← Quay lại trang sách

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ

Ngài Luang Por Liem Ṭhitadhammo

(Phra Visuddhisaṁvara Thera)

Các Trải Nghiệm Đầu Đời

Vào một buổi sáng mù sương, Luang Por Liem (tên tục Nay Liem Chantam) được sinh ra trong vùng Isahn (thuộc Đông Bắc Thái Lan), nơi có những cánh đồng lúa phì nhiêu và các khu rừng rậm rạp, trong một gia đình hạnh phúc, với một cuộc sống khá đầy đủ của một nông dân vùng quê bình thường. Ngài sinh ngày 5 tháng 11, 1941 (Phật lịch 2484) vào ngày thứ Năm, ngày thứ ba đầu tuần trăng của tháng mười hai, năm con rồng. Quê ngài ở Bahn Kog Jahn, Tambon Tung Chay, Ampher Utumpornpisay, tỉnh Sri Saket. Ngài có hai em gái, một em trai, một anh trai và một chị gái. Chị ngài cùng với bà mẹ, Khun Yaai Chi Baeng, sau trở thành tu nữ ở Wat Nong Pah Pong. Cha ngài tên Khun Por Peng Chantam.

Gia đình ngài sống khá cô lập. Ít giao tiếp với các nhà láng giềng, và cũng ít trò chuyện với nhau, vì thế theo người trong làng họ hơi khác lạ. Khi gặp người trong làng, họ vui vẻ chào hỏi, nhưng tránh không nói chuyện xã giao, dành lời cho những trường hợp hiếm hoi. Cuộc sống ở miền đông bắc Thái Lan lúc đó còn khó khăn, hoang sơ hơn ngày nay. Mọi người trong gia đình ngài Luang Por đều thành thạo việc đồng áng: gieo trồng, làm vườn, chăm sóc trâu, bò. Luang Por học ở trường làng đến lớp bốn. Khi lớn hơn, ngài giúp cha mẹ công việc đồng áng, gìn giữ các dụng cụ và xe kéo.

Năm mười bảy tuổi, Luang Por rời bỏ các tiện nghi quen thuộc và cuộc sống ở quê nhà để trải nghiệm cuộc sống ở các vùng khác của Thái Lan, xuôi về nam đến các tỉnh Chonburi và Trang. Suốt thời tuổi trẻ, Luang Por được biết đến như một người yêu chuộng hòa bình, lúc nào cũng tự quán xét mình để sửa đổi cách hành xử cho tốt hơn. Ngài không bao giờ uống rượu, hay bài bạc. Theo thông tục, ngài cũng có một số liên hệ với phụ nữ, nhưng không có gì quá đáng để mang rắc rối đến cho ngài.

Khi Luang Por rời bỏ môi trường sống quen thuộc ở làng quê, ngài khá thất vọng với thế giới mà ngài được tiếp cận. Ngài nhận thấy những người bạn mới chỉ thích cuộc sống xa hoa. Thí dụ, ngài gặp nhiều người chỉ thích ăn thịt những con vật to lớn như trâu, bò. Truyền thống gia đình ngài thì chỉ ăn thịt những sinh vật nhỏ - một thói quen mà họ vẫn còn giữ cho đến ngày nay - nên ngài thấy việc đó đáng ghê sợ và đáng kết tội.[1]

Tại tỉnh Trang thuộc miền Nam Thái Lan, Luang Por làm việc cho một gia đình đạo Hồi. Ngài ngạc nhiên nhận thấy người chủ không e dè việc ngài là Phật tử, mà còn thương yêu giúp đỡ ngài, xem ngài như con đẻ của ông. Ông chủ còn để Luang Por dự một số nghi lễ Hồi giáo, mà không màng đến việc Luang Por xuất thân từ gia đình thuộc dân tộc thiểu số, khác niềm tin, khác trình độ xã hội, kinh tế. Dựa vào trải nghiệm của ngài với người đạo Hồi, Luang Por quán xét thấy rằng dầu khác nhau về văn hóa, nguồn gốc, nhiều người có thể xem như khác biệt với ta, nhưng tín ngưỡng của họ không có gì sai, khi mà họ cũng tôn trọng các giá trị đạo đức và “đặc tính tâm linh khiến mọi người tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau”. Khi Luang Por xin phép chủ để trở về quê nhà giúp đỡ cha mẹ, chủ của ngài đã rơi nước mắt và không muốn ngài ra đi.

Bước Chân Người Sa - di

Thực ra, khi Luang Por trở về nhà, ngài không làm việc đồng áng nữa. Theo phong tục ở Isahn (và phần lớn các vùng ở Thái Lan, dầu ngày nay truyền thống này phần nào đã mai một), thanh thiếu niên phải xuất gia, trong thời gian ngắn, hay suốt đời, để tiếp tục việc học, tu tập thực hành những lời dạy của Đức Phật một cách thiết thực hơn, để dần trưởng thành nên người có ích hơn cho gia đình và xã hội. Luang Por quyết định ‘bước tới’ làm chú sa - di năm mười chín tuổi để được thành thuộc hơn về Giới - Pháp năm hai mươi tuổi, đủ tuổi để thọ giới tỳ kheo.

Luang Por xuất gia ở một tu viện tại quê nhà, Wat Bahn Kog Jahn, vào ngày 12, tháng Năm, 1960 (Phật lịch 2503). Trong một thời gian ngắn khoảng hơn hai tuần, trong khi chuẩn bị cho lễ xuất gia làm sa - di vào ngày 28, tháng Năm, trừ kinh tụng cầu siêu, ngài thuộc lòng tất cả các kinh tụng truyền thống ở chùa (một việc mà có tu sĩ phải mất hàng năm mới làm được). Cắc cớ làm sao, vào ngày đầu tiên làm sa - di, chùa lại có đám cầu siêu.

Luang Por cảm thấy quá bức xúc, vì không thể tụng chung với tăng đoàn trong các nghi lễ cho người chết, ngài bắt đầu học các bài kinh cầu siêu lắc léo trong khi đang bận rộn chuẩn bị nước tắm cho sư phụ của mình. Vừa khi nước bắt đầu sôi, ngài đã thuộc lòng các bài kinh, khiến ngài có thể tham gia vào các nghi lễ tế tụng với các tu sĩ khác.

