← Quay lại trang sách

Chương 10

Khi liều mạng lang thang trong các dãy hành lang và cầu thang nhằng nhịt của tòa án, nếu có người leo lên tầng ba của cánh trái tòa nhà, họ sẽ thấy một dãy hành lang rất thấp của tầng này, được chiếu sáng yếu ớt bởi các ô cửa sổ hẹp, thỉnh thoảng lại có những cánh cửa nhỏ, khá giống với hành lang của một tòa nhà nội các hoặc một khách sạn.

Đó là một nơi mà thật khó có thể bình tĩnh ngắm nhìn; trí tưởng tượng khiến nó trở nên u ám và sầu thảm.

Cần phải cầu viện đến văn hào Dante để ghi những câu chỉ dẫn trên lối đi dẫn đến đây. Từ sáng đến tối, những phiến đá lát vang lên tiếng gót giày của những người hiến binh áp giải các bị can. Ở đây người ta chỉ gặp những bộ mặt rầu rĩ. Đó là những người cha, người mẹ hoặc bạn bè của bị cáo, những nhân chứng và các viên cảnh sát. Trong dãy hành lang này, nằm cách xa mọi ánh mắt của thiên hạ, diễn ra các hoạt động bếp núc của pháp luật. Nó giống như hậu trường của tòa án, một sân khấu tang tóc mà ở đó diễn ra, trong dòng chảy của máu người thật, những tấn thảm kịch hiện thực nhất.

Mỗi cánh cửa nhỏ có đánh số màu đen đều dẫn đến văn phòng của một Thẩm phán điều tra. Tất cả các văn phòng đều giống nhau; ai biết một phòng rồi thì sẽ biết tất cả. Chúng chẳng có gì là đáng khiếp sợ hay tang tóc, thế nhưng rất khó bước vào đó mà không cảm thấy đau lòng. Đây là một nơi lạnh lẽo. Những bức tường thấm đẫm tất cả những giọt nước mắt đã vương vãi lên đó. Người ta rùng mình khi nghĩ đến những lời thú tội đã được thốt ra tại đây, những lời thú tội được thốt ra thều thào lẫn trong tiếng nấc.

Trong văn phòng của Thẩm phán điều tra, tòa án không hề triển khai bộ máy mà nó dùng để trấn áp tinh thần của đám đông. Ở đây nó vẫn còn đơn giản và gần như sẵn sàng tỏ ra nhân từ. Nó bảo với bị can, “Ta có lý do vững chắc để tin rằng mi có tội, nhưng hãy chứng minh sự vô tội của mi đi thì ta sẽ thả mi.”

Người ta có thể tưởng như đang ở trong bất cứ một cửa hàng buôn bán nào. Đồ nội thất ở đây là những thứ đơn sơ, giống như đồ đạc của tất cả những nơi mà người ta chỉ ghé qua. Cần gì phải có những món đồ không liên quan đến những người đang truy lùng thủ phạm của một tội ác hay những người đang phải tự bảo vệ mạng sống của mình?

Một chiếc bàn giấy chất đầy hồ sơ dành cho ngài Thẩm phán, một chiếc bàn cho viên lục sự, một chiếc ghế bành và vài chiếc ghế tựa, đó là tất cả những gì được bày biện trong phòng đợi của Tòa đại hình. Những bức tường được dán giấy xanh lá, mành rèm cũng một màu xanh; dưới sàn được trải một tấm thảm xấu xí cũng cùng một màu. Văn phòng của ông Daburon mang số 15.

Từ chín giờ sáng, ông đã đến đây và ngồi đợi. Khi đã quyết, ông không bỏ phí một giây, khi mà ông cũng hiểu rõ như lão Tabaret rằng phải hành động thật nhanh. Thế là ông đã đi gặp ngài chưởng lý và thỏa thuận với các sĩ quan cảnh sát tư pháp.

Ngoài lệnh bắt Albert, ông còn gửi đi mấy trát hầu tòa dành cho Bá tước Commarin, bà Gerdy, Noël và những người hầu của Albert. Ông nhất quyết muốn hỏi cung mọi người trước khi làm việc với bị cáo.

Theo lệnh ông, mười cảnh sát đã vào cuộc, còn ông ngồi đó như một vị tướng vừa phái các trợ lý đi để chuẩn bị mở một trận đánh và đang hy vọng vào chiến thắng của những kế hoạch tác chiến của mình.

