Sự Thực hành của Luang Por khi vừa mới gia nhập Wat Pah Pong -
Luang Por kể về kinh nghiệm đó như sau:
“Tôi đã nỗ lực trong việc phát triển định và tuệ. Có nghĩa là ta phải luôn quán sát tâm mình, không gián đoạn và không để phóng tâm, quán sát các trạng thái tâm suốt ngày, đêm, cố gắng dừng lại sự phát triển của vọng tưởng trong từng giây phút, trong mọi tư thế, đi, đứng, nằm hay ngồi. Tôi cố gắng quán xét tâm theo cách này, để xem nó là như thế nào. Khi có cảm giác thích điều gì đó, ta liền biết tâm đang trải nghiệm tham, và khi cảm giác khổ phát khởi, ta biết tâm đang trải nghiệm khổ”.
Thời gian dành cho sự thực hành cá nhân ở Wat Pah Pong rất giới hạn. Có các buổi họp chúng sáng, chiều để cùng nhau hành thiền, học kinh Pali và nghe Pháp, học giới luật. Sau buổi khất thực hằng ngày, quý sư ngồi chung lại thọ thực, buổi ăn duy nhất trong ngày. Xế chiều là thời gian làm phục dịch. Luang Por đã kể về các thói quen cá nhân hằng ngày và việc thực hành bên ngoài các công việc chung.
“Sau các buổi họp tối trong thiền đường sālā, nơi chúng tôi đọc tụng kinh về giới luật Pubbasikkhā, tôi trở về thất khoảng tám, chín giờ và bắt đầu đi kinh hành. Chỉ chừng một tiếng, nhưng cũng đã mười giờ đêm, và cơ thể tôi dường như rã rời, muốn được nghỉ ngơi. Nhưng đi ngủ lúc này chỉ là thuận theo ham muốn được ngủ nghỉ. Tôi chỉ cần ngủ như đã quy định trước. Ở đây không có đồng hồ báo thức. Tôi phải tự dặn mình giờ phải thức dậy. Đôi khi tôi lắng nghe âm thanh gì đó trong thiên nhiên quanh thất, thí dụ tiếng một loại côn trùng nào đó, hay tiếng hót của chim Graput. Đôi khi thì tiếng tàu hỏa xa xa đánh thức tôi dậy. Lúc đó thường có chiếc xe chở dân làng ra chợ, sẽ chạy ngang tu viện ngay sau hai giờ sáng. Đó đúng là thời gian phải thức dậy để thay đổi địa điểm (nghĩa là đến ngôi sālā họp mặt buổi sáng). Nếu chưa có ai đến, tôi sẽ dùng thời gian đó để quán sát bộ xương treo trong phòng. Đến trước các tu sĩ khác, lúc hai hay hai giờ rưỡi, trong phòng rất yên tĩnh, một cơ hội tốt để được một mình. Những ngày ấy, ngôi sālā còn có mái tôn, đủ mọi loài vật đi kiếm ăn buổi tối sẽ đi trên mái tôn, thí dụ con thú ăn kiến. Chúng gây ra những tiếng động đáng sợ. Tiếng chúng kêu nghe như tiếng người khóc. Tôi đã tưởng có ai ngoài kia, đang khóc, đang khốn khổ, nên tôi bước ra xem, nhưng chỉ thấy con thú ăn kiến. Những trải nghiệm như thế giúp ta bồi đắp khả năng đối mặt và chiến đấu với các thử thách.
Vào những ngày đó, việc tụng niệm chỉ mất hai mươi bảy phút, vì chúng tôi không phải đọc tụng bản dịch như ngày nay. Sau đó, chúng tôi ngồi im lặng hành thiền với nhau. Sau thời khóa thiền, chúng tôi lại cùng nhau dọn sạch thiền đường. Khi đi khất thực, tôi tránh đi chung với chúng. Tôi chọn Bahn Gor làm con đường đi khất thực. Con đường này những ngày đó không được tốt đẹp như ngày nay. Mặt đường bẩn thỉu. Đầy bùn đất và phân bò, phân trâu. Nhưng đó là chuyện bình thường trong những ngày ấy, nên tôi cũng chẳng nghĩ ngợi gì, chỉ lo làm tròn bổn phận của mình.
