THÍCH NGHI 2 -
Tạo Cơ Hội
Đức Phật có lời khuyên cho các hành giả tu tập trong các tăng đoàn, có lòng quan tâm đến nhau, thì phải tạo cơ hội để nhắc nhở nhau. Đức Phật gọi đó là pavāraṇā, để “tạo cơ hội cho nhau”. Trong môi trường sống của người tu, pavāraṇā[1] là một nghi thức chung cho mọi người.
Nghi thức đó (tự tứ?) sẽ cho mọi người cơ hội để nhắc nhở và có những lời phê bình có tính cách xây dựng. Sự phê bình, chỉ lỗi ở đây không phải được làm với một trạng thái tâm chấp vào quan điểm, ý kiến hay tư duy của ai. Nó chỉ là cách để nêu lên những vấn đề đang có mặt, hay cảnh báo nhau về những vấn đề có thể xảy ra. Nó được thực hiện không phải với tâm cao ngạo hay dối trá, vì tất cả chúng ta không ai hoàn hảo khi đang trên con đường tu đạo.
Đôi khi chúng ta chỉ biết nhìn phía trước mà không thấy cái ở phía sau ta. Chúng ta có thể có những yếu điểm. Ở đây ta dựa vào người để soi rọi cho ta. Hoặc họ có thể trao cho ta cái gương để tự soi mình rõ ràng hơn, giúp ta quan tâm hơn đến các khía cạnh ta cần phát triển. Đó là lý do ta cần dành cho nhau cơ hội để nhắc nhở, phê bình. Với cách đó, ta sẽ có thể tiến bộ hơn.
Khi ai đó chỉ lỗi hay những gì ta làm chưa tốt, ta cần chấp nhận. Ta cần tin rằng việc chỉ lỗi không phải được thực hiện với tâm phân biệt, thành kiến với ta.
Bất cứ khi nào chúng ta hành động với cảm xúc mãnh liệt như sân hay ngay cả bạo động chân tay, chúng ta phải nhận rằng đó là những hành vi xấu xí, nhơ uế. Nếu ta dành cơ hội cho người khác được góp ý với ta, điều đó sẽ giúp ta thiết lập lại được sự chánh niệm về hành vi của mình. Những hành vi ta không thích, người khác chắc cũng thế. Chúng không được chấp nhận trong xã hội. Nếu ta có các hành vi đó, ta sẽ khiến người khác khó chịu và có thể bị xem là người không khôn khéo.
Tăng đoàn tổ chức nghi thức pavāraṇā như là một nghi lễ trang trọng trong chúng, cần phải được thực hiện không kể chức vị, tuổi đạo trong nhóm. Cũng không kể đến kinh nghiệm hay kỹ năng mà người đó có.
Xã Hội Loài Cây
Sống chung, ta phải dựa vào nhau. Điều này có thể được so sánh với “xã hội sống” của rừng. Trong “xã hội loài cây”, không phải tất cả cây đều giống nhau. Có cây lớn, cây nhỏ. Thực ra, các cây lớn cũng phải dựa vào cây nhỏ và các cây nhỏ dựa vào cây lớn để được an toàn. Không phải cây lớn không bị đe dọa bởi bất cứ thứ gì. Khi có giông bão, các cây lớn dễ đổ ngã hơn. Tương tự các cây nhỏ nếu không dựa vào cây lớn cũng sẽ bị gãy đổ.
Bất cứ xã hội nào cũng cần liên kết với nhau như thế. Tuân theo các giới luật mà Đức Phật đã đề ra sẽ giảm thiểu các vấn đề có thể phát sinh trong những hoàn cảnh không thuận tiện. Chúng sanh cần sử dụng trí thông minh, các khả năng chánh niệm và trí tuệ, để vượt lên trên các hành vi trong cõi súc sanh. Đó là lý do Đức Phật tán thán các đặc tính của chánh niệm và trí tuệ.