Thông thường, vào giờ này, ông đang ngồi trong phòng trong tình trạng giống hệt như thường ngày. Một tội ác đã được thực hiện, ông nghĩ mình đã phát hiện ra thủ phạm, và ông vừa ra lệnh bắt hắn. Đó chẳng phải là nghề của ông sao? Nhưng chưa bao giờ ông thấy lòng mình xáo động như bây giờ, dù đã rất nhiều lần ông phát lệnh bắt giữ chỉ với một nửa số bằng chứng như vụ án này. Ông cứ nhắc đi nhắc lại mãi điều này mà vẫn không làm dịu được nỗi băn khoăn lo lắng khiến ông đứng ngồi không yên.

Ông thấy người của mình lâu trở về quá. Ông vừa đi đi lại lại trong phòng vừa đếm từng phút, cứ mười lăm phút ông lại lôi chiếc đồng hồ quả quýt ra ba lần để so nó với chiếc đồng hồ quả lắc. Một cách vô thức, cứ mỗi khi nghe thấy một tiếng bước chân vang lên ngoài hành lang, lúc này gần như vắng lặng, ông lại bước tới bên cánh cửa, dừng lại và lắng tai nghe ngóng.

Có tiếng gõ cửa. Nhưng đó là viên lục sự mà ông cho đòi.

Anh này chẳng có gì đặc biệt; anh ta có vóc người dài thì đúng hơn là cao, đi kèm một thân hình mảnh khảnh. Anh ta có dáng đi rất điệu đà, những điệu bộ kiểu cách và vẻ mặt như thể được tạc bằng một khúc gỗ màu vàng.

Anh ta năm nay ba mươi tư tuổi, và từ mười ba năm nay anh ta đã lần lượt ghi chép biên bản hỏi cung cho bốn vị Thẩm phán điều tra. Anh ta là loại người có thể nghe những chuyện khủng khiếp nhất mà không cau mày. Một nhà luật học hóm hỉnh đã định nghĩa về nghề lục sự như sau, “Lục sự là ngòi bút của Thẩm phán điều tra. Là anh câm biết nói, là anh mù biết viết, là anh điếc biết nghe.” Anh ta đang sắp xếp chương trình làm việc, và hơn nữa tên anh ta còn là Constant[*].

[*]Tác giả chơi chữ, “constant” trong tiếng Pháp là “kiên nhẫn, kiên trì, không đổi…” (ND).

Anh ta chào ngài “Thẩm phán của mình”, rồi xin lỗi vì đã đến muộn. Lúc sớm, anh ta đang xem lại sổ sách của mình như vẫn thường làm vào buổi sáng, và vợ anh ta đã phải sai người gọi.

- Anh đến vẫn còn kịp, - ông Daburon nói - nhưng chúng ta sắp có việc đây, anh có thể chuẩn bị giấy tờ.

Năm phút sau, người mõ tòa dẫn Noël Gerdy vào.

Noël bước vào với vẻ tự nhiên, trong tư thế của một luật sư đã từng làm công việc tòa án và biết tất cả những ngóc ngách của nó. Sáng nay, anh chẳng có vẻ gì là bạn của lão Tabaret cả. Thậm chí người ta cũng không thể nhận ra anh là người tình của cô Juliette. Trông anh hoàn toàn khác, hay nói đúng hơn là anh đã lấy lại vai trò thường ngày của mình.

Đó là một công chức đang trình diện, đúng như các đồng nghiệp của anh quen biết, như bạn bè anh thường quý trọng, như những người trong giới của anh thường quý mến.

Trong cách ăn mặc đứng đắn, với khuôn mặt tươi tắn, người ta không thể ngờ rằng, sau một buổi tối đầy xúc động và bạo liệt, sau khi lén lút đến thăm tình nhân, anh đã phải thức cả đêm bên giường một người hấp hối. Và người hấp hối đó là ai chứ! Đó chính là mẹ anh, hay ít ra là người đã đóng vai mẹ anh.

Thật là một sự khác biệt giữa anh và ông Thẩm phán!

