Các Bài Pháp Ngắn Thích Nghi
Trong việc thực hành Pháp, mọi sự tiến triển dần dần. Ta không thể ép buộc hay hối thúc mọi sự dưới mọi hình thức, tương tự như cách ta xây tu viện này.[1] Nếu muốn xây một tu viện, ta cần tiến triển từ từ, từng chút, từng chút. Ta phải có sự thích nghi với những phát triển mới trong các bước. Đây cũng là thái độ cần có đối với việc thực hành Pháp. Muốn hoàn thành tất cả mọi thứ trong một ngày là điều không tưởng, nên ta cần đi từng bước một.
Tôi không nghĩ có sự khác biệt gì ở đây, vì Úc và Thái Lan khá giống nhau: Khi người ta hạnh phúc hay khổ đau, ở đâu cũng giống nhau.
Dĩ nhiên, tình cảm con người cũng tùy thuộc vào điều kiện sống, vào khí hậu, nhưng thực ra khí hậu chỉ trở thành chướng ngại khi sự chống đỡ của cơ thể yếu. Nếu ta đã thiết lập được sự chống đỡ, thì việc khác biệt khí hậu không có gì ghê gớm. Thời tiết quá nóng hay quá lạnh không phải là vấn đề - đó chỉ là vấn đề thích nghi của ta đối với hoàn cảnh. Việc tu hành cũng thế. Ta không thể mong là việc thực hành của mình luôn luôn tốt. Ta cần phải quán chiếu sâu hơn để thấy việc thực hành là luôn phải thích nghi. Cái gì không đủ, ta thêm vào, cái gì không tốt ta bỏ đi.
Nhưng hãy nhớ, nếu quan điểm của ta sai lệch, thì sự tiến triển của ta không thể đúng hướng. Khi ta có các quan điểm sai lệch (agati dhammā), ta chưa thể hoàn thiện trong Pháp.
Thí dụ có người thấy một miếng đất không bằng phẳng, gồ ghề, thì nghĩ là miếng đất không sử dụng được. Không đúng như thế. Nếu ta biết san bằng, làm phẳng lại, thì mảnh đất vẫn có thể sử dụng. Ngay cả khi mảnh đất gồ ghề, ta vẫn có thể sử dụng nếu biết vun quén. Ngược lại, nếu mọi thứ không được sắp xếp cho phù hợp, thì dầu mảnh đất có bằng phẳng, phì nhiêu, cũng không đem lại kết quả khả quan.
KHỔ[2]
Khổ trong Tứ Diệu Đế có thể chia làm hai: khổ thân và khổ tâm. Khổ tâm là do tà kiến. Nó phát khởi bất cứ khi nào tâm bị các yếu tố bất thiện như si hay tham chế ngự.
Nhưng khi quán sát cái khổ nơi thân, ta nhận thấy rằng đó là những thứ ta luôn cảm nhận nơi thân. Có thể nói đó là một phần của chính cuộc sống. Có sống thì có khổ. Các cơ quan trong thân cần bài tiết cũng là khổ. Đói và khát cũng là những cảm giác khó chịu, trái ngược lại là cảm giác dễ chịu, nhưng thực ra cả hai quá trình này cũng là khổ.
Khổ đến từ tâm tham, hay taṇhā. Taṇhā là trạng thái không biết đủ. Giống như các biển lớn dầu tất cả các dòng sông có đổ vào cũng không bao giờ đầy, nên tâm tham cũng không bao giờ được thỏa mãn. Vì thế Đức Phật đã nói kệ:
Không có sông nào như tâm tham. (Pháp cú 251)
CÒN LẠI GÌ?
Khi thực hành chánh niệm trên thân, ta chú tâm vào sự hoại diệt, kết thúc của thân. Ta chú tâm vào việc quán sát để thấy rằng thân không bền vững và nó không thể là cái ngã của ta.