Ở chùa Bahn Kog Jahn lúc đó có mười chín vị tu

sĩ đã thọ đủ các giới, cùng chín sa - di vừa xuất gia cùng lúc với Luang Por. Một trong những bổn phận hằng ngày của các sa - di là đi hứng nước uống và nước tắm ngoài giếng. Trong những ngày đó, làng quê chưa phát triển, họ phải đi khoảng một cây số rưỡi mới đến giếng nước và trở về với gánh nước trong cùng khoảng đường - tổng cộng là ba cây số.

Luang Por kể lại các trải nghiệm của mình, khi đối mặt với nỗi sợ ma, sợ người chết ngoài nghĩa trang, lúc ngài còn làm sa - di:

“Ngay khi còn là sa - di, tôi đã cố gắng thực hành quán tử thi. Lúc đó, người ta thường mang tử thi đến các nghĩa địa để chôn hay hỏa táng. Người ta nói nơi đó đầy ma. Tôi cố gắng đối mặt với điều đó. Dĩ nhiên tôi rất sợ. Phải thuyết phục bản thân đi ra nghĩa trang không phải là chuyện dễ. Rất khó. Đã thế, thời gian tôi chọn để đi, không có ai để tôi dựa vào, vì tôi thường đi một mình khi trời tối, chung quanh khá yên tĩnh.

Khi ra đi, tôi luôn cảm thấy vừa can đảm vừa sợ sệt. Đôi khi trong nghĩa trang có những chú chó đi tìm thức ăn thừa. Nếu chúng thấy tôi, chúng cũng sợ. Chúng cúp chạy ngay. Tóc tai tôi cũng dựng đứng, tôi cảm thấy muốn hét lên. Nhưng tôi không được làm thế. Tôi phải vượt thắng điều đó. Tôi cảm thấy như thân mình bị thiêu đốt. Tôi không thể tin nổi. Cuối cùng, tôi nghĩ, “Nếu phải chết, tôi sẽ chết”. Tôi cứ nhắc đi nhắc lại như thế. Dầu tôi tự nhủ là không có ma, chỉ có lũ chó hoang đi tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn sợ. Gì cũng khiến tôi sợ. Tôi nghĩ, nếu tôi nán lại lâu hơn, tôi sẽ bớt sợ, nhưng không đơn giản thế. Ngay khi dường như tôi bớt sợ, thì nỗi sợ trở lại, càng tồi tệ hơn.

Trong hoàn cảnh đó, ta sợ tất cả mọi thứ. Rõ ràng là ta hoang tưởng, nhưng trong bối cảnh xa lạ như thế, các tâm hành chế ngự ta dễ dàng, trêu chọc, lừa phỉnh ta đến nỗi ta phải sợ hãi. Lúc đó là như thế, tôi đầy sợ hãi, không có lối thoát. Cuối cùng tôi tự nhủ, “Vậy đó. Sợ hãi. Rồi sao chứ? Ta chấp nhận ngươi. Chỉ là sợ thôi mà! Chết hả? Rồi thì sao, bất quá chết thôi!” Đó là cách tôi đối mặt với sợ hãi, nhiều lần, lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, nỗi sợ không hoàn toàn biến mất. Nó vẫn có mặt; nhưng ta không thể nói sợ như thế là không tốt. Thực ra, ở mức độ nào đó, nó cũng tốt, vì nó giúp ta tỉnh thức. Vì thế tôi chấp nhận nó, nghĩ rằng: “Thôi được, ta hoàn toàn chấp nhận ngươi, ta sẽ ở với ngươi. Ta không thể có mặt ở đâu trừ với cảm giác sợ hãi này”.

Vào mùa mưa, Luang Por học NakThamm Tri, cấp độ đầu tiên của các cuộc thi về Pháp trên toàn quốc. Ngài cũng học đọc, học viết các mẫu tự đặc biệt dùng để viết kinh sách (Dtua Thamm), để sử dụng trong các bài thuyết pháp sau mùa an cư. Luang Por luôn coi việc học kinh và ngoại văn là cơ hội quý báu để nâng sự hiểu biết của mình lên một cấp độ cao hơn. Lúc đó, sách vở và các phương tiện học tập đều thiếu thốn mọi bề, Luang Por phần lớn phải tự tìm phương tiện học hỏi. Bất cứ khi nào có thể và thuận tiện, Luang Por đều tinh tấn học hành.

Thọ Đại Giới & Hành Pháp

Vào ngày 22, tháng Tư, 1961 (Phật lịch 2504), Luang Por thọ giới tỳ kheo tại Wat Bahn Kog Jahn. Chỉ năm ngày sau lễ thọ giới, ngài phải rời xa vị thầy tế độ cho mình, Phra Kru Tahvarachayakut, vì ngài cảm thấy bị nhiều áp lực do sống quá gần các anh chị em, bạn bè và quyến thuộc, không thể tránh chứng kiến những vui buồn trong đời sống của họ. Ngài đến sống với ngài Luang Pu Gao Mahāpañño (Phra Kru Mongkonchayalag) ở Wat Bahn Jahn Saen Chay thuộc một làng khác trong huyện nhà. Ngài tiếp tục học văn kinh trong suốt hai năm sau đó. Thời gian đó, ngài cũng hoàn thành việc tạc ba tượng Phật nhỏ, kể cả một tượng làm bằng gỗ đàn hương. Theo yêu cầu của Luang Pu Gao, tượng Phật này được cất giữ ở một nơi trang trọng, đến ngày nay dân làng Bahn Saen Chay vẫn coi đó là vật quý hiếm của huyện nhà.

Luang Por kể lại các trải nghiệm và nỗ lực của ngài trong việc tu hành với tư cách là một vị tân tỳ kheo như sau:

“Khi mới được thọ giới trọng, tôi cố gắng thực hành các đức tính như là thu thúc, phòng hộ, buông xả để sự việc tự kết thúc, trở nên trống rỗng. Thọ đại giới chỉ vì màu áo, chỉ vì vị thế, không phải là điều hay. Chúng ta thực sự phải tiến bước theo chân Đức Phật. Chúng ta thọ giới tỳ kheo để nhổ sạch, trừ bỏ các tham dục, các uế nhiễm.