Đêm qua ông Thẩm phán cũng không ngủ, nhưng trái ngược với anh, người ta thấy ông suy sụp, vẻ mặt lo lắng, hai mắt thâm quầng. Vạt trước áo sơ mi của ông nhàu nhĩ thảm hại, hai ống tay nhăn nheo. Bị các sự kiện kích động, linh hồn ông đã bỏ quên thể xác. Chiếc cằm cạo nhẵn của Noël tì trên một chiếc cà vạt trắng sạch sẽ không chê vào đâu được, cổ áo không có một vết nhăn, mái tóc và bộ râu quai nón được chải chuốt kỹ càng. Anh chào ông Daburon và chìa tờ giấy gọi hầu tòa ra.

- Ngài đã cho gọi tôi, thưa ngài, - anh nói - tôi sẵn sàng nghe lệnh ngài.

Ông Thẩm phán điều tra không phải là chưa từng gặp chàng luật sư trẻ này ở hành lang tòa án; ông biết mặt anh. Hơn nữa, ông nhớ là đã nghe nói rằng luật sư Gerdy là một người có tài năng xuất chúng đang bắt đầu trở nên nổi tiếng. Thế là ông tiếp anh như là người khách quen của cửa hàng - giữa ghế công tố với ghế luật sư là một hàng rào ngăn cách quá mong manh! - và ông mời anh ngồi.

Những thủ tục ban đầu của cuộc trình diện nhân chứng đã xong, tên tuổi, nơi sinh đã được vào sổ, ông Thẩm phán, từ nãy vẫn theo dõi việc ghi chép của anh lục sự, giờ quay sang Noël.

- Thưa luật sư Gerdy, - ông bắt đầu - người ta đã cho anh biết về vụ rắc rối khiến anh phải hầu tòa chưa?

- Rồi, thưa ngài, đó là do vụ sát hại một bà quả phụ già ở La Jonchère.

- Chính xác. - Ông Daburon đáp lời.

Và, nhớ đến lời hứa với lão Tabaret, ông nói thêm:

- Sở dĩ tòa án tìm đến anh quá nhanh như vậy là vì chúng tôi đã tìm thấy tên anh thường được nhắc đến trong các giấy tờ của bà quả phụ Lerouge.

- Tôi không ngạc nhiên, - chàng luật sư đáp - chúng tôi quan tâm đến người đàn bà tử tế này, người một thời đã là vú nuôi của tôi, và tôi biết rằng bà Gerdy vẫn viết thư cho bà khá đều đặn.

- Tốt lắm! Vậy anh có thể cung cấp thông tin cho chúng tôi.

- Thưa ngài, tôi e rằng thông tin của tôi sẽ không đầy đủ. Có thể nói rằng tôi chẳng biết gì về bà Lerouge tội nghiệp này. Tôi được giao cho bà từ lúc bé tí; và từ khi trưởng thành, tôi chỉ quan tâm đến bà khi thỉnh thoảng phải giúp bà điều gì đó.

- Anh không bao giờ đến thăm bà sao?

- Xin lỗi. Tôi đã đến thăm bà nhiều lần, nhưng tôi chỉ nán lại ở đó mấy phút. Bà Gerdy, người thường xuyên gặp bà và là người bà phó thác mọi công việc, có thể nói rõ cho ngài hơn tôi.

- Nhưng, - ông Thẩm phán nói - tôi đang rất muốn gặp bà Gerdy, chắc bà ấy đã nhận được giấy gọi.

- Tôi biết, thưa ngài, nhưng bà không thể trả lời được, bà đang nằm ốm liệt giường…

- Có nặng không?

- Nặng đến nỗi, theo tôi, ta nên thận trọng bỏ qua việc lấy lời khai của bà. Bà bị một chứng bệnh mà, theo lời bạn tôi, bác sĩ Hervé, thì sẽ không thể qua khỏi được. Nó giống như bệnh viêm não, không hề nói quá lời. Có thể nó sẽ tha mạng cho bà, nhưng lý trí thì không. Nếu không chết thì bà cũng sẽ phát điên.

Ông Daburon tỏ ra rất phật ý.

- Thật là tai hại. - Ông lẩm nhẩm - Thế anh có nghĩ, thưa anh bạn luật sư, rằng không thể hỏi được bà điều gì không?

- Thậm chí chúng ta còn không nên nghĩ đến chuyện đó. Bà đã hoàn toàn mất trí. Khi tôi ra khỏi nhà thì bà đã lả đi, đến nỗi khiến người ta tin rằng bà sẽ không qua khỏi ngày hôm nay.

- Thế bà ấy bị bệnh này từ bao giờ?