Mỗi ngày cái chết luôn xảy đến cho ta, nhưng đó là cái chết giấu mặt, không phải là cái chết rõ ràng như ở thân. Ta có thể nhìn thấy điều đó qua thực tại là sự vật đổi thay. Chúng ta chết từ là đứa trẻ khi trở thành người lớn. Rồi điều đó cũng chết. Khi ta bước vào giai đoạn sống khi thân hoại và không thể kiểm soát được như trước, cũng là chết. Các thành tố của cuộc sống hoạt động theo tính chất của chúng, rồi tan rã. Đất theo đất, nước theo nước, lửa theo lửa và gió theo gió. Có còn lại gì để ta có thể coi là hành trang của mình nữa đâu?
Tan Chảy Như Tuyết
Thời gian chậm rãi trôi qua. Đức Phật đã ví chúng sanh với con vật đang bị kéo đến lò mổ thịt. Mỗi ngày thời gian trôi qua. Quãng đời của ta giống như giọt sương trên đầu ngọn cỏ - hay giống như tuyết rơi mà ta làm thành banh tuyết[3] - nếu ra nắng nó sẽ tan chảy, và khi gió thổi nó bốc hơi, rồi biến mất.
Đức Phật muốn chúng ta quán tưởng về cuộc sống theo cách này, để ta không bị những thứ bất tịnh - các uế nhiễm và tham ái - làm choáng ngợp, để ta không có cách sống hạn chế tự do của mình, và không thể tự làm chủ.
Bản Chất Của Tâm
Bên cạnh thực tại vật lý, còn có thực tại của tâm. Tâm không có hình tướng, nhưng nó có một số đặc tính để tự biểu lộ trong các trạng thái của hạnh phúc, khổ đau, lúng túng hay tự tại. Đức Phật gọi chúng là tâm pháp (nāma dhammā), còn ta gọi chúng là “tâm”.
Tâm chỉ là sự biểu hiện của nāma dhammā. Ta không thể nói tâm thiện lành hay “hoàn toàn xấu”. Tất cả tùy thuộc vào cách ta tiếp nhận sự vật và cách ta liên kết với cách sự vật có mặt. Cũng giống như các thành tố vật lý ta thấy trong thiên nhiên, thí dụ: sỏi, đá, cát hay cây, ngay cả núi non, sông nước. Nước chỉ là nguồn lực hữu ích cho cuộc sống nếu nó đã được thanh lọc, sẵn sàng cho ta sử dụng. Nếu ta khéo sử dụng các quy trình biến đổi và phát triển, các nguồn lực này sẽ hữu ích. Đó là cách mà Đức Phật đã nhìn tâm con người, như một thành tố tự nhiên, cần được phát triển và chỉnh sửa.
Tâm ở trạng thái tự nhiên không được thanh lọc giống như nước chưa được sát trùng, còn đầy bụi bẩn. Có những chất độc nguy hiểm pha trộn trong nāma dhammā, vì thế ta cần nỗ lực để thanh lọc và phát triển tâm.
Sự Phát Triển Của Tâm
Sự phát triển của tâm - hay sự phát triển của các trạng thái của tâm - đòi hỏi ta phải tự đặt mình vào các điều kiện thích hợp - những điều kiện không làm phiền não phát sinh. Ta tự đặt mình vào thực tại của giây phút hiện tại, và ta sống cẩn trọng, tỉnh thức để tự bảo vệ mình.
Khi ta suy tưởng, quán chiếu về những gì phù hợp hay không phù hợp, ta biết được những gì nguy hiểm và bất lợi, vì những thứ này tự chúng là như thế. Rõ ràng như thế. Ta luôn trải qua những điều đó. Thí dụ các trạng thái tâm bất thiện hay phiền não. Mọi người đều biết quá rõ các cảm giác này ra sao…
Hướng Đến Chân Trời Mới
Đức Phật dạy rằng những gì chúng ta đã làm để phát triển và hỗ trợ các điều thiện sẽ đem lại cho ta cảm giác của sự tự tại và tiến bộ. Làm được như thế, ta có thể nói mình “sẽ đến một chân trời mới” hay đơn giản là “lên Niết - bàn”.