Hoàn Toàn Bình Thường
Nếu ta xem những nỗi khổ bình thường trong cuộc sống ở xã hội là điều gì đó rất lớn lao, thì nó thực sự nặng nề. Nếu ta xem đó là chuyện tự nhiên, thì nó trở nên bình thường. Giống như khi ta nhìn cây, nếu ta thấy nó to lớn, thì nó trở nên to lớn, nếu ta thấy nó nhỏ, thì nó trở nên nhỏ. Nhưng nếu ta không xem nó là lớn hay nhỏ, thì không có gì phải ồn ào về nó. Nó trở nên hoàn toàn bình thường theo cách đó.
Đập Nước
Đôi khi, hoàn cảnh sống của chúng ta trong xã hội với các biên địa rất rộng lớn - cộng đồng cùng chung sống trên thế giới này được gọi là “gia đình lớn” của chúng ta - khiến ta cần rất nhiều sự chịu đựng kham nhẫn. Trong những hoàn cảnh khi ta có cảm giác lạc lõng, không biết mình đang ở đâu, ta có thể vô tình phạm lỗi lầm, vì thế nói chung, ta cần có khả năng kiên nhẫn chịu đựng một chút.
Kiên nhẫn chịu đựng là một loại năng lượng. Nó cũng giống như thứ năng lượng được tạo ra từ đập nước. Tương tự kiên nhẫn chịu đựng là một khả năng có sẵn để làm lợi ích cho ta.
Chúng ta kiên nhẫn chịu đựng những hoàn cảnh khi ta đối mặt với cảm xúc của người quanh ta. Dầu ta có nhận được điều ta chờ đợi hay không, ta nên kiên nhẫn chịu đựng. Nếu trong trường hợp mà ta có thể buông mọi thứ, cho chúng qua, thì sự kiên nhẫn chịu đựng trở thành là sự hy sinh hay nhường nhịn, một đức tính quan trọng để hỗ trợ lẫn nhau trong xã hội, giúp ta hiểu về cuộc sống tốt hơn.
Một Bổn Phận Đáng Ngợi Khen
Tôi thực sự muốn ca ngợi những công nhân có bổn phận chăm sóc người đã đến đoạn cuối của sự hiện hữu, nói cách khác, đã đến cửa tử. Họ rất sốt sắng trong công việc khi sắp đặt các vụ hỏa thiêu để không có những cảnh gớm ghê, gây sốc phơi bày. Họ làm công việc đó như thể họ là người thân hay quyến thuộc của người đã mất.
Đây là cách để nhắc nhở bằng hữu của chúng ta trong cõi người hãy nhớ rằng mọi người đều có chung số phận của sinh, lão, bệnh và tử, một hoàn cảnh không thể trốn tránh. Giúp đỡ nhau bằng cách đó thực sự là điều đáng được khen ngợi.
Các nghi thức này phản ảnh cách chúng ta làm bổn phận hỗ trợ, chăm sóc cho nhau. Đức Phật cũng tán thán bổn phận này đối với người ra đi. Ngài đã dạy cho các tu sĩ trong tăng đoàn phải chăm sóc người huynh đệ ra đi một cách trật tự, gọn ghẽ, coi đó như cơ hội để phục vụ nhau.
Người Bệnh
Đôi khi chúng ta cảm thấy không hài lòng khi sống trong xã hội do phải đối mặt với các pháp hữu vi, do nỗi sợ sệt, e dè đối với người. Nếu ta làm tha nhân vừa lòng, họ sẽ khen ngợi ta. Ngược lại, họ sẽ chê trách ta. Khi họ trách móc ta, đôi khi ta cảm thấy bị sỉ nhục, không vui. Nhưng nếu ta thực sự nhìn sự việc dưới khía cạnh của chánh niệm và trí tuệ, ta sẽ nhận ra rằng người đang chê trách ta cũng đang trong trạng thái khổ đau, đang không cảm thấy an vui. Ta có thể so sánh họ với người bệnh, sức khỏe đang suy giảm. Những người có bổn phận chăm sóc bệnh nhân như y tá, bác sĩ, biết rõ rằng người bệnh thường có hành vi nóng nảy, bực bội. Các y tá, hay bác sĩ không quan tâm đến các hành vi đó. Đối với họ, các hành vi đó của người bệnh là bình thường.