- Tối qua.

- Đột ngột sao?

- Vâng, thưa ngài, ít nhất là có vẻ như vậy, bởi vì về phần tôi, tôi có những lý do chắc chắn để tin rằng bà đã bị đau ít nhất là từ ba tuần nay. Vậy là tối qua, sau khi hầu như không ăn gì, bà đứng lên khỏi bàn ăn và cầm một tờ báo, rồi do một sự tình cờ đáng tiếc, mắt bà dừng lại đúng chỗ mấy dòng chữ tường thuật vụ án mạng. Ngay lập tức, bà hét lên một tiếng, đổ sụp xuống một chiếc ghế bành và vừa trượt xuống sàn nhà vừa thì thầm, “Ôi! Đồ khốn nạn! Đồ khốn nạn!”

- “Đồ đàn bà khốn nạn” chứ! Có phải anh muốn nói như vậy?

- Không, thưa ngài, tôi đã nói chính xác. Rõ ràng, lời than đó không dành cho bà vú nuôi tội nghiệp của tôi.

Nghe câu trả lời quá nghiêm trang bằng một giọng ngây thơ nhất, ông Daburon ngước mắt nhìn nhân chứng. Anh chàng luật sư cúi đầu.

- Rồi sao nữa? - Ông Thẩm phán hỏi sau một lát im lặng để ông ghi chép mấy dòng.

- Câu nói đó, thưa ngài, là câu cuối cùng của bà Gerdy. Với sự giúp đỡ của chị hầu gái, tôi đã dìu bà lên giường, tôi đã cho gọi thầy thuốc, và từ lúc đó bà vẫn không tỉnh lại. Ông bác sĩ, hơn nữa…

- Được rồi! - Daburon ngắt lời - Thôi không nói chuyện đó nữa, ít nhất tạm thời là lúc này. Bây giờ, anh, luật sư Gerdy, anh có biết kẻ thù nào của bà Lerouge không?

- Không có ai.

- Bà không có kẻ thù ư? Thôi được. Thế thì anh hãy nói xem, theo chỗ anh biết, có ai được lợi vì cái chết của bà già tội nghiệp này không?

Khi đặt câu hỏi này, ông Thẩm phán điều tra nhìn thẳng vào mắt Noël; ông không muốn để anh quay đi hoặc cúi xuống.

Anh chàng luật sư rùng mình và tỏ ra xúc động mạnh. Anh bối rối, ngập ngừng, như thể trong anh đang diễn ra một cuộc đấu tranh.

Cuối cùng, bằng một giọng quả quyết, anh đáp:

- Không, không ai cả.

- Vậy ư? - Ông Thẩm phán hỏi, mắt nhìn xoáy vào anh - Anh không biết ai có lợi, hoặc có thể được lợi, từ vụ giết người này, tuyệt đối không một ai ư?

- Tôi chỉ biết một việc, thưa ngài, - Noël trả lời - đó là nó đã gây cho tôi một thiệt hại khó sửa chữa.

Cuối cùng thì, - ông Daburon nghĩ - ta sẽ lần tới được những bức thư mà không phải làm liên lụy đến lão Tabaret tội nghiệp kia. Thật không hay nếu ta gây cho con người tử tế và khôn khéo ấy một nỗi buồn phiền dù là nhỏ nhất.

- Một sự thiệt hại cho anh, anh bạn luật sư thân mến! Tôi hy vọng là anh sẽ giải thích cho tôi điều này.

Vẻ lúng túng mà Noël đã thể hiện trước đó giờ đây lại càng xuất hiện rõ hơn.

- Tôi biết, thưa ngài, - anh trả lời - rằng tôi nợ tòa án không chỉ sự thật, mà là toàn bộ sự thật. Tuy nhiên, có những tình tiết quá tế nhị, khiến lương tâm của một người có danh dự phải coi đó là một nỗi nguy hiểm. Hơn nữa, thật nhẫn tâm nếu ta nhấc chiếc khăn đang che phủ những điều bí mật đau lòng mà sự phát giác đôi khi có thể…

Ông Daburon đưa tay ngắt lời. Chất giọng buồn rầu của Noël đang làm ông xúc động. Vì biết trước những gì mình sắp được nghe nên ông cảm thấy đau buồn cho anh chàng luật sư. Ông quay sang viên lục sự.

- Constant! - Ông hơi chuyển giọng nói.