Khi quán xét việc tu tập của mình, tôi thấy vẫn còn nhiều thiếu sót. Đôi khi tôi làm tốt, đôi khi chưa tốt. Đó là do tôi chưa thực sự tự tin. Đôi khi chúng ta chỉ có thể nhận biết mình đang ở trạng thái tâm nào mà thôi. Chúng ta gọi đó là tu tập, nhưng việc đó còn non nớt và thiếu sót về nhiều mặt.

Ngay khi còn là sa - di, tôi đã học các cách hành xử chuẩn mực trong cuộc sống ở tu viện, thí dụ, trong ngày, buổi chiều, đêm khuya phải làm gì. Tôi thắc mắc, buổi tối “ngồi thiền (chỉ) samadhi” nghĩa là gì. Ngồi chỉ là ngồi thôi, phải không? Lúc đó, tôi không hiểu “hành thiền chỉ” (samadhi) có nghĩa gì?

Tôi tham khảo tiểu sử của Đức Phật và các vị đệ tử của ngài, những người được coi là “đã diệt trừ mọi kiết sử, đoạn tận, chấm dứt mọi khổ đau, sân và si trong tâm”, nhưng nhìn lại mình, tôi thấy vẫn còn vô vọng quá. Tôi đã xuất gia theo phong tục, truyền thống của quê nhà rằng nếu được sinh ra làm thân nam, thì phải đi tu học. Đó thực sự là lý do khiến các thanh niên trẻ làm theo. Tôi đã đọc trong sách rằng khi trở thành người xuất gia, ta phải thực hành để biết được điều gì đó về bản thân, nhưng cuộc sống hiện tại ở tu viện dường như chưa giúp tôi tu tập được gì. Tôi chỉ làm các bổn phận giúp đỡ các vị thầy khả kính của mình. Dù tôi cũng cố gắng thực hành, nhưng cách thực hành đó quá mông lung. Nó vượt lên trên mức độ chánh niệm và trí tuệ của tôi khiến tôi không biết đâu là mấu chốt. Nhưng tôi vẫn còn đủ tín tâm để thấy rằng một khi tôi đã là người xuất gia, tôi phải tu tập, và phải cố gắng tìm cơ hội thực hành”.

Luang Por nhớ lại rằng thuật ngữ “Phra” (“Tôn sư” trong tiếng Thái) thường được dịch là “người vượt bậc, tuyệt vời”. Nhưng ngài cảm thấy khá thất vọng - ngài chưa có khả năng làm gì để được gọi là “vượt bậc” trong cuộc đời của một vị tu sĩ. Nhìn chung, ngài vẫn còn suy nghĩ như một phàm nhân, và hơn nữa là ngài vẫn còn vui hưởng dục lạc.

Luang Por chia sẻ các quán tưởng đã giúp ngài vượt qua những nghi hoặc của một vị tân tỳ kheo:

“Trong sự thực hành, nếu ta chỉ mới vừa trồng cây, ta không thể khiến nó ra hoa, có quả ngay. Ta phải dựa vào thời gian. Điều đó tự nhiên thôi. Không thể có sự hoàn hảo ngay tức thì. Tất nhiên là ta phải dựa vào sự vận hành của thời gian.

Khi mới bắt đầu vận chiếc y vàng, tôi không biết gì cả. Ngay cả khi đã là người xuất gia một thời gian, tôi vẫn có khuynh hướng hành xử theo cung cách mình đã quen thuộc, vì trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ mình là cư sĩ.

Khoác chiếc y vàng, ta được mọi người cung kính, vái chào nhưng trong tâm, ta vẫn còn suy nghĩ như một phàm nhân với các tâm tưởng uế nhiễm. Khó thể chuyển hóa tâm tưởng của ta cho đến khi các thói quen mới được thành hình. Có khi đến bốn hay năm năm sau, những cách suy nghĩ cũ có thể vẫn còn đó. Đau xót như bụi trong mắt.

Sống trong dục giới là sống giữa những thách thức

và xung đột thường trực. Đôi khi ta nghĩ là mình không thể chịu đựng nổi. Nhưng ta biết là mình phải cố gắng nỗ lực. Nếu không, khi Phật tử đến bái lạy, tỏ lòng tôn kính, ta sẽ cảm thấy mình không xứng đáng. Ta sẽ bắt đầu tự vấn, “Ta xứng đáng ở điểm nào? Tại sao ta quá hèn, quá tầm thường? Tại sao ta thô thiển như thế này?”

Một phương cách thiện xảo để đối phó với sự nghi hoặc này là nhớ tưởng đến cuộc đời của Đức Phật và các vị thánh đệ tử của Ngài. Điều này sẽ đem lại cảm hứng cho ta. Hãy nhớ rằng ngay cả đối với Đức Phật, cũng không dễ để từ bỏ đời sống thế tục. Ngài cũng đã phải đối mặt với nhiều vấn đề trước khi có thể thay đổi các quan niệm cũ của mình. Ngài dốc lòng, nỗ lực để tu tập kể cả những cách tu khổ hạnh kéo dài một thời gian. Vì thế, nếu như ta đôi khi có hành xử trở lại như một phàm nhân, người không biết tu, thì cũng không sao. Đôi khi điều đó xảy ra - nó cũng đã xảy ra với tôi. Chúng ta sẽ nghĩ, “Ôi, ta thật là vô tích sự…” Đôi khi ta muốn giày xéo, chà đạp bản thân. Nhưng thực ra, suy nghĩ như thế cũng chỉ là nghĩ tưởng. Chỉ là một biểu hiện của hành uẩn. Vậy tại sao ta lại tùng phục sân hận theo cách này?”

Luang Por trải qua hai mùa an cư tại Wat Bahn Jahn Saen Chay, tu tập dưới sụ chỉ dạy của Luang Pu Gao, người giúp Luang Por chuẩn bị thi bậc kế tiếp của các kỳ thi Nak - Thamm và Luang Por đã đậu năm 1962 (Phật lịch 2505).