“Niết - bàn” ở đây có nghĩa là một thế giới ở đó con người sống với trạng thái tâm tích cực. Thế giới của tâm tích cực ý chỉ tâm không còn bất mãn, không còn có các hành vi bất thiện, như là tham, sân và si - tâm đó giúp ta trải nghiệm được hạnh phúc.
Tất cả tùy thuộc vào chúng ta. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy ta phải biết cách tự phát triển và sửa mình. Để mọi thứ thuận theo tự nhiên không có nhiều lợi ích cho ta. Ta có thể so sánh chúng với các tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu mộc. Nếu ta không mài giũa, uốn nắn chúng theo khuôn mẫu, thì tài nguyên thiên nhiên không đem lại lợi ích gì. Thí dụ mái nhà nơi ta sống có thể che chở ta khỏi nắng, mưa, nóng, và lạnh là nhờ đã có sự xây dựng và phát triển.
Con người sinh ra không phải hoàn hảo tự ban đầu. Tất cả những gì ta có được, chỉ có thể xảy ra vì ta đã xây đắp dần dần, vì ta đã có trình độ, có rèn luyện. Với kiến thức và sự huân tập qua thời gian, ta sẽ có khả năng chuyển đổi sự vật theo nhiều cách khác nhau. Có thể tạo cho mình sự hiểu biết bản thân theo một cái nhìn cởi mở hơn, với sự cẩn trọng - một cách chân thật và đúng đắn, tất cả là tùy thuộc mình. Lúc ấy ta sẽ thấy rằng mình đang hướng đến một chân trời mới.
Chế Ngự Ma Vương
Có những lúc trong khi tu tập, chúng ta phải đối mặt với các vấn đề, các trạng thái tâm uế nhiễm, do cách ta phản ứng trong cõi dục, nơi có ba cô gái con Ma Vương đến quấy phá ta. (“Cô Rāga”, “Cô Arati” và “Cô Taṇhā[4]”).
Trong những lúc đó, hãy bình tĩnh, và tự hỏi bản thân: Các áp lực này chúng từ đâu tới, dưới hình thức nào? Tất cả đều đến qua sự suy tưởng của tâm ta. Chúng là thức ăn tâm linh do ta tự chế biến cho mình, chúng là các hành uẩn (saṅkhāras[5]). Đây là điều quan trọng chúng ta cần thấu hiểu. Nếu không, nghi hoặc và lo âu mà ta cảm nhận (về bản thân và phương cách tu hành) có thể trở nên quá mãnh liệt đến độ ta có thể nghĩ là tốt hơn nên đứng dậy bỏ đi hay nên giảm thiểu nỗ lực tinh tấn để đạt được giác ngộ.
Chúng ta có khuynh hướng buông bỏ tất cả, nhưng vẫn còn chút luyến lưu tận sâu thẳm trong ta, khuyên ta không nên đầu hàng. Bạn có biết hình ảnh Đức Phật được biểu hiện thế nào trong tư thế chế ngự Ma vương? Ý nghĩa thực sự của tư thế, hành vi đó là gì? Thân Đức Phật dường như đang trong tư thế muốn đứng lên: gối nhô lên, nhưng tay vẫn ấn nó xuống. Dường như Ngài nói rằng, “Hãy khoan, chờ một chút, hãy để ta quán sát kỹ trước”. Đó là thái độ chúng ta cần có khi ở vào hoàn cảnh này.
Sự Trải Nghiệm
Chúng ta cần tự biết bản thân - trong quá trình tu tập tiến đến chứng đắc Pháp. Ngay cả Đức Phật cũng không chỉ có các đệ tử hoàn hảo. Đức Phật cũng phải bỏ nhiều công sức vào việc uốn nắn, sửa đổi họ, trao truyền kiến thức cho họ, giúp họ huân tập các thói quen mới, cho tới khi họ được hoàn hảo. Trước khi họ trở nên thực sự hữu ích là một quá trình lâu dài.