Giọng nói đó có lẽ là một tín hiệu, bởi lẽ viên lục sự lưng dài liền đứng lên một cách đúng phép, gài chiếc bút lên vành tai rồi nhịp bước đi ra cửa.

Noël tỏ ra nhạy cảm với sự tế nhị của ông Thẩm phán. Vẻ mặt anh để lộ một sự biết ơn sâu sắc nhất, ánh mắt anh ánh lên lời cảm ơn.

- Tôi rất biết ơn, thưa ngài, - anh nói với một vẻ hăm hở kiềm chế - vì sự quan tâm độ lượng của ngài! Những điều tôi sắp nói sẽ là những điều đau buồn, nhưng giờ đây, trước mặt ngài, có lẽ tôi sẽ chẳng phải trả giá nhiều lắm nếu tôi nói ra.

- Anh đừng sợ, - ông Thẩm phán tiếp lời - tôi sẽ chỉ giữ lại, anh bạn ạ, những gì tôi cho là cần thiết nhất trong lời khai của anh.

- Tôi cảm thấy mình đã bình tĩnh lại một chút rồi, thưa ngài. - Noël bắt đầu nói - Xin hãy thông cảm cho sự bối rối của tôi. Nếu như có lời nào tôi buột ra mà ngài cảm thấy có sự cay nghiệt, thì xin ngài hãy tha thứ, bởi đó chỉ là vô tình. Cho đến những ngày gần đây, tôi vẫn tưởng mình là một đứa con hoang. Đáng ra tôi vẫn sẽ như thế mà không có gì phải xấu hổ khi thú nhận điều đó. Chuyện của tôi ngắn thôi. Tôi đang có một tham vọng chính đáng, tôi đang có việc làm. Khi người ta không có danh tiếng, thì người ta phải biết tạo ra nó. Tôi đã sống một cuộc đời âm thầm, ẩn dật và khắc khổ của những kẻ mà, xuất phát từ dưới đáy xã hội, đang muốn ngoi lên cao. Tôi đã tôn thờ người đàn bà mà tôi tưởng là mẹ mình, tôi tin rằng bà yêu quý tôi. Vết nhơ ra đời của tôi đã thu hút sự nhục nhã nào đó, và tôi khinh ghét nó. So sánh số phận của tôi với bao kẻ khác, tôi vẫn đang thấy mình thuộc loại người may mắn, thì số phận đã để rơi vào tay tôi tất cả những bức thư mà cha tôi, Bá tước Commarin, đã viết cho bà Gerdy vào lúc hai người còn quan hệ với nhau. Khi đọc xong những bức thư này, tôi đã nhận ra rằng tôi không phải là người như tôi vẫn tưởng, và bà Gerdy không phải là mẹ đẻ của tôi.

Rồi không để cho ông Daburon kịp đáp lời, anh giãi bày toàn bộ sự việc mà cách đây mười hai giờ đồng hồ anh đã kể cho lão Tabaret.

Cũng vẫn là câu chuyện đó, vẫn với những tình tiết đó, vẫn với vô vàn những chi tiết rõ ràng và xác chứng đó, nhưng giọng kể đã có sự thay đổi. Hôm qua chàng luật sư trẻ tỏ ra cường điệu và quyết liệt bao nhiêu, thì lúc này, trong văn phòng của ông Thẩm phán điều tra, anh lại tỏ ra kiềm chế và dè dặt bấy nhiêu. Có lẽ anh đã điều chỉnh lại tông giọng tùy theo người nghe, sao cho có thể gây ra tác động ngang nhau đối với tất cả mọi người, nhưng là dưới những hình thức khác nhau.

Đối với lão Tabaret, một kẻ tầm thường, anh thể hiện sự giận dữ cường điệu; đối với ông Daburon, một người có trí tuệ cao siêu, thì anh lại khuếch trương sự điều độ.

Anh đã tỏ ra nổi loạn chống lại một số phận bất công bao nhiêu, thì giờ đây anh lại tỏ ra hạ mình cam chịu một định mệnh mù quáng bấy nhiêu.

Với một tài hùng biện xuất sắc và khả năng biểu lộ cảm xúc hiếm có, anh đã trình bày tình cảnh của mình vào hôm sau khi phát hiện ra sự thật, với tất cả những nỗi đau, nỗi hoang mang và sự nghi ngờ.