Lội bộ trong bùn là một cách tốt để thử các phản ứng của tâm. Tôi thiết lập tâm chánh niệm và bắt đầu đi từ tu viện đến Bahn Gor. Tôi không nghĩ nhiều về quá khứ hay tương lai mà chỉ trụ vào sự trải nghiệm tỉnh thức.
Khi đi khất thực tôi cố gắng giữ nguyên tắc thu thúc thân tâm, đúng theo quy luật mà Đức Phật đã đề ra trong pāṭimokkha. Các sự thực hành này là cơ hội tốt để tu tập.
Tôi không có nhiều sở hữu hay nhu cầu, chỉ những thứ thật cần thiết. Bất cứ thứ gì dư ra sẽ là tài sản chung của mọi người. Nhiều lắm là tôi có được đèn cầy, diêm quẹt để dùng vào ban đêm, để có được chút ánh sáng ngồi thiền, kinh hành hay đi nhà vệ sinh. Ta phải cần có đèn để thấy đường. Lúc đó không có các cây dù theo đúng nghĩa, chỉ có dù làm bằng giấy ở Chiang Mai được phát không cho chúng tôi. Nếu ta sử dụng các cây dù này vào lúc mưa, thì chúng sẽ tan rã, vì keo bị vữa ra. Vì thế chúng tôi phải chăm sóc cây dù của mình, phơi nó ngoài sân nắng sau khi dùng. Giỏi lắm thì nó cũng chỉ chịu đựng được qua một mùa mưa, mà không gây rắc rối gì. Tôi giữ cây dù của mình thật kỹ, vì chinh Luang Pu Chah đã trao nó cho tôi. Vì Luang Pu Chah, tôi rất trân quý nó. Tôi không muốn xin cây dù mới. Có thể sử dụng cây dù qua mùa mưa, nhưng thực sự nó chỉ che được đầu, chứ không che hết mưa. Che dù nhưng người thì ướt nhem.
Sau khi thọ trai xong, tôi trở về thất và đi kinh hành. Cũng có ngày tôi cho phép mình được nghỉ trưa, khoảng nửa tiếng, không nhiều. Tôi thực sự không thích ngủ ngày. Khoảng một giờ trưa tôi sẽ đọc sách kinh hay kiểm tra việc tụng đọc của mình. Tôi không đọc sách nhiều lắm, vì không muốn lại chìm đắm trong việc học văn như trước đây, để rồi chán ngấy chúng. Việc học Pháp dường như cũng không giúp tôi nhiều, nên tôi quyết định dừng lại. Tôi đến đây để thực hành.
Buổi chiều tôi đi kinh hành cho đến khi phải đi hứng nước, vệ sinh sālā, nhà vệ sinh và quét dọn các con đường. Tôi thường phải dọn vệ sinh trong toilet của cư sĩ. Lúc đó chi có hai nhà vệ sinh, nhưng dân làng có nhiều người chưa từng sử dụng nhà vệ sinh trước đó. Đôi khi họ không biết dội sạch bằng nước, còn bỏ mấy cây que đã sử dụng trong đó (Luang Por cười). Dọn dẹp nhà vệ sinh là một cách thực hành rất tốt! Toilet thường bị nghẹt và tôi phải dùng cây để thọc. Thường tôi không phiền hà nhiều, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng phát bực, nghĩ rằng, “Tại sao mấy người này phải để tôi dội rửa toilet cho họ?”
Khi không có nước, chúng tôi phải kéo lên từ giếng. Phải cần đến hai người khiêng nước vì không có xe đầy. Mà dầu có, chúng tôi cũng không sử dụng xe đẩy. Bổn phận chúng tôi là phải khiêng nước.