Trường hợp của chúng ta cũng tương tự. Ta cần xem những người phê phán ta với tình thương yêu, thiện ý, và bi mẫn, giống như những người chỉ trích ta trong trạng thái tâm họ bị kích động, chính họ cũng không làm chủ được bản thân. Nếu ta có thể phát khởi tâm từ, ta sẽ không phản ứng lại, thay vào đó ta biểu lộ sự thân thiện, hỗ tương. Bằng cách đó ta để cho các cảm xúc cơ hội lắng xuống, phai nhạt và trở nên bình lặng.
Không Thèm Muốn
Đã dứt tuyệt các uế nhiễm của tham, sân và si, nên Đức Phật có thể sống không sân hận, tiêu cực. Tâm Ngài đầy tình thương yêu bao la, bi mẫn - từ bi. Nhưng không phải loại từ bi vẫn còn dính với xan tham. Tâm từ mà đi với xan tham thì vẫn chưa trọn vẹn, chưa hoàn hảo.
Đức Phật khuyên ta chỉ nên nhìn thế giới trong ánh sáng của hư không, nên nhìn thế giới như trống rỗng. Ngài không nói là ta phải giúp đỡ ai đó khi thấy họ hoạn nạn, khổ đau. Đó không phải là cách Đức Phật nhìn thế giới.
Đức Phật dạy rằng: Kammunā vattati loko[2]
( Thế giới do nghiệp vận hành )
Nếu ta bắt đầu khuyên những ai còn sống dưới ảnh hưởng của tiền nghiệp, họ sẽ chống lại lời khuyên của ta. Họ không muốn chấp nhận sự giúp đỡ của ta. Họ không thèm muốn nghe.
Ta có thể so sánh điều đó với việc cho súc vật ăn - thí dụ ta cung cấp thực phẩm của người cho trâu bò. Chúng không thèm muốn thứ đó. Cái chúng cần là cỏ.
Mê Đắm Dục Giới
Đức Phật dạy rằng chúng sanh trên đời - ý chỉ thế giới trong tâm ta - luôn đắm mình trong cõi dục giới. Ta hưởng thụ các thứ dục. Ta luôn luẩn quẩn trong cõi dục, bám vào các đối tượng của dục.
Các đối tượng của ái dục ở ngay ‘cái ngã’ này và các thứ vật chất liên quan đến nó. Chúng khiến ta mê đắm, làm nô lệ và muốn chiếm hữu. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy ta phải cố gắng để nhìn thế giới và bản thân với con mắt của trí tuệ. Nếu ta quán sát sự vật đúng như bản chất thật của chúng, ta sẽ nhận thấy rằng chúng không hoàn hảo và luôn thiếu sót.
Ta cần phải nhận ra rằng việc mê đắm thế giới đầy khiếm khuyết này sẽ đưa ta đến bất mãn, với đủ mọi phiền não, khổ đau. Cả khổ và lạc, tốt và xấu đều khiến ta cảm thấy bị nhốt chặt, thiêu cháy trong cái khổ.
Ta cần phải cố gắng nhìn thấy điều đó để có thể thay đổi thái độ, phản ứng của ta, để thấy được sự hiểm nguy của luân hồi. Ta sẽ trở nên là người có ý thức và cẩn trọng khi nghĩ về thế gian, trở nên là người có thể thấy thế tục là thứ cần bỏ, cùng với tất cả các mối liên hệ làm đắm say, rối rắm ta. Mặt khác, ta lại hướng đến sự giải thoát, vượt lên ngã chấp và cái ngã.
Khéo Trang Bị
Nếu phân loại các pháp đưa đến giác ngộ (bodhipakkhiyā dhammā), như vẫn thường thấy trong các kinh tạng, ta thấy chúng bao gồm: Tứ chánh cần, tứ niệm xứ, tứ thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo.