Để làm chỗ dựa cho niềm tin vững chắc của mình, anh cần có chứng cớ xác thực. Anh có thể hy vọng vào lời chứng của ông Bá tước hoặc của bà Gerdy không, vì họ là những kẻ được lợi khi sự thật không được nói ra? Không. Nhưng anh đang trông chờ vào lời chứng của bà vú nuôi, bà già tội nghiệp rất quý anh, và là người đang sung sướng vì được trút bỏ một gánh nặng lương tâm lớn như thế. Bà chết đi, những bức thư giờ đang trở thành đống giấy lộn trong tay anh.

Sau đó, anh chuyển sang trình bày về cuộc giải trình với bà Gerdy, và anh đã kể với ông Thẩm phán nhiều chi tiết hơn so với khi kể cho ông hàng xóm già của mình.

Anh kể rằng lúc đầu bà phủ nhận hết, nhưng anh đã đọc thư cho bà nghe, và cuối cùng, bị hỏi dồn và trước những chứng cứ hiển nhiên, đến lúc tuyệt vọng bà đã thú nhận, tuy nhiên sau đó bà vẫn tuyên bố rằng bà rút lại và phủ nhận lời thú tội này, vì bà sẵn sàng làm tất cả để đứa con trai của mình giữ được địa vị tốt đẹp của nó.

Sau cảnh đó, theo đánh giá của chàng luật sư, đã xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của căn bệnh đã khiến cho người tình cũ của cha mình gục ngã.

Anh chàng Noël còn kể về cuộc gặp của mình với Tử tước Commarin.

Ngay cả trong câu chuyện này anh cũng chen vào mấy dị bản, nhưng chỉ thoảng nhẹ đến nỗi khó có thể chê trách anh. Vả lại, những dị bản đó cũng không có gì bất lợi cho Albert. Trái lại, anh còn nhấn mạnh đến ấn tượng tuyệt vời mà mình dành cho chàng thanh niên trẻ kia.

Quả thực là anh ta đã đón nhận sự phát giác của anh với một sự ngờ vực nhất định, nhưng đi kèm với nó là một vẻ cương nghị quý phái, giống như một tấm lòng tử tế sẵn sàng chịu thua trước sự biện minh của pháp luật.

Cuối cùng anh phác họa một bức chân dung đầy vẻ nhiệt tình của kẻ kình địch, người mà cuộc sống giàu sang đã không hề khiến anh ta trở nên hư hỏng, người mà khi chia tay anh đã không hề biểu lộ chút thù oán, người mà anh thấy mình bị lôi cuốn, vì nói cho cùng đó chính là em ruột của anh.

Ông Daburon đã nghe Noël nói với sự chú ý cao độ nhất mà không để cho một lời nói, một cử chỉ hay một cái nhíu mày để lộ cảm xúc của mình. Khi anh đã nói xong, ông nhận xét:

- Thưa anh, làm sao mà anh có thể nói rằng, theo quan điểm của anh, không ai được lợi do cái chết của bà quả phụ Lerouge?

Chàng luật sư không trả lời.

- Tôi cảm thấy rằng địa vị của Tử tước Commarin đang trở nên gần như không thể lung lay. Bà Gerdy đang phát điên, ông Bá tước sẽ phủ nhận tất cả, những bức thư của anh chẳng chứng minh được gì. Cần phải thú nhận rằng vụ án mạng này trở thành điều may mắn nhất dành cho chàng trai kia, và anh ta đã gây ra nó thật đúng lúc.

- Ôi! Thưa ngài! - Noël phản đối kịch liệt - Sự ám chỉ này thật kinh khủng…!

Ông Thẩm phán nghiêm nghị nhìn soi mói diện mạo của chàng luật sư. Liệu anh có nói thật lòng, hay là đang diễn một vở kịch hào hiệp? Liệu có thực là anh không bao giờ nghi ngờ điều gì? Noël không hề dao động và gần như nói tiếp ngay:

- Chàng trai kia có lý do gì để run sợ cho địa vị của mình? Tôi chưa bao giờ nói với anh ấy một lời đe dọa nào, ngay cả gián tiếp. Tôi không đến gặp anh ấy như là một kẻ bị tước đoạt đang nổi khùng muốn ngay tức khắc đòi lại tất cả những gì anh ấy đã lấy. Tôi chỉ trình bày mọi việc cho Albert và nói, “Thế đấy, anh nghĩ thế nào? Chúng ta phải làm gì? Anh hãy là người phán xử đi.”