Tất cả những sự thực hành này tạo một nền tảng vững chắc cho cuộc sống xuất gia. Người tu sĩ phải sốt sắng làm tròn bổn phận của mình, đúng như giới luật đã đề ra, kể cả làm vệ sinh toilet. Thực ra, trong những ngày ấy, toilet cũng không cần sạch lắm. Chỉ cần giữ cho nó không quá hôi hám.
Hoàn thành nhiệm vụ, tôi tắm táp, rồi trở về thất đi kinh hành trở lại, trong lúc chờ đợi đến giờ họp chúng hành thiền buổi chiều tối.
Những bổn phận hằng ngày này giúp chúng tôi xây dựng các thói quen trong việc tinh tấn tu hành. Chúng giúp người tu không lạc hướng. Được rèn luyện như thế mỗi ngày cũng khiến tinh thần ta thêm phấn chấn.
Vào những ngày rằm, mùng 1 hay ba mươi (Wan Phra days), tôi hành hạnh đầu đà, cố gắng không nằm suốt đêm. Tôi thực sự có thể làm điều đó, nếu coi nó là việc bình thường để làm. Ngày hay đêm cũng chỉ là do ta định nghĩa chúng theo các trải nghiệm của ta đối với chúng. Khi ta có thể chỉnh sửa lại cách ta liên hệ với chúng, thì ngày có thể trở thành đêm và ngược lại. Tôi có thể thực sự làm thế không? Thì đó là việc bắt buộc nên tôi cố gắng vậy. Đôi khi tôi có thể thức suốt đêm, không cần nằm xuống một cách dễ dàng. Nhưng đôi lúc, tôi phải thừa nhận là việc đó khá vất vả, dầu chưa đến nỗi phải gọi là khổ, vì tôi coi đó là một trải nghiệm bình thường. Vì thế có ngày tôi cũng tranh thủ tìm cơ hội để nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi không có nghĩa là nằm xuống ngủ. Nếu ta có thể đi vào thiền định, thì đó cũng là cách để nghỉ ngơi và tái tạo năng lượng”.
Nói chung, Luang Por luôn tự rèn luyện để biết đủ. Ngay cả với các bổn phận, nhiệm vụ cá nhân, ngài cũng không chấp nhận sự giúp đỡ của các huynh đệ và các chú sa - di. Ngài đã tập có thói quen tự chăm sóc, dầu ngài đã thuộc vào hàng trưởng lão trong tu viện. Ở Wat Pah Pong, các vị tiền bối thường được các vị kém hạ hơn giúp đỡ, thí dụ giặt giùm y áo, vệ sinh thất, lau chùi bình bát. Tánh Luang Por là thích tự lo cho mình, không muốn là gánh nặng cho người khác. Không mong đợi sự hỗ trợ từ người khác hay dựa dẫm vào người, Luang Por ngược lại luôn lặng lẽ tìm cách hỗ trợ, giúp đỡ tăng chúng qua nhiều cách. Ngài thật là một hình mẫu về tính vị tha, giống như sư phụ của ngài, Luang Pu Chah. Cách tu hành đó là một trong những lý do tại sao ngài không muốn giao tiếp nhiều với các tăng sĩ khác, do đó có cơ hội để tu tập vượt mức giới hạn.
“Tôi đến Wat Pah Pong với ước nguyện được rèn luyện, thực hành và phát triển bản thân. Tôi tự hành các hạnh đặc biệt cho riêng mình. Thí dụ, sau buổi tọa thiền buổi chiều với chúng, tôi nhân cơ hội đó nỗ lực thêm trong việc thực hành, cố gắng phát triển thói quen tinh tấn. Tôi không giao tiếp, không tạo mối liên hệ với các tăng sĩ khác, không trò chuyện với ai. Vào mùa an cư năm đó, có khoảng gần 50 vị, chính xác là 47. Tôi không qua lại với ai, sống như người thực sự biết tận dụng cơ may của mình. Và các cơ hội để tu tập thật tuyệt vời. Tôi cố gắng rèn luyện bản thân để hiểu tất cả mọi cảm xúc phát khởi khi đã hoàn toàn buông xả. Nếu có được cơ hội như thế, ta cần rất cố gắng và kiên quyết sử dụng nó.