Nếu ta muốn gom tất cả các yếu tố này vào chỉ một, chắc chắn đó phải là yếu tố chánh niệm.
Tất cả chúng ta đều đã được trang bị đầy đủ với bốn yếu tố căn bản của chánh niệm - thân, thọ, tâm và pháp - bằng cách này hay cách khác. Chúng ta thực sự có thân và có các cảm thọ, dầu đó là thọ khổ hay lạc, hài lòng hay bất mãn. Trí nhớ và sự tỉnh thức của ta hoạt động tốt. Ta trải nghiệm các hành, các phát triển của tâm, dầu là các đặc tính tốt hay xấu, và ta sở hữu ý thức, bộ phận tiếp nhận tín hiệu từ các căn. Vì thế, ta cần thực sự đem giáo lý về chánh niệm vào ứng dụng.
Chánh niệm cần được thiết lập tương ưng với mọi hoàn cảnh trong cuộc sống và trong từng giây phút ta trải nghiệm điều đó. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy ta phải sống trong tỉnh thức với sự hiểu biết rõ ràng, chú tâm chánh niệm, quán sát và tìm tòi.
Điều chúng ta cần làm trước hết là cố gắng giữ tâm trong giây phút hiện tại, không lo lắng về quá khứ hay tương lai, phát triển giây phút hiện tại (trong tâm ta), trụ vững chãi ở nơi này với tất cả sự hoản hảo. Giây phút hiện tại vừa là nhân vừa là quả, vì trong giây phút hiện tại này ta tạo ra các nhân và quả (cho tương lai) tốt hay xấu. Vi lý do này Đức Phật đã dạy rằng ta phải sống một cuộc đời đầy tỉnh thức và ý thức.
Tóm lại, các pháp dẫn tới giác ngộ là những thứ ta đã sở hữu. Đến với nhau và cùng hỗ trợ nhau trong sự tu hành, nhất là khi cùng sống ở những nơi như là tu viện, ta không cần phải trải nghiệm các mối liên hệ với thế giới bên ngoài với bao xáo trộn, nhốn nháo trong xã hội.
Tất cả những gì còn lại mà ta phải làm là tự quán xét bản thân, theo dõi bản thân một cách cẩn thận và trọn vẹn. Sự cẩn trọng và quán sát tròn đầy sẽ giúp ta có chánh kiến (sammā diṭṭhi). Chánh kiến tự nó thực sự giống như sự bình an.
Ta thấy gì khi có chánh kiến? Ta thấy khổ là thứ ta cần nhận biết. Ta nhìn nhân của khổ là cái ta cần dứt bỏ. Ta thấy sự dừng bặt của - vô thường, khổ, vô ngã - là cái ta cần chứng ngộ, và ta liên hệ với cuộc sống một cách tự chủ, có kiềm chế. Đó là Tứ Diệu Đế: khổ, nguồn gốc của khổ, sự diệt khổ, và con đường diệt khổ. Sống một cuộc đời theo đúng với các sự thật này, ta có thể nói, đó là các phẩm trợ đạo (bodhipakkhiya dhamma), các pháp đưa đến sự giác ngộ. Chánh kiến đưa ta đến sự hiểu biết rõ ràng, đến hạnh phúc, đến tĩnh lặng. Đưa ta đến tâm thuần khiết.
Các pháp này là những đặc tính thích hợp cho ta phát triển và tận dụng chúng. Ai cũng có khả năng đó nếu có cố gắng, nếu để tâm vào đó, coi đó là điều quan trọng phải làm, không ngừng nghỉ, không bỏ cuộc. Đây được gọi là đi từng bước cho đến khi ta đạt đến cuối đường, cho đến khi ta thành công.