- Và anh ta đã yêu cầu anh cho thời gian?

- Vâng. Tôi cũng đã đề nghị anh ấy cùng tôi đến gặp bà Lerouge để lời chứng của bà có thể xua đi mọi nghi ngờ của anh ấy; nhưng anh ấy tỏ ra không hiểu tôi. Tuy nhiên anh ấy biết bà, vì anh ấy đã từng đến nhà bà cùng với ông Bá tước, người mà từ lâu tôi đã biết là đã cho bà nhiều tiền.

- Anh không thấy sự hào phóng này có gì đặc biệt à?

- Không.

- Anh có hiểu tại sao Tử tước không sẵn sàng đi cùng anh không?

- Có chứ. Lúc đó anh ấy vừa nói với tôi rằng trước tiên anh ấy muốn nói chuyện với cha đã, khi ấy ông đang vắng nhà, nhưng chắc ít ngày nữa sẽ về.

Sự thật mà mọi người đều biết và sẵn sàng nói ra ấy có một điểm nhấn mà không ai có thể nhầm lẫn. Ông Daburon không có gì phải nghi ngờ thiện ý của nhân chứng. Noël nói tiếp với sự chân thành ngây thơ của một tấm lòng trung thực không gợn chút hoài nghi:

- Tôi sẽ phải điều đình ngay với cha mình. Tôi muốn trong nhà đóng cửa bảo nhau, nên tôi muốn có một sự dàn xếp ổn thỏa. Mặc dù trong tay có đầy bằng chứng, nhưng tôi sẽ khước từ chuyện kiện cáo.

- Anh không kiện à?

- Không bao giờ, thưa ngài, và không vì bất cứ giá nào. Chẳng lẽ, - anh nói thêm với giọng tự phụ - để lấy lại một cái tên vốn thuộc về mình, ta lại phải bắt đầu bằng việc khiến nó bị ô danh?

Ngay tức khắc, ông Daburon không thể giấu được sự thán phục chân thành.

- Thật là một thái độ vô tư và cao đẹp, thưa anh. - Ông nói.

- Tôi nghĩ, - Noël đáp - rằng như thế là hợp lẽ. Vâng, nếu như trường hợp xấu nhất có xảy ra thì tôi sẽ quyết định nhường phẩm tước của mình cho Albert. Tất nhiên, Commarin là một cái họ nổi tiếng, nhưng tôi hy vọng rằng trong mười năm nữa tên tuổi của tôi sẽ được biết đến nhiều hơn. Chỉ có điều, tôi sẽ yêu cầu phải được bồi thường thỏa đáng. Tôi đang chẳng có gì, và đã nhiều lần tôi gặp trở ngại trong nghề của mình vì khốn khổ chuyện tiền nong. Những gì bà Gerdy có được nhờ sự hảo tâm của cha tôi đã bị phung phí gần hết. Chuyện học hành của tôi chiếm một khoản lớn, và chẳng bao lâu nữa văn phòng của tôi sẽ ngốn hết chỗ còn lại.

Chúng tôi, tôi và bà Gerdy, sống rất đạm bạc. Không may là, mặc dù có những sở thích giản dị, nhưng bà không biết tiết kiệm cũng như xếp đặt mọi thứ, nên không bao giờ bà hình dung được khoản kinh phí mà chúng tôi phải gánh. Rốt cuộc thì tôi cũng chẳng có gì phải tự trách mình; cứ để mọi thứ ra sao thì ra. Lúc đầu tôi đã không kìm được cơn giận, nhưng bây giờ tôi chẳng còn gì để phải oán hận nữa. Khi nghe tin về cái chết của bà vú nuôi, tôi đã quăng hết mọi niềm hy vọng xuống sông xuống bể.

- Thế là anh sai rồi, anh bạn luật sư thân mến ạ. - Ông Thẩm phán tuyên bố - Bây giờ, tôi sẽ nói cho anh biết rằng: Hãy hy vọng. Có thể đến cuối ngày anh sẽ có được mọi quyền lợi của mình. Tòa án, tôi không giấu anh nữa, tin rằng mình đã tìm ra thủ phạm sát hại bà quả phụ Lerouge. Đến đúng thời khắc, Tử tước Albert sẽ bị bắt giữ.