Nhưng không phải lúc nào tôi cũng siêng năng. Đôi khi tôi cũng cảm thấy lười biếng. Tánh lười biếng nổi lên khi các cảm giác về ngã làm chủ ta. Để chữa trị căn bệnh đó, tôi luôn tự hỏi mình: “Ta đã đến đây để làm chi?”
Đôi khi tôi cảm thấy hoài nghi, trạng thái tâm không bình thường hay không khỏe, tôi dùng phương cách quán sát một đối tượng kasina. Nhưng đối tượng kasina tôi chọn không có gì đặc biệt, tôi chỉ chú tâm nhìn vào bộ xương người được trưng bày trong phòng sālā của Wat Pah Pong. Tôi nhìn bộ xương chăm chú để thấy được bản chất của các thành phần vật chất cấu tạo nên thân người (sắc uẩn). Tôi lấy ánh sáng (nimitta) của bộ xương để quán chiếu. Bộ xương là đề mục thiền quán thường xuyên của tôi. Khi bạn thấy được nimitta như thế, nó sẽ ở lại với bạn dù bạn có đi đâu. Nếu bạn bắt đầu ngồi xuống để hành thiền chỉ, bạn sẽ thấy bộ xương. Dầu bạn quán sát thứ gì, bộ xương cũng xuất hiện. Vào những lúc khi tôi vừa trở về sau khi đi quán sát các tử thi, hình ảnh các xác chết sẽ dính trong tâm tôi như các nimitta.
Nếu bạn thấy được nimitta như thế, cảm giác tinh tấn, có động lực để thực hành sẽ phát khởi. Bạn sẽ không quên mình đang ở đâu và đang làm gì. Bạn sẽ có cảm giác luôn tỉnh thức trong mọi uy nghi. Bạn sẽ cảm thấy như mình vừa tìm được một nơi chốn riêng, độc lập cho bản thân. Còn khi tọa thiền thì bạn có thể ngồi liên tục - mà không cảm thấy buồn ngủ. Lúc nào bạn cũng có chánh niệm, tỉnh giác. Bạn sẽ có khả năng quyết định cách sử dụng thời gian của mình một cách phù hợp, không để lãng phí nó”.
An cư mùa mưa là khoảng thời gian khi các tu sĩ ở chùa thường ráo riết nỗ lực tu hành. Luang Por đã trải nghiệm được điều vi diệu vào đầu mùa an cư ấy nhờ vào sự kỳ vọng, kiên quyết cao của ngài.
Tôi đã trải nghiệm một điều khác lạ hơn bất cứ thứ gì tôi đã kinh qua trước đây. Từ lúc bắt đầu mùa an cư cho đến khoảng tháng thứ hai, tôi cảm thấy có niềm tin bao la đối với sự thực hành. Không có thối lui, không một chút tư tưởng ái ngại nào trong sự tu tập của mình.
Sự thực hành tiến triển tốt đẹp suốt khóa tu, dù đôi khi tâm cũng có vướng bận với ái dục, phiền não. Nhưng chúng chỉ thoáng qua. Thí dụ việc ham muốn dục lạc. Nếu cảm giác thích thú, dễ chịu đối với người phụ nữ khởi lên, tôi liền quán về thân bất tịnh, ngay nơi bản thân hay thân người khác, thấy rằng nó dơ uế, không đáng được ưa thích hay bám chấp. Thí dụ, tôi có thể nhìn người đó như một bộ xương đang đi, hay thấy được các nội tạng bị phân chia làm nhiều mảnh. Cách đó giúp tôi cảm thấy ghê tởm, nhàm chán ngay chính thân mình và thân người khác.
Quán chiếu như thế về thân giúp ta thoát khỏi ham muốn nhục dục và luyến chấp người khác phải. Nó cũng giúp ta chánh niệm, thấy tâm như đối tượng của tâm. Nó giải phóng ta khỏi bị đắm chìm trong các trạng thái tâm do bám chấp vào sự ưa thích hay không ưa thích đối với một đối tượng nào đó. Ngay khi tâm ở một trạng thái nào đó, ta liền biết một cách chánh niệm.