Vào những buổi chiều ở Wat Bahn Jahn Saen Chay, Luang Por hoặc ngồi thiền hoặc đi kinh hành. Sau khi tiếp tục thực hành như thế một thời gian, ngài đã có thể thấy được các lợi ích của thiền chỉ. Ngài bắt đầu phát triển sự tỉnh giác và hiểu biết về các nội, ngoại duyên, và các trạng thái tâm của mình, cũng như cách đối trị các kiết sử và tham dục có thể phát khởi trong tâm. Khi ngài cảm thấy ái dục phát khởi đối với phụ nữ, ngài quán tưởng về tử thi như một phương cách đối trị, giúp ngài phần nào được giải tỏa trong lãnh vực này.

“Về vấn đề học tập kinh tạng, tôi vừa tự học vừa hướng dẫn cho người khác trong thời gian này. Những gì ta đã nhớ trong đầu, ta có thể sử dụng chúng để dạy người khác. Bằng cách đó, chúng tôi có thể giúp đỡ nhau. Khi đã vượt qua được các kỳ thi Nak - Thamm, tôi không phải học thêm điều gì nữa, nên tôi phát triển việc hành thiền sâu hơn. Thời điểm đó, tôi cũng hành một số khổ hạnh, thí dụ, luôn đi khất thực, hay chỉ ăn một bữa trong ngày. Đôi khi khất thực, chúng tôi chỉ nhận được cơm trắng. Không có gì để ăn kèm với cơm. Chúng tôi phải tự cố gắng. Tôi không suy nghĩ gì về việc thực hành đó có ích lợi hay không. Chỉ cần điều đó giúp chúng tôi thực hành hạnh kiên nhẫn, chịu đựng, vậy là đủ rồi. Suy cho cùng, chính Đức Phật cũng thực hành đi khất thực, vì thế chúng tôi, tu tập theo Ngài, phải làm thế thôi. Nếu điều đó đã tốt đối với Đức Phật, thì với chúng tôi cũng thế. Khi ta tiếp tục thực hành các hạnh này, tới lúc nào đó, ta sẽ đạt được năng lực từ những sự thực hành đó. Dầu thân ta có thể suy yếu, nhưng tâm trí ta sẽ ngày càng thêm mạnh mẽ.

Việc tu hành không phải để hành xác, mà để quán xét sự tín tâm saddhā, thẩm định sức chịu đựng của thân vật lý và các tâm hành. Liệu chúng có chịu đựng nổi những hoàn cảnh bất như ý? Ta sẽ có những phản ứng như thế nào? Bỏ qua mọi yếu tố tâm linh, liệu ta có chịu đựng nổi các ảnh hưởng vật lý? Nếu ta phải đối mặt với hoàn cảnh khi không có đủ thức ăn, ta có thể không ăn được không? Các cách tu tập kiên nhẫn chịu đựng này cũng không có gì to tát. Chúng chỉ là cái để kiểm tra xem ta có thể chịu đựng được gì. Ta có thể chịu được đói, khát? Chịu nổi mệt mỏi? Thông thường, sau khi chịu đựng cảm giác đói lả trong hai hay ba ngày đầu trong thời kỳ nhịn đói, khi ngày thứ tư hay năm đến, các cảm giác này qua đi và thân cảm thấy nhẹ nhỏm. Thực hành với sự kiên nhẫn chịu đựng không phải hoàn toàn vô ích. Thực ra điều này rất lợi ích trong việc giúp ta cơ hội tự kiểm lại các cảm giác và mức độ chịu đựng của ta”.

Ở Wat Bahn Jahn Saen Chay, khi một tu sĩ muốn hành các hạnh liên quan đến khất thực, việc ăn uống, trước hết người đó phải thưa trình với thầy mình, Luang Pu Gao. Luang Pu lúc đó sẽ nhắc nhở rằng: “Chúng ta hành các hạnh này không phải để biểu diễn, mà vì lòng thương kính đối với Đức Phật, người đã truyền dạy cho ta các pháp hành này. Chúng ta bằng cách nào đó nên cố gắng thực hành theo chúng. Ngoài ra việc giữ được bất cứ hay tất cả mười ba hạnh đầu đà sẽ khích lệ các tăng sĩ chưa thử thực hành chúng”.

Sau khi trải qua mùa an cư thứ hai làm người tu sĩ - thời gian tập tu ngài dự tính trước đó đã mãn. Ngài suy nghĩ cặn kẽ việc nên tiếp tục tu hành hay trở về đời sống thế tục. Cuối cùng, ngài quyết định không trở lui, do quán xét thấy rằng giáo lý của Đức Phật rất thâm sâu, vi diệu, và ích lợi - không chỉ cho riêng ngài mà còn cho bao chúng sanh. Do đó, điều nên làm là xây đắp một căn bản hiểu biết vững chãi hơn về giáo lý đó, qua việc học hỏi, trao dồi, thực hành, và huân tập thêm.

Những năm sau đó (từ 1963 - Phật lịch 2506 trở đi), Luang Por du hành đến nhiều nơi. Ngài không ở đâu lâu hơn một, hai năm. Vì ngài nhận thấy khi ngài trụ ở nơi nào đó hơi lâu, ngài trở nên chểnh mảng, không tự tại trong việc tu hành, vì thế ngài du hành qua một số tu viện khác nhau, xuống đến tận Bangkok. Cuối cùng, ngai trải qua mùa mưa an cư tại Wat Saeng Sâng ở Prachinburi, nơi sự tu tập của ngài được phát triển rất tốt. Ngài sống trong khu đất hỏa táng, chứng kiến nhiều xác người chết được hỏa thiêu, do đó có nhiều cơ hội tốt để quán tưởng về cái chết, như ngài đã thuật lại như sau:

“Thỉnh thoảng tôi dành thời gian đến quan sát các tử thi sắp được đem đi chôn hay hỏa thiêu. Vào thời xưa ở miền trung Thái Lan, người ta giữ xác rất lâu, nhưng lại không có các chất bảo quản để tiêm. Đôi khi xác được giữ hơn hai tuần. Quả thực, việc chứng kiến chúng thật đáng công. Quan tài không đậy nấp, nên ta có thể đến nhìn tận mặt, nhìn thật lâu. Xác chết trương sình, hôi hám, rỉ nước, màu da xám xịt, tối đen. Và đám ruồi nhặng không biết từ đâu kéo nhau đến đầy”.