Viriyena dukkham accenti (Nỗ lực có thể chế ngự khổ)
Đây là những lời dạy rất rõ ràng của Đức Phật, nên chúng ta cần phải tu tập và hành động đúng theo đó. Đừng để sự lười biếng hay dễ duôi ảnh hưởng đến ta. Sự dễ duôi, buông thả xói mòn năng lực, làm tiêu tan sức mạnh, dễ khiến ta hôn trầm. Chúng ta cần sự quyết tâm. Các bạn có nghe Bồ tát lúc chưa thành Phật hạ quyết tâm như thế nào không:
“Ta thà chỉ còn da, gân và xương, dầu cho máu thịt ta có cạn, ta sẽ không đứng dậy và buông xuôi năng lực, cũng không dừng nỗ lực cho đến khi đạt được giác ngộ”.
Lời thệ nguyện này của Bồ tát chứng tỏ Ngài có quyết tâm rất mạnh mẽ, vững chắc. Ngài thực sự là người cao quý. Chúng ta có thể gọi Ngài là người hoàn hảo, người lý tưởng, hay “anh hùng”, người có tâm vững chãi không ai có thể sánh bằng. Ngài không hề nghĩ đến việc: “Ta không thể thực hiện điều này”, vì Pháp là cái mà mọi chúng sanh đều có khả năng thực hiện, ứng dụng. Tất cả chúng ta đều là chúng sanh, nên bấy nhiêu lời dạy đó cũng đủ để ta nhận thức rằng ít nhất ta cũng biết phương cách để áp dụng những gì thực sự hữu ích.
Không Xung Đột
Khi được gọi là “bước vào dòng chảy - nhập lưu” (sotāpatti), theo kinh điển có nghĩa là sự giảm thiểu các gánh nặng trong cách sống của ta. Ta trở nên người sở hữu sự bình an. Vị nhập lưu đã từ bỏ được tham, dục ái, sân hận và si mê, vô minh. Có nghĩa là cuộc sống của vị đó bình lặng hơn, ít xao động hơn. Tất cả mọi xung đột, chướng ngại dần dần giảm bớt và cuối cùng sẽ được giải quyết.
Một cuộc sống không còn xung đột, chướng ngại là cuộc sống của người thực sự hạnh phúc. Thứ hạnh phúc đến từ việc người đó không còn các bất thiện. Không có gì có thể làm phát sinh sự bức bối dưới bất cứ hình thức gì. Đó thực sự là một hiện hữu, một sự có mặt tuyệt vời.
Trong thời Đức Phật còn tại thế, ta có thể thấy nhiều tấm gương như thế, vì các vị đệ tử của Đức Phật thường sống chánh niệm, đầy giới hạnh và tỉnh thức. Người sở hữu các đặc tính này trong tâm, thì cuộc sống tâm linh, tình cảm của họ thường được tốt lành. Đó là cảm giác của người hành giả đang bước đi trên con đường đạo mà không có bất kỳ chướng ngại và hiểm nguy nào.
Để sống được như thế không chỉ là bổn phận của một tu sĩ. Mà bất cứ ai còn có mặt trên thế gian này cũng có bổn phận phải sống với một tâm thái không đưa đến các xung đột.
Vô Ưu
Sau khi đã xả ly được khỏi các dục lạc và trạng thái tâm bất thiện trong quá trình tu tập, rất nhiều thứ ô uế, ngay cả các tưởng, sẽ không phát khởi và tăng trưởng trong tâm nữa. Chỉ còn lại chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng. Hàng loạt các tư tưởng bất thiện được dứt bỏ.
“Tư tưởng bất thiện” cũng được dùng để chỉ cho ước muốn được thêm sung sướng, thêm dục lạc thế gian. Vì như ta đã biết, trong giáo lý của Đức Phật, đắm chìm trong dục lạc được coi là hiểm họa, vì thế ước muốn được có thêm dục lạc trong tương lai cũng là thế. Tất cả các nghĩ tưởng này cần phải loại trừ.