Có được chánh niệm theo cách này dường như cũng đủ để giúp ta có sự hướng dẫn rõ ràng trong thực hành. Từ đó, cảm giác phải nghĩ về sự việc theo nhiều cách cũng bớt đi. Tâm hành, hay tâm vọng tưởng, lăng xăng, dường như không còn sức mạnh nữa. Nó phai nhạt, co cụm ngày càng nhiều cho đến khi ta có thể nói là nó không còn nguy hiểm gì nữa”.
Khoảng giữa mùa an cư năm 1969/2512, Luang Pu Chah khuyến khích các tăng sĩ thực hành một cách đặc biệt tích cực. Họ không được chuyện trò với nhau. Các buổi họp chúng sáng, chiều để tụng niệm và hành thiền cũng ngưng lại. Luang Pu Chah thấy rằng đã đến lúc cần tạo cho các tăng sĩ thêm nhiều cơ hội để tự tu. Vì thế, Luang Por Liem tăng thêm nỗ lực, và kết quả là bằng chứng của sự nỗ lực đó. Vào ngày thứ 9 của tháng Chín vào khoảng 10 giờ đêm, ngài cảm nhận được một sự chuyển hóa mãnh liệt trong tâm. Ngài cảm giác một hạnh phúc tuyệt vời, một ánh sáng chói lòa mà ngài đã kể lại như sau:
“Thật khó diễn tả niềm hạnh phúc này cho người khác nghe. Thật khó để họ biết và hiểu điều này. Nó không phải là loại hạnh phúc bạn cảm nhận khi đạt được thứ mình mong muốn, mà cũng không phải thứ hạnh phúc vì mọi thứ đều dễ chịu; nó là loại hạnh phúc vượt lên trên hai thứ hạnh phúc vừa kể. Đi hạnh phúc, ngồi cũng hạnh phúc, nằm hạnh phúc, đứng cũng hạnh phúc. Lúc nào ta cũng có cảm giác phấn khởi, vui vẻ. Hơn nữa, ta lại có thể ghi nhớ trong tâm rằng hạnh phúc này hoàn toàn tự nó phát khởi và rồi tự nó cũng sẽ qua đi. Cả lạc và khổ trong một sự trải nghiệm như thế này vẫn nằm trong các trạng thái vô thường. Tôi có thể luôn duy trì nhận thức này. Trong mọi oai nghi - đi, đứng, nằm, ngồi - có một sự trải nghiệm hạnh phúc liên tục và đồng đều. Trạng thái đó vẫn giống nhau khi tôi đi kinh hành hay tọa thiền.
Nếu phải cố gắng diễn tả tâm trong trạng thái đó, tôi có thể nói rằng có ánh sáng, nhưng từ ngữ này cũng không thực sự diễn tả đúng trải nghiệm đó như thế nào. Dường như không có gì có thể khiến tâm vướng bận. Trạng thái này kéo dài khoảng một ngày, và rồi lại thay đổi. Sau đó tâm trở nên hoàn toàn thanh tịnh, không cảm thấy mệt mỏi, uể oải hay buồn ngủ, nhưng đầy sự sáng suốt, rạng rỡ, tự tại cộng với các cảm xúc khinh an, phấn khởi. Trải nghiệm này kéo dài hoàn toàn không biết đến thời gian. Nó thực sự vô hạn định, không có giới hạn thời gian. Cảm giác này liên tục trên mọi oai nghi. Dần dần tôi tự hỏi: “Đây là gì vậy?” và câu trả lời là: “Một trạng thái của tâm”. Bản chất của nó là vậy. Khi cảm thấy hạnh phúc, ta chỉ chấp nhận nó là hạnh phúc… chỉ là một trạng thái của hạnh phúc. Khi cảm thấy bình an, ta chỉ chấp nhận nó là bình an… và ta chỉ tiếp tục quán sát hạnh phúc, và ta chỉ tiếp tục quán sát bình an… không dừng dứt”.