Các ấn tượng từ việc thực hành quán sát tử thi đã giúp Luang Por cả trong việc tiếp tục quán tưởng về cái chết mà cũng giúp ngài đối mặt với sự luyến ái người khác phái.

Bên cạnh đó còn có những khó khăn khác do không quen thuộc với môi trường mới chung quanh đó. Khi an cư mùa mưa, ngài quyết định chọn một hướng đường đi khất thực trong suốt ba tháng. Đầu mùa mưa, lượng nước mưa tích tụ trên các cánh đồng và đường xá chưa nhiều, nhưng giữa mùa, mưa lớn hơn. Dần dần con đường ngài đi khất thực và khu vực quanh đó trở nên hoàn toàn ngập lụt đến độ khó thể tìm ra lối đi khất thực. Mỗi ngày, khi quay trở về tu viện, ngài và y áo đều ướt sũng. Có ngày, ngài phải đội bình bát trên đầu vì nước lũ ở nhiều nơi ngài đi qua lên đến tận cổ. Tuy nhiên, vì hạnh nguyện kiên quyết không bỏ việc đi khất thực suốt mùa mưa, đúng theo truyền thống của chư Phật, ngài cảm thấy không thể không thực hành. Vì thế, dầu hoàn cảnh vật lý có như thế nào, ngài vẫn trì bình mỗi ngày. Dầu người dân làng có ái ngại cho ngài như thế nào, ngài cũng không buông bỏ, chểnh mảng lời nguyện duy trì hạnh đầu đà này.

Năm đó ngài cảm thấy rất tinh tấn trong tu tập. Có những đêm ngài đi kinh hành quanh ngôi tháp cổ được xây dựng từ thời đại nào đó. Theo tài liệu lịch sử, ngôi tháp này là nơi người xưa giam giữ voi để cúng tế lễ. Từ lâu nó đã bị bỏ hoang, chung quanh chỉ có đồng ruộng và người dân quê, ngôi cổ tự giờ đã được tu sửa thành tu viện khang trang, tạo ra một môi trường thích hợp cho Luang Por tiếp tục phát triển những nỗ lực không ngừng trong tu tập.

Tuy nhiên, một trở ngại mà tất cả mọi chúng sanh chưa giác ngộ vẫn còn mê đắm là tham dục, nhất là đối với người khác phái. Việc một tăng sĩ trẻ bị lạc hướng trong các lãnh vực này cũng là điều tự nhiên. Trong những năm đầu của đời sống xuất gia, đây là loại chướng ngại luôn phát khởi, bất chấp vị tu sĩ có tinh tấn, tận tụy đến mức nào. Dĩ nhiên, Luang Por cũng phải đối mặt với thử thách này, như ngài kể lại:

“Tôi quán sát tất cả các trạng thái tâm phát khởi trong tôi. Tôi nhận thấy đôi khi tôi cảm thấy yêu mến một người nào đó, rồi chỉ sau đó ít lâu, tôi lại thấy trái ngược. Những người trẻ tuổi của hai phái thực sự khuấy rộn nhau, nhưng trên thực tế, đó là điều họ thích. Nó có thể dẫn đến mức độ là ta thấy người phụ nữ nào cũng đẹp. Tất cả mọi phụ nữ đều quá đẹp. Nhìn một người nam ta không thấy mảy may hấp dẫn, tim ta không rung động như khi nhìn phụ nữ. Có cái gì đó thực sự chế ngự tâm ta. Nếu ta đã nhìn họ với cái nhìn buông xả, dửng dưng thì ta không bị ảnh hưởng gì. Nhưng sự lôi cuốn này thực sự có thể xảy ra, nhất là khi ta không tinh tấn tu tập.

Bản thân tôi, tôi không hiểu làm sao mình có thể làm người tu sĩ mà có những suy nghĩ như thế. Tôi thực sự lo lắng cho các cảm xúc của mình, và càng học kinh luật, tôi càng thấy ra những yếu kém của mình. Mỗi khi tôi nghiền ngẫm về cuộc đời, các hành của Đức Phật hay các vị thánh đệ tử của Ngài, tôi càng thấy mình thật vô vọng. Tôi nghĩ đến ẩn dụ về các loại hoa sen và chắc rằng mình thuộc vào nhóm hoa vẫn còn hoàn toàn đắm mình dưới bùn đất. Tôi cảm thấy mình đang ở trong hoàn cảnh rất nguy ngập, nhưng dầu tôi có ngoi lên được khỏi lớp bùn, liệu tôi có thể nào nở hoa không. Hay rồi sẽ rơi lại chỗ cũ làm mồi cho loài cá, loài rùa dưới bùn sâu? Tôi hoàn toàn cảm thấy hoài nghi bản thân.

Tuy nhiên, tôi vẫn bám vào một thứ đó là lòng tin.

Khi tôi hồi tưởng lại cuộc đời của Đức Phật, thì ước muốn thực sự tiến bộ trong tu tập lại khởi lên. Tôi muốn tu tập, muốn trải nghiệm, muốn tự mình khám phá sự việc, dầu tôi biết rằng cách cư xử, nghĩ suy của mình tựu trung vẫn còn giống như người cư sĩ. Bất cứ khi nào tôi cảm nhận nimitas[2], chúng cũng là cảnh thế tục, không phải hình ảnh trong đời sống xuất gia.

Nên năm đó, dầu tôi có lên tinh thần tu tập, nhưng chắc chắn là tâm tôi vẫn đầy phiền não. Thực ra, vậy cũng tốt, vì tôi cần có vài hạnh nguyện và ước vọng trong nỗ lực của mình để chễ ngự các trở ngại, thách thức đến từ lòng tham dục.