Khi các trạng thái tâm uế nhiễm không còn, ta sẽ trải nghiệm được hỷ lạc, khinh an và cảm giác hạnh phúc tuyệt vời (sukha). Niềm hạnh phúc tràn đầy này thường đi theo sau trạng thái khinh an. Nhưng nếu quán sát kỹ, ta thấy hạnh phúc này cũng có khiếm khyết. Nó có thể làm ta bấn loạn hay nhận thức lệch lạc, gọi là “vipallāsa”, là từ đối nghịch với vipassanā. Vipassanā có nghĩa sự trong sáng, rõ ràng, một trải nghiệm của cái biết thấu suốt.
Vì thế khi các cảm giác khinh an, lâng lâng phát khởi, điều ta cần làm là tiếp tục giữ chánh niệm, để ta không bị lạc lối, hoang tưởng ở thời điểm khi ta trải nghiệm hạnh phúc to tát này. Đừng lầm tưởng rằng ta đã đạt được điều này hay điều kia. Ta phải có khả năng buông với tâm xả ( upekkhā ).
Tóm lại: Hãy dừng việc suy đoán, quan tâm lại, và chi giữ chánh niệm. Hãy có mặt trong giây phút hiện tại, paccuppanna dhamma. Đừng lo lắng về bất cứ điều gì.
Nếu ta tu tập được như thế, ta sẽ có hạnh phúc thật sự, không còn lo lắng về các việc bên ngoài. Không lo về điều kiện sống. Có ăn cũng được mà không ăn cũng được. Đức Phật đã chứng tỏ cho ta thấy với sự chứng ngộ của Ngài. Bạn có để ý thấy là sau khi dùng cái bánh sữa của Sujātā, Ngài đã lo làm bổn phận của mình bằng việc nỗ lực hành thiền? Không chút quan tâm gì về những thứ người ta cần để lo cho cuộc sống.
Ngài chỉ hoàn toàn hưởng thụ sự thanh thản của tâm xả ly, kết quả của việc đã dứt bỏ mọi tham ái và uế nhiễm. Sự trải nghiệm này đã hoàn toàn thay đổi mọi thứ. Nếu không còn có màu đen, thì mọi thứ trở nên trắng - đó là định luật của thiên nhiên. Sự chuyển hóa đó tự động xảy ra, đúng theo luật tự nhiên.
Chúng ta sẽ trải nghiệm cảm giác không còn ham muốn gì nữa, không thích hay ghét sự vật theo cách người bình thường vẫn làm. Các giác quan vẫn hoạt động bình thường, nhưng theo cái cách là không có gì làm phát sinh các ảo ảnh làm mê muội ta. Tai vẫn nghe âm thanh, nhưng không kèm theo nội dung lừa mị. Mắt vẫn nhìn thấy cảnh - ta vẫn phân biệt được nam và nữ - nhưng không có ảo tưởng.
Đó là một trải nghiệm khác với trải nghiệm của một chúng sanh bình thường, còn si mê, người sẽ lập tức nghĩ “tốt” hay “xấu” khi nhìn thấy thứ gì đó. Sự khác biệt nằm ở chỗ người giác ngộ không có cảm giác chấp nhận hay không chấp nhận. Đó là cách người giác ngộ khác với phàm phu. Đó là tính chất của sự chuyển hóa trong giác ngộ.
Bạn có bao giờ trải nghiệm điều gì đó như thế không?
Ai cũng có thể được trải nghiệm điều đó! (Luang Por cười…)
Chú thich:
[1] Nghi thức pavarana thay thế cho việc tụng đọc pāṭimokkha (các giới luật của tăng sĩ) vào ngày ra hạ ở bất cứ chùa nào nơi có từ năm vị tăng trở lên đã trải qua an cư mùa mưa với nhau. Mỗi thành viên trong tăng đoàn sẽ đọc những lời sau bằng tiếng Pali: “Con kính xin quý sư với những gì đã được nghe, thấy hay nghi ngờ. Xin quý sư vì lòng từ hãy chỉ lỗi cho con, con xin sẽ sửa đổi”.
[2] Luật nhân quả đối với tất cả mọi hành động có chủ tâm.