Cuối cùng vào tối ngày thứ 10 của tháng Chín, một sự thay đổi mới mà Luang Por chưa trải nghiệm qua trước đó đã xảy ra. Ngài cảm thấy mệt mỏi, bức rứt, lo âu. Bất cứ khi nào tọa thiền hay kinh hành, ngài đều cảm thấy buồn ngủ. Ngay cả khi ngài vừa nằm nghỉ, ngài cũng thấy còn mệt. Ngài cảm thấy mệt mỏi trong mọi oai nghi. Tình hình trở nên tệ đến độ ngài ngủ gục khi đang kinh hành, và bị ngã vào bụi rậm. Cả khuôn mặt ngài bị trầy xước. “Ít nhất ta không còn thấy buồn ngủ nữa”, ngài nghĩ, nhưng sự mỏi mệt vẫn không giảm bớt. Ngài vẫn chịu đựng, tự nhủ rằng khi tu tập, thực hành, ta có gặp khó khăn, cũng là bình thường, ai cũng phải trải qua giai đoạn đó. Với sự quán chiếu đó trong tâm, ngài hiểu rằng ngài cần quán sát trạng thái mệt mỏi này. Suy cho cùng, sự mệt mỏi có phát khởi, thì nó cũng có qua đi. Nhờ cách suy nghĩ này, ngài cố gắng duy trì được ý thức về căn bệnh buồn ngủ.
Vào ngày thứ mười một, Luang Por lại trải nghiệm một sự thay đổi khác, có thể nói là niềm hạnh phúc, bình an tuyệt diệu đã trở lại trong tâm ngài. Trong cả bốn oai nghi, ngài đều cảm thấy sáng suốt, hạnh phúc. Được độc cư một mình, ngài thấy rất hài lòng. Không gì có thể xen vào, làm xáo trộn tâm ngài. Ngoại vật muốn tác động lên tâm ngài cũng không thể. Khi cùng với các tăng sĩ và sa - di phục dịch công việc trong chùa, ngài vẫn thấy như đang ở một mình. Ngài không quan tâm đến các câu chuyện của họ. Ngài không quan tâm đến những gì đang xảy ra quanh mình, và khi công việc phục dịch hoàn tất, ngài quay trở lại thất mình.
Ngày tiếp theo cũng qua đi với hạnh phúc, bình an, kéo dài như thể đó là một trải nghiệm bình thường hằng ngày. Với sự chú tâm không dừng dứt, Luang Por tiếp tục quán sát tâm và các đối tượng của tâm. Vào tối ngày thứ mười hai, ngài bắt đầu tự hỏi: “Thực sự tại sao chúng ta tu tập… Những sự tu tập này để làm gì?” Và câu trả lời hiện ra:
“Ta không tu tập vì bất cứ thứ gì, ta tu tập chỉ vì ta muốn thế. Kết quả như thế nào không thành vấn đề. Bổn phận chúng ta là phải thực hành, nên ta thực hành và cố gắng để duy trì chánh niệm, tỉnh thức. Ta tự sửa mình trong từng phút giây. Bất cứ đang làm gì, ta cũng cố gắng giữ chánh niệm, tỉnh giác. Dầu ta đang đi tới, hay đi lui, ta giữ cho mọi thứ ở trong trạng thái hoàn toàn cân bằng.
Cuối cùng tôi cảm thấy đã đi kinh hành đủ cho ngày hôm đó, vì tôi đã thấm mệt, và đôi chân đau nhức quá. Có cảm giác như xương chân tôi đã toạc ra ngoài da, vì tôi đã đi suốt ngày, suốt đêm không nghỉ. Bình thường ta cũng có cảm giác đau đớn nơi thân khi sử dụng một oai nghi quá nhiều. Nhưng bình thường thì các cảm giác lại qua đi, nên tôi nghĩ kinh hành hôm nay như thế là đã đủ. Tôi đi về thất, đắp y với vai bên mặt để trần, và y ngoài đắp qua vai trái, rồi ngồi xuống quay mặt về hướng đông (hướng thất của ngài Luang Pu Chah), nghĩ tưởng về thầy mình, rồi bắt đầu hành thiền”.