Chắc chắn đó là chuyện tự nhiên đối với bất kỳ ai ở tuổi đó có những ham muốn dục lạc. Và cũng bình thường khi các mộng mơ, viễn ảnh phát khởi lên trong tâm trí đều liên hệ đến lãnh vực này. Dĩ nhiên, đây là những suy tưởng giống như của người thế tục. Những tình cảm yêu, ghét. Chúng có mặt ở khắp mọi nơi và không dừng dứt bao giờ. Có người còn khuyên tôi cởi áo tu, hoàn tục”.

Năm 1964 (Phật lịch 2507), Luang Por trở về Wat Bahn Kog Lahn, thuộc tỉnh Sri Saket, để vừa học, vừa tu. Sau mùa mưa năm đó, ngài hoàn tất các kỳ thi cấp Nak - Thamm EK. Đúng lúc đó, người giữ chức vị sư trưởng Jao - kana Tambon vừa bãi nhiệm, nên Luang Por được mời vào chức vụ cao quý này. Biết rằng giữ các chức vụ trong Giáo hội sẽ thành một gánh nặng cho mình, nên ngài từ chối danh dự đó và xin phép vị trụ trì từ giã tu viện ra đi về miền Trung Thái Lan để tu học lên cấp bậc cao hơn. Cuối cùng ngài đến tỉnh Saraburi, nơi ngài hy vọng sẽ được vào tu viện để tu học. Nhưng sự việc không xảy ra như ý, nên Luang Por chấp nhận trải qua mùa an cư thứ năm (1965/2508) độc cư tại một ngôi chùa bỏ hoang gọi là Wat Bahn Suan (Ampher Phrabuddhabaht), thay vì tu học tiếp lên.

Trong mùa an cư trước đó ở Sri Saket, ngài đã mong có thể được ở một mình trong chánh điện của một ngôi chùa để có thể yên tĩnh hành thiền. Những lúc cần, Luang Por giúp dạy Nak Thamm cho các tăng sĩ trẻ, nhưng ban đêm, ngài thích được ở một mình, để liên tục hành thiền. Khi các Phật sự hay các nghi lễ giao tiếp trong xã hội xảy đến, ngài cũng vui vẻ làm nhiệm vụ, hoàn thành nhiều công tác thiện lành cho người khác. Nhưng trong thâm tâm, ngài luôn tìm cơ hội để ngồi hay kinh hành một mình ở những nơi vắng vẻ, yên tịnh, những nơi ngài có thể rời bỏ đám đông để quán tưởng về các trải nghiệm, các nghĩ suy của mình.

Luang Por nhớ lại, khoảng thời gian đó, các cảm xúc của ngài đối với người khác phái thường là vấn đề làm nặng tim óc của ngài, nhưng người ta có thể làm được gì chứ - dầu có đi đâu, rồi cuối cùng cũng phải gặp người khác phái. Thật rất khó tránh không tiếp xúc với phụ nữ. Nên Luang Por quyết định sẽ tiếp tục cách tu tập lặng lẽ, ẩn dật như ngài vẫn thường làm - rồi việc gì đến thì đến.

Sau đó, trong mùa an cư thứ năm, Luang Por, một mình ở Wat Bahn Suan, đã có một số sự kiện liên quan đến phụ nữ xảy ra. Chúng là nguyên nhân khiến Luang Por đau đầu. Ngay sau khi mùa an cư vừa chấm dứt, Luang Por nhận thấy mình không thể chịu đựng thêm, nên quyết định rời bỏ ngôi chùa này một thời gian. Khi ngài trở lại, dầu cuộc sống độc cư có thể đem lại một số lợi ích trong việc tu tập, vấn đề còn lại vẫn là tình cảm liên hệ đến phụ nữ.

“Khi ta sống một mình, ở nơi không quá xa làng mạc, ta vẫn phải tiếp xúc với dân làng và họ có thể đến với ta. Trong trường hợp của tôi, tôi chỉ cách làng khoảng 200 mét. Đặc biệt có cô gái, con ông trưởng làng, thuộc gia đình có ảnh hưởng lớn trong vùng. Là tu sĩ sống nhờ khất thực, bạn phải dựa vào cư sĩ hỗ trợ tứ vật dụng cho mình, lại là người xứ lạ đến, nên với thiện ý, cô gái đã hết lòng giúp đỡ tôi nhiều thứ.

Kết quả là cô gái này đến thăm viếng tôi mỗi ngày. Ngay phía sau nơi tôi tu tập là một vườn bắp. Kế bên nơi tôi ở, tôi để một số lu chậu để hứng nước mưa. Nếu ta không hứng nước mưa, đến mùa khô sẽ không có một giọt nước để xài. Ban đầu, cô ta đến chỗ tôi ở vì khát nước. Nhưng khi uống xong, cô ta sẽ ngồi xuống và bắt đầu hỏi chuyện này, chuyện kia. Cô ta rất mau mắn trong giao tiếp và bắt chuyện.

Nếu không nói chuyện với cô, có vẻ là tôi bất lịch sự, hơi thô lỗ. Tôi không biết làm sao trong hoàn cảnh đó, nên tôi thiết lập chánh niệm trong tâm, và bắt đầu trò chuyện với cô. Giống như trong các câu chuyện xã giao, chúng tôi nói điều này, điều nọ, luẩn quẩn một lúc”.

Khi câu chuyện kéo dài hơn năm, sáu câu, tự nhiên người ta bắt đầu có những ý nghĩ khác và cảm xúc xuất hiện. Nên, chuyện tự nhiên khi một thanh niên trẻ, sống độc thân, trải nghiệm trò chuyện với phụ nữ ở nơi thanh vắng sẽ khiến cho người đó thất niệm, phát sinh ra nhiều loại vọng tưởng. Sau lần thăm viếng đầu tiên, hôm sau cô gái lại đến viếng Luang Por. Lần này cô còn mang theo một nông cụ và để nó kế bên thất của Luang Por.

“Tôi không biết tốt nhất phải làm gì. Cô ta cứ đến thăm viếng mỗi ngày. Đôi khi mặt trời đã lặn, cô cũng chưa về. Mà cô rất trẻ đẹp!