Với chúng ta cũng thế. Hãy thử nghĩ đến sự kiện là trong quá khứ chúng ta chưa hề quan tâm đến thế giới tâm của mình. Chúng ta chỉ nhìn sự vật theo ý muốn của mình. Những gì khiến lòng ham muốn ta được thỏa mãn, ta cho là tốt. Khi bắt đầu nhìn thế giới từ quan điểm bao gồm các cảm giác thực sự của mình, ta có thể bị sốc và cuối cùng là nhận thức rằng ta cần sửa đổi một số điều. Thí dụ, khi ta trải nghiệm các khổ thọ với những ảnh hưởng tiêu cực, ta cần phải tìm cách và phương tiện để chấm dứt chúng.
Nếu đạt được đến điểm mà ta có thể dừng các trạng thái tâm tiêu cực, là ta thực sự đã đạt được điều gì đó rất hữu ích. Dần dần ta sẽ có được nhiều kiến thức và sự hiểu biết mà ta có thể ứng dụng được trong đời sống. Nếu hạnh phúc hay buồn phiền khởi lên, ta không cần phải biểu lộ đến độ đánh mất mình trong đó để phải gánh chịu khổ đau.
Ta phải thấy rằng các trải nghiệm này chỉ là cách giúp ta hiểu các quy trình mà nội tâm ta trải qua. Đó thực sự là tri thức.
Chú Tâm Buông Xả
Không kể đối tượng thiền mà ta chọn là gì, ta đã sở hữu các phương cách để trở nên an lạc. Ta chỉ cần chú tâm vào việc buông bỏ các hành vi bất thiện làm phát sinh sự bám víu, chấp ngã, ưa ghét hay các pháp thế tục (lokadhammā[6]) thường chế ngự ta trước đây.
Chỉ Là Chiếc Bè
Ta có thể ứng dụng sự quán sát thân để phát triển cảm giác viễn ly - ly dục qua kinh nghiệm của việc không nghĩ rằng ta làm chủ thân. Ta cố gắng nhìn thân như chỉ là sự biểu hiện của các thành tố và các uẩn có mặt thuận theo thiên nhiên.
Chúng ta có là gì - nam hay nữ hay bất cứ thứ gi - được phân biệt và gán đặc tính bởi các tên gọi theo chế định của xã hội, nhưng thực ra, mọi người đều cảm giác như nhau. Hạnh phúc hay khổ đau, cảm giác của sự hài lòng hay bất mãn cũng như nhau. Đó là những điều ta cần chú tâm vào.
Nếu ta nhận thức rằng thân ta và thân người cơ bản là giống nhau, ta có thể trải nghiệm trạng thái tâm đưa đến sự vắng lặng dục ái. Cuối cùng ta không thấy sự khác biệt giữa con người với nhau. Ta sẽ bắt đầu nhìn người khác không thành kiến.
Cảm giác thấy người này hơn, kém hay bằng người kia sẽ không phát sinh. Ta sẽ không cho là mình tốt hơn, bằng hay kém hơn người khác. Bằng việc duy trì thái độ này đối với bản thân, ta vun trồng được ý thức không thể bị che khuất bởi tính tự cao, tự đại và thiên kiến của ngã mạn.
Đây là cách ta thực hành quán thân (kāyagatāsati). Nếu ta đạt được sự viễn ly, ta có thể gọi đó là thân viễn ly (kāyaviveka).
Có thân giống như ta sở hữu một món đồ ta có thể sử dụng, thí dụ như một chiếc bình bát. Bình bát chỉ là đồ chứa thức ăn để dùng. Nó chỉ là chiếc bè. Tương tự, thân ta cũng chỉ là chiếc bè, là phương tiện để học hỏi, để phát sinh sự hiểu biết về thực tại.
Công Việc Của Ta
Nói về việc xả ly (viveka) - thực ra, ở một mức độ nào đó, chúng ta sống “viễn ly” đến đâu, tùy thuộc vào bản thân ta. Tuy nhiên, dầu nơi trú ngụ đã được sắp xếp cho ta có xa cách đến đâu, ta cũng phải vui lòng chấp nhận và tự mình bắt đầu thi hành các bổn phận của kẻ xuất gia (samaṇas[7]) ở nơi đó. Dầu phương pháp tu, các bổn phận, các nghi thức thường ngày là gì, ta vẫn phải tiếp tục tự thực hành. Ta tập có thái độ tự biết bổn phận mình.