Buổi tọa thiền diễn ra êm ả, rồi trong tâm Luang Por lại phát lên ý nghĩ: “Ta hành thiền không để được gì cả, ta thực hành chỉ vì muốn thực hành”. “Với ý nghĩ đó trong tâm, tôi tiếp tục hành thiền. Thông thường tôi chỉ ngồi cho đến 10 hay 11 giờ đêm, sau đó dừng lại nghỉ, nhưng ngày hôm đó, tôi tiếp tục ngồi thêm tám tiếng nữa mà không thay đổi oai nghi hay nhúc nhích một chút nào. Tâm chuyển đổi với sự cảm nhận bình an. Cảm giác bình an ngút ngàn, phủ trùm cả châu thân, dường như có cái gì đó chiếm đoạt nó. Nó cảm thấy mát mẻ, một sự mát mẻ bao trùm cả thân… quá mát mẻ… một trải nghiệm của toàn thân trở nên hoàn toàn nhẹ, và buông thư. Đầu tóc quá mát cả ngày, đêm, như có quạt thổi bên trên đó. Mát mẻ, bình an, yên tĩnh và lắng đọng. Không có tư tưởng phát khởi, không biết chúng biến mất đi đâu. Mọi thứ hoàn toàn lặng im. Cảm thấy hoàn toàn yên tịnh. Chỉ có duy nhất cảm giác của bình an và lắng đọng. Thân cảm thấy yên tịnh, mát mẻ và nhẹ tênh.
Sự trải nghiệm này kéo dài suốt năm, chứ không chỉ một hay hai ngày. Thực ra, nó không thay đổi sau nhiều năm, kể từ lúc đó. Trong đầu tôi luôn có cảm giác mát mẻ, dầu ngồi hay nằm, tư thế nào cũng luôn mát mẻ. Mọi lo âu, quan tâm hay những tư tưởng đại loại trong đầu đều biến mất. Suy nghĩ này, nọ cũng lắng sâu. Tất cả đều lặng im, giống như một khu rừng không có tiếng chim hót. Thực sự lặng im. Không có gió thổi. Chỉ duy có sự tĩnh lặng và bình an.
Cảm thấy như không có hành uẩn, không có hoạt động của tâm. Tất cả mọi nỗi khổ do phiền não mang đến cho tôi trước đây, những rối rắm về người khác phái hay tất cả mọi tham vọng trước đây của tôi, không biết chúng biến đâu mất. Nhìn ai đó, tôi chỉ thấy họ rất bình thường. Nhìn một người như một người: chỉ có vậy. Không có người đẹp, không có người xấu - ai cũng đặc biệt như họ là. Đây là loại bình lặng khiến khinh an phát khởi. Tôi không biết chúng là gì, nhưng tôi cũng chẳng quan tâm, chỉ biết nó như nó là.
Cứ như thế tôi ở dưới sự bình lặng, khinh an. Không có gì để phải quan tâm, như mọi thứ hiện hữu ra sao. Tôi không biết khổ như thế nào. Không biết lười nhác ra làm sao. Tự xét mình về lười nhác, không có gì. Tự xét mình về khổ, không có gì khổ. Cảm giác trong tâm tôi cũng giống như thế.
Tôi cố gắng nhớ lại và nhận diện xem cái gì được gọi là khổ. Nó là gì? Tôi thực sự không biết. Tôi chỉ biết chúng có cái tên đó trong ngôn ngữ thông thường, theo nghĩa mặc định. Khi tâm không có khổ, mọi mặc định không hiện hữu. Và trải nghiệm của cảm giác này đã kéo dài liên tục từ lúc đó đến giờ; không có gì thay đổi từ đó đến ngày nay. Trạng thái này vẫn còn kéo dài, bền vững, liên tục và không thay đổi”.