Sau đó tôi tự nhủ, “Làng khá xa, nếu có chuyện gì thì cô gái khó đi về trong đêm tối”. Nếu cô gái này giận dữ hay bực bội, cô ta có thể phá hủy thanh danh của một thầy tu.

Tôi luôn quán tưởng trong tâm như thế và nỗ lực gìn giữ, cẩn trọng.

Nhưng đôi khi tâm tôi vẫn hướng đến cô ấy, hay muốn ở bên cạnh cô. Khi điều đó xảy ra, tôi cố gắng nghĩ ra phương cách để thay đổi hoàn cảnh, để đem tâm trở về trạng thái cân bằng, trong sáng”.

Nhiều lần sau đó, cô gái trẻ vẫn tiếp tục thăm viếng Luang Por tại thất của ngài, và việc này làm phát sinh nhiều vấn đề trong việc tu tập của ngài.

“Để giải quyết các vấn đề liên quan đến sự ham muốn dục lạc khởi sinh lúc đó, tôi hành quán niệm bất tịnh và sự chết, kết quả cũng khá tốt. Tôi đến khu hỏa táng người chết. Quán sát các tử thi ở nơi đó cũng giúp các ham muốn nhục dục lắng xuống. Đôi khi các hành này đem đến những kết quả khá tốt đủ để làm vơi đi khổ đau về nhiều phương diện. Thỉnh thoảng tôi cũng được cư sĩ mời đến các đám táng để đắp vải lên tử thi. Lúc đó tôi sẽ ra sức nhìn kỹ người chết và quán niệm xác họ. Việc này cũng tạm giúp tôi được nhẹ lòng.

Nhưng hình ảnh của cô thiếu nữ trẻ, cảm giác khi có cô bên cạnh, vẫn in sâu trong tim tôi. Bất cứ khi nào cảm xúc này phát khởi, nó giống như ai đó đổ dầu lửa vào đám củi đang cháy. Ngọn lửa sẽ bùng phát, sẽ rực sáng. Tôi sẽ bấn loạn không thể tìm được phương cách để dập tàn ngọn lửa. Khi tiếp xúc với bất cứ thứ gì có liên quan đến cô - cảm giác về sự có mặt của cô (như dáng vẻ, sự dịu dàng, trang nghiêm vân vân) lại khởi lên - tôi thực sự không thể chịu đựng nổi.

Các mối liên hệ này (của các sư) với phụ nữ thường đi theo chiều hướng và cung cách mà người phụ nữ chọn, vì thế tôi không chủ động được gì cả, và hoàn cảnh này rất dễ đưa đến tai họa cho tôi. May mắn là tôi còn có cảm giác biết hỗ thẹn, biết kiềm chế, và luôn vun bồi nghị lực của người xuất gia.

Ở địa phương đó của Thái Lan, phụ nữ không hề e dè với người tu sĩ chút nào. Họ thích giao tiếp, chuyện vãn cùng quý sư, cho dù không có chuyện gì, họ cũng sẽ tìm ra điều gì đó để nói. Và họ không dễ dàng quay lưng. Ấy dà, xém tí nữa là họ cũng đã tóm được tôi…. Tôi đã rơi vào trạng thái khốn khổ lúc ấy. Điều gì đó đã nằm yên một thời gian bỗng bị lay chạm. May là tôi có tỉnh thức để nhận ra rằng mình đang bị lún chìm mà ráng sức kéo mình lên. Vì thế, nói trắng ra là tôi chụp bắt bất cứ cơ hội nào có thể để trốn chạy trước khi tai họa có thể xảy ra. Tôi vẫn là người đàn ông dại khờ, không thể tự cởi trói cho mình, nếu không có cơ hội đưa đẩy, vì thế tôi quyết định ra đi mà không một lời từ giã với ai cả”.

Sau khi thoát khỏi hiểm họa của việc liên hệ với phụ nữ, Luang Por trở về Wat Bahn Jahn Saen Chay ở tỉnh Sri Saket, phụ giúp giảng dạy chương trình Nak - Thamm với các vị sư ngài đã từng sống chung trước đây. Trong thời gian ở Sri Saket, ngài cũng hỗ trợ việc xây dựng trường học cho trẻ trong làng. Hoạt động này giúp ngài giải tỏa các vấn đề liên quan đến phụ nữ. Tuy nhiên, việc bị cuốn hút bởi phụ nữ vẫn còn là một vấn đề thực sự đối với ngài, dầu ngài cố gắng không nghĩ về điều đó, và tín tâm của ngài đối với Đức Phật và giáo lý của Phật không hề suy suyễn.

Khi sắp tới mùa an cư năm 1965 (Phật lịch 2508), Luang Por quyết định ở lại trú xứ của mình, nhưng thệ nguyện sẽ hành một số hạnh đặc biệt để tăng thêm sức mạnh cho tâm. Ngài quyết luôn đi khất thực và chỉ dùng thức ăn trong bình bát (có nghĩa là không dùng các thức ăn khác được mang tới chùa cúng dường). Ngài cũng kiên quyết không lân la, kết giao trong chúng một khi việc giảng dạy hay hướng dẫn các tăng sĩ khác đã kết thúc. Ngài tách mình xa khỏi chúng, đi ẩn tu, thực hành thiền chỉ, dùng chánh niệm về hơi thở làm đề mục thiền của mình. Ngài duy trì việc thực hành này liên tục cho đến khi ngài cảm thấy phần nào an tâm. Khi các cảm xúc mãnh liệt phát sinh, sự tu tập của ngài đủ mạnh để chế ngự chúng.

Sau mùa an cư năm đó, Luang Por được mời đến Bahn Buyao, để huấn luyện sáu vị tân tỳ kheo trong việc ngồi thiền, đi kinh hành, tụng niệm và các công việc thường nhật trong tu viện. Ngài ở lại đó đến mùa an cư năm sau (1966 - 2509), rồi trở về Wat Bahn Jahn Saen Chay an cư năm kế tiếp. Ngài tiếp tục dốc sức tu tập chăm chỉ, để rồi sau đó, ngài ra đi tìm một vị thầy mới ở một tu viện chuyên tu. Ngài đã đi qua nhiều tu viện, kể cả Wat Sung Noem tại tỉnh Korat, nơi ngài tu theo phương cách của Luang Por Boon Mee, đệ tử của Luang Por Mun và Luang Por Tongrat, trong ba ngày. Sau đó ngài đi đến tỉnh Ubon, nơi ngài nghe một số cư sĩ nhắc đến Wat Nong Pah Pong và sư Luang Por Chah. Luang Por Liem ngay lập tức cảm thấy muốn đến nơi đó tu học.