Chúng ta có cảm thấy thế nào là chuyện riêng của ta, không phải vấn đề của người khác. Người khác không thể biết các trải nghiệm của ta. Chuyện phải quán sát các thói quen, đặc tính của mình, hoàn toàn là bổn phận của cá nhân. Ta thuộc hạng người nhiều tham ái, nhiều sân hay nhiều si? Đôi khi các tính cách này pha trộn vào nhau. Một người có thể vừa tham dục, vừa sân, hay vừa tham, vừa si, thí dụ như thế.
Có các đặc tính như thế là chuyện bình thường. Nhưng ta cần phải có thái độ muốn tận trừ, loại bỏ đối với chúng. Để làm được điều đó, ta cần có các trạng thái tâm an tịnh và biết ứng dụng các phương tiện thiện xảo giúp ta đạt được thanh tịnh.
Cuộc Sống Viễn Ly
Con người là những sinh vật sống trong xã hội, phải có sự giao tiếp, nên chúng ta không thể tránh khỏi việc phải tiếp xúc với đủ loại tác động, ảnh hưởng trong xã hội. Ta phải đối mặt với đủ phiền toái. Vì thế Đức Phật khuyên ta nên sống tỉnh thức với chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng, trong từng giây phút sống ở đời. Này là mắt để nhìn thấy hình, thấy dáng, tai để nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm, thân xúc chạm và - cuối cùng - các tưởng do các đối tượng trên làm phát khởi trong tâm.
Tất cả các trải nghiệm này cần được chắt lọc. Ta cần tiếp nhận chúng với sự cẩn trọng - có nghĩa là, với phương cách như thế nào để ta hiểu được sự tác động của chúng. Nếu ta có thể nhìn sự vật rõ ràng, tất cả mọi tác động tự chúng sẽ giảm cường lực.
Kinh nghiệm này cũng giống như khi ta ở bên con trẻ. Chúng rất vui khi được các món đồ chơi. Nhưng đối với chúng ta, các món đồ ấy - thí dụ một con búp bê - không có ý nghĩa gì. Nhìn lại các trải nghiệm của mình, sau một thời gian ta cũng bắt đầu thấy chúng chỉ là một đống rác, là những thứ không còn xài được nữa. Ta không còn coi các thứ này là quan trọng nữa - dầu đó là sân, tham hay si, ái dục, nộ khí hay vô minh - tất cả mọi thứ này ta đều coi như rác. Rác không phải là thứ người ta thích nhận. Không ai thấy rác có giá trị gì, nên nó phai dần trong tâm trí ta. Trạng thái tâm sân phai nhạt, trạng thái tâm tham phai nhạt. Dần dần sự viễn ly khỏi các trạng thái này sẽ phát khởi. Sự viễn ly khỏi những gì liên quan đến “xã hội” sẽ phát khởi - viễn ly khỏi “xã hội” của những gì mắt thấy, tai nghe và mũi ngửi.
Khi tâm xả ly đã phát khởi, ta sẽ trải nghiệm cảm giác mát mẻ, an tịnh như có một chỗ nương tựa bền vững. Chỗ nương tựa này giải thoát ta khỏi những lo âu. Cũng giống như được sống trong căn nhà, được che chở khỏi nắng, mưa, nóng, lạnh. Không có gì có thể phương hại đến ta.
Chú thich:
[1] Luang Por đang nói về tu viện Bodhivana ở Melbourne, Úc.
[2] Thường được coi là sự bất mãn, khó chịu hay căng thẳng
[3] Luang Por Liem vừa thấy tuyết trên núi Donna Buang gần Melbourne.
[4] Māra: Mỗi cô gái tượng trung cho môt uế nhiễm: rāga:dục, arati:sân, taṇhā:tham.
[5] Ở đây có nghĩa: hành uẩn..
[6] Chúng là khen chê, được mất, tiếng tăm, hạnh phúc và bất hạnh.
[7] Người tu, kẻ xuất gia.