du ngơ ngác bỗng thấy mình đứng trước một vẻ thiên nhiên, một vẻ đẹp cực kỳ huyền ảo, một vẻ đẹp có thể làm mềm nhũn chí anh hùng. Du có biết đâu nàng giai nhân tuyệt sắc ấy là Huyền Tiên, và thiếu nữ cũng có ngờ đâu chàng tuổi trẻ là Bình Chương công tử. Cho nên sau vài câu chuyện thanh khí, đôi lòng đã thấy khắng khít cảm tình. Giữa cảnh nên thơ, một mối tình bất diệt. Hai tâm hồn bay bổng giữa chốn trời mây.
Bóng hoàng hôn nhuộm u hoài trên rặng núi. Rặng bàng rủ ngọn, mang những dấu vết cuối cùng của ánh tịch dương. Huyền Tiên chợt đứng dậy, bảo khẽ:
- Cha em sao chừng này chưa về!
Rồi nàng chạy về phía rừng. Hữu Du chạy theo, lòng hồi hộp. Tiếng chân của Tiên giẫm xạc xào trên lá. Từng cánh hoa vàng vương trên mái tóc, nổi bật như những vì sao.
Một cảnh tượng thương tâm bày ra trước mắt nàng. Thây của Huyền Tôn nằm lã trên một vũng máu. Tiên còn ngờ mình chiêm bao, nhưng than ôi! Sự thật tàn nhẫn vẫn ràng ràng trước mắt. Một sự đau đớn tràn ngập tâm hồn thiếu nữ. Nàng ngất quỵ bên cha.
Hữu Du thấy lòng tê tái. Chàng hối hận, đỡ Tiên dậy. Đôi mắt nàng chứa cả những niềm bi thảm tuyệt vời. Nàng tỉnh ra, hai dòng lệ chan hòa trên má. Du hết sức an ủi nàng, một mặt lo khâm liệm Huyền Tôn. Lần đầu tiên chàng tuổi trẻ đã từng xông pha trên trận mạc, đã từng coi mạng người rẻ như bèo, biết ăn năn một hành động vô ý thức chỉ vì giọt nước mắt của giai nhân.
Đến tối, Huyền Tiên và Hữu Du mới trở về. Hai người ở trong một chòi lá cất dựa bên rừng, trông ra thung lũng. Đó là căn nhà Huyền Tôn đã tạo ra để sống hẩm hiu với con gái. Ngày nay bóng Tôn đã vắng, thay vào đấy bóng của chàng trai. Tiên thấy đời mình lẻ loi cô độc, và cần phải vịn vào một lẽ sống. Người thứ nhất đến trên đời nàng là Du, đến giữa lúc nàng bơ vơ, giữa lúc tâm hồn nàng khủng hoảng. Lòng thiếu nữ dễ đi từ sự cảm kích đến yêu đương. Và chỉ có tình yêu tha thiết chân thành mới vợi bớt nỗi niềm đau khổ. Than ôi! Nàng có biết đâu người nàng vịn vào để sống ấy lại là người đã gây ra nỗi khổ cho nàng.
Về phần Du, chàng thấy cả một mỉa mai chua xót giữa một mối tình đẫm lệ. Chàng thành thật yêu và thành thật ăn năn, nhưng không lúc nào chàng dám hở môi để thố lộ sự thật. Tiếng thổn thức của Tiên đã bao lần làm lòng chàng quặn thắt, chàng chỉ muốn nó chôn vùi trong dĩ vãng, tan đi trong oan khổ của ngày qua.
Một hôm ngồi với Du bên bờ suối, Tiên nhìn dòng suối bảo chàng rằng:
- Anh có thấy làn nước lóng lánh hào quang kia không? Cha em chết, chính vì ánh hào quang ấy.
Du ngơ ngác:
- Em nói gì, anh không hiểu.
Nàng buồn bã:
- Đó là những tia sáng phản chiếu của thanh kiếm Ngọc Tuyền mà cha em đã thận trọng đặt nó dưới đáy suối. Người chết đi chỉ vì một bàn tay liên hệ với thanh kiếm.