“Khi tôi bước vào khuôn viên của tu viện Wat Nong Pah Pong, đi dưới bóng những hàng cây mọc dọc theo hai lối đi, tôi có cảm giác rất mát mẻ, dễ chịu. Nhìn thấy sân chùa được giữ sạch sẽ, với các thất cất cách nhau đều đặn thành hàng trong rừng thật mát mắt và là một khung cảnh lạ lùng tôi chưa từng thấy ở đâu trước đó bao giờ”.

Luang Por đến Wat Nong Pah Pong khá trễ, nhưng ngài được các tăng sĩ có trách nhiệm hướng dẫn ngài đến thất của Luang Pu Chah. Sau khi Luang Por đảnh lễ ngài Luang Pu Chah, hai người có cuộc trao đổi ngắn, sau đó Luang Pu Chah dạy ngài đi nghỉ ở thiền đường sālā.

“Ngay lập tức, tôi rất thích phương cách dạy dỗ của Luang Pu Chah. Cách thực hành rất tự nhiên. Tôi cũng ngưỡng mộ cách hành xử đúng mực, cung cách tao nhã của các tăng sĩ và sa - di. Khung cảnh tu viện nhìn chung rất tĩnh lặng - đúng như ý tôi mong đợi. Ngoài ra, chỉ sau một thời gian ngắn sống và tu tập ở chùa, tôi đã trải nghiệm được sự an tĩnh, buông xả nơi thân, tâm, nên tôi càng thích tu viện này hơn nữa”.

Sau hai đêm ở lại Wat Pah Pong, Luang Por trở về trú xứ cũ để xin phép trụ trì ra đi. Với lá thư giới thiệu của Luang Pu Gao, Luang Por trở lại Wat Pah Pong vào tháng 7, 1969/2512. Ngài lại đảnh lễ Luang Pu Chah, người biết rất nhiều nơi mà Luang Por đã trú ngụ trước đây. Điều Luang Por học được trước tiên ở ngài Luang Pu Chah là về bốn đức tính vô lượng của từ, bi, hỷ và xả. Chỉ năm hay sáu ngày sau khi được nhận vào tăng chúng ở Wat Pah Pong, Luang Por đã được phép đổi y và chỉnh giới, vì theo quy cách thông thường ở Wat Pah Pong bất cứ giới luật nào đã được tiếp nhận không đúng cách (thí dụ cách sử dụng tiền), cần phải được thay đổi. Thông thường, các vị tăng mới đến phải đợi hai hay ba tháng, để quán sát thấu đáo mọi quy cách thực hành ở Wat Pah Pong trước khi họ được xem là thành viên chính thức trong tăng chúng.

Năm đó, khi mùa an cứ bắt đầu, Luang Pu Chah dạy rằng tất cả các tỳ kheo phải giữ các quy tắc tu tập tại tu viện một cách nghiêm ngặt. Có nghĩa là mọi nỗ lực phải dồn vào việc tọa thiền và kinh hành. Luang Pu Chah muốn mọi hoạt động trong tu viện phải được làm trong im lặng, với sự quan tâm và cẩn trọng vì mọi người cần sống và làm việc một cách hòa hợp với nhau. Sẽ không có chỗ cho lòng ganh tỵ, ích kỷ. Đây là một khía cạnh mà Luang Pu Chah luôn nhấn mạnh.

Luang Por tóm tắt lại những gì ngài thấy ấn tượng nhất về vị thầy mới của minh, Luang Pu Chah:

“Với những trải nghiệm của mình, tôi có thể nói rằng, Luang Pu Chah rất khác biệt với mọi người. Cá tính của ngài không giống ai cả do ngài luôn hết lòng hy sinh, bố thí cho người. Theo tôi nhận thấy, ngài hoàn toàn kiên quyết trong mọi hành động. Ngài đã nói gì thì sẽ làm đúng như lời mình nói. Người có tính cách như thế rất khó tìm. Trong tu tập cũng như trong mọi hành xử, Luang Pu Chah luôn luôn tỉnh thức.

Mọi người đều ưa thích cá tính của Luang Pu Chah. Con người của ngài rất đáng cho người ta kính phục, rất đáng cho người ta vái lạy. Xét trên mọi phương diện, tôi cảm thấy Luang Pu Chah là người thực sự có thể hướng dẫn chúng tôi trong pháp học cũng như pháp hành”.

Đối với Luang Por, dường như mọi người ở Wat Nong Pah Pong đều rất nỗ lực, tinh tấn và tín tâm trong việc tu hành. Riêng với bản thân Luang Por, ngài quyết định sống đúng theo các quy luật ở tu viện mới này. Điều đó không khó, vì ngài đã trải qua nhiều thực hành trước đó, dầu ngài chỉ quẩn quanh trong các chùa làng. Ngài không thấy nề nếp sống ở Wat Pah Pong gây nhiều căng thẳng hay áp lực đối với ngài chút nào, mà nó là một cơ hội tuyệt vời để thực hành đúng theo ý nguyện của ngài. Vì thế ngài dốc lòng thực hành với tất cả năng lực của mình.

Chú thich

[1] Ở Thái Lan, đặc biệt những vùng nghèo khó ở miền đông bắc Thái, niềm tin rằng một sinh vật lớn có tâm thức phát triển hơn sinh vật nhỏ, do đó việc giết sinh vật lớn bị kết án nhiều hơn là giết các sinh vật nhỏ như cá, hay côn trùng.

[2] Nimitas: Định tưởng. Đối tượng của tâm trí trong thiền định, thường được nhận thức như ánh sáng. Xem thêm ý nghĩa của từ này trong Samatha - The Jhana, Bhikkhu Brahmavamso, do Phạm Doãn dịch, P.II, Thư Viện Hoa Sen