Du giật mình. Vật mà chàng ra công tìm kiếm mấy năm nay, đang hiển hiện ở trước mặt chàng. Chàng nghĩ đến lời cha, lòng thấy bứt rứt. Nhưng khi nhìn lại Tiên, một tràng cảm xúc làm cho chàng xao xuyến bùi ngùi. Chàng thương Tiên vô cùng, thương với tất cả tấm lòng của một tình yêu xanh trẻ. Có thể nào chàng phản bội được lòng chăng? Đôi mắt như một hồ thu chứa đầy đau khổ kia, có thể nào chàng nỡ nhẫn tâm gieo thêm đau khổ cho nàng chăng? Thời gian ân ái bên nhau đã chứa đầy thơ mộng, muốn vứt đi cũng không thể nào vứt được nào. Du nghĩ thầm: ‘Thà là ở đây vui khổ với nàng cho trọn nghĩa’.
Nhưng một đêm thu, lòng tráng sĩ bỗng chạnh niềm cố quốc. Tiếng quyên kêu nôn nã làm náo động giấc tha hương. Chàng thấy cần phải về, phải đặt ái tình sau nghĩa vụ. Chàng nhìn Tiên. Nàng vẫn ngủ ngon lành như đứa trẻ. Vẻ mặt lúc nào cũng buồn một cách thê lương. Chàng cúi xuống hôn khẽ vào trán Tiên, rồi gắng gượng đứng lên. Một lần này đi có lẽ là một lần vĩnh biệt. Chàng trở ra suối lấy thanh gươm, rồi lên ngựa cho ruổi về Kinh Khuyết...
Sáng hôm sau, Tiên trở dậy thấy mất chàng trai. Ra suối mất thanh kiếm. Không còn sự đau khổ nào nặng nề, oan nghiệt hơn. Nàng thấy đời nàng như sa vào một hố sâu thăm thẳm, sâu tận cùng, và tâm hồn nàng đang chơi vơi tan lần vào cõi tối tăm, mờ mịt. Và nàng đành mượn dòng Suối Ngọc để gởi tấm thân ngà và sự đau khổ thiên thu.
Tháng 10 năm Đinh Vị, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ tiến quân đánh Bắc Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng con cầm binh ra trận. Hữu Du đi tiên phong bại một trận ở sông Thanh Quyết. Hữu Chỉnh bại luôn mấy trận ở Thăng Long. Tướng Tây Sơn là Nguyễn văn Hóa bắt được Chỉnh và giục quân đuổi theo. Du đơn thân độc mã bôn đào về miền thượng du sơn cước. Chạy đến Suối Ngọc thì người và ngựa mệt lã, mà binh mã địch thì đã bao vây khắp thung lũng. Chàng nhìn xuống suối, than rằng: ‘Mạng ta đã cùng rồi’. Bỗng thấy lồ lộ trên mặt nước rõ ràng hình ảnh của Huyền Tiên. Nàng nhìn chàng có vẻ căm hờn oán trách. Du hối hận quỳ xuống bên suối giọng tha thiết: ‘Huyền Tiên, em tha tội cho anh’. Tiếng suối reo đáp lời chàng một cách lạnh lùng. Du rút thanh Ngọc Tuyền ra, tự đâm vào cổ. Một dòng máu tóe rơi xuống làn nước, vạch một đường đỏ giữa muôn vàn ngấn bạc long lanh... ”
Lan kết thúc câu chuyện, giọng buồn như một tiếng thở dài. Sơn ngậm ngùi:
- Tội nghiệp Huyền Tiên quá!
Nhi cũng muốn rơm rớm nước mắt. Cậu cầm lấy tay Lan, hỏi khẽ:
- Hình ảnh Huyền Tiên đâu không thấy trên mặt nước nữa chị, chị Lan?
Lan thẫn thờ trông xuống suối. Hình ảnh một thiếu nữ vẫn mơ màng đóng khung trên mặt nước. Lan không còn phân biệt đó là phản ảnh của mình hay là hình dung của người mạng bạc...
Chú thích
[1] Thiên hạ mất chung, chung mất, đỉnh còn sao được.
Hoàng thượng đốt phủ, phủ đốt thì điện cũng tan.