- Sao! - Noël thốt lên với vẻ như sững sờ - Vậy là thật sao…! Thưa ngài, vậy là tôi đã không hiểu sai ý ngài. Nhưng tôi đã sợ là mình hiểu…

- Và anh đã hiểu đúng, thưa luật sư Gerdy. - Ông Daburon ngắt lời - Tôi cảm ơn anh về những lời giải trình chân thành và trung thực, chúng sẽ tạo thuận lợi đặc biệt cho nhiệm vụ của tôi. Ngày mai, bởi lẽ hôm nay không còn thời gian nữa, chúng tôi sẽ xem xét lời khai của anh theo đúng quy trình… toàn bộ lời khai, nếu anh không phiền. Giờ tôi cần phải yêu cầu anh giao nộp những bức thư mà anh đang giữ, vì chúng rất cần thiết đối với tôi.

- Trong một giờ đồng hồ nữa, thưa ngài, ngài sẽ có chúng. - Noël đáp.

Rồi anh đi ra, sau khi đã bày tỏ lòng biết ơn nồng nhiệt với ngài Thẩm phán điều tra.

Nếu bình tĩnh hơn thì có lẽ chàng luật sư đã nhận ra lão Tabaret ở cuối hành lang, người vừa hộc tốc chạy đến đây, đang tỏ ra vồn vã và vui vẻ như một người chuyên cung cấp những tin quan trọng, đúng theo kiểu của ông.

Xe còn chưa kịp dừng trước cổng tòa án mà ông đã có mặt trong sân rồi lao qua cửa lớn. Nhìn thấy ông leo lên những bậc cầu thang dốc đứng dẫn đến hành lang của các văn phòng Thẩm phán điều tra còn nhanh hơn cả một chàng thư ký trẻ, người ta sẽ không thể ngờ được rằng ông đã bước qua cái dốc bên kia của tuổi năm mươi từ nhiều năm nay. Chính ông cũng không ngờ như vậy. Ông không nhớ là mình đã thức cả đêm qua; chưa bao giờ ông cảm thấy tỉnh táo và vui vẻ đến thế, đôi chân ông như gắn những chiếc lò xo thép.

Ông chạy xuyên qua hành lang chỉ với vài bước rồi lảo đảo lao vào văn phòng của ông Thẩm phán điều tra như một viên đạn, và mặc dù vốn là một người khá lịch sự, ông không kịp xin lỗi viên lục sự nghiêm nghị, người vừa lượn đến chục vòng quanh hành lang.

- Bắt được rồi! - Ông kêu lên từ ngưỡng cửa - Phải trói cổ nó ngay! Ta tóm được hắn rồi!

Lão Tabaret, lúc này xứng đáng với cái tên Tirauclair hơn bao giờ hết, đang hoa chân múa tay với vẻ hăng hái hết sức hài hước và uốn éo kỳ cục đến mức làm anh lục sự phải mỉm cười, dù vậy đã phải trằn trọc suốt đêm.

Nhưng Daburon, khi đó vẫn còn đang bận tâm đến lời khai của Noël, cảm thấy bực mình trước niềm vui không đúng lúc này, mặc dù nó đem đến cho ông sự an tâm.

- Nói khẽ thôi, thưa ông, khẽ thôi, hãy nghiêm túc và kiềm chế lại đi.

Vào lúc khác, ông lão hẳn đã sững sờ vì lời quở trách đó, nhưng lúc này niềm vui đã khiến ông bỏ qua.

- Kiềm chế à, - ông đáp - tôi đâu có thiếu sự kiềm chế, ơn trời, và tôi còn có thừa ấy chứ. Chỉ là tôi chưa bao giờ gặp một chuyện thế này! Tất cả những gì tôi tuyên bố thì người ta đều đã tìm thấy: chiếc kiếm tập bị gãy mũi, đôi găng tay màu ngọc trai bị sờn, tẩu hút thuốc; không thiếu một thứ gì. Thưa ngài, người ta sẽ đem đến cho ngài tất cả những thứ đó, cùng nhiều thứ khác nữa. Chúng ta có hệ thống của mình, và điều đó không tồi. Đây là thắng lợi của phương pháp suy luận của tôi, phương pháp mà ông Gévrol thường chế nhạo. Tôi sẵn sàng bỏ ra 100 franc để được nhìn thấy ông ấy ở đây. Nhưng không, ông bạn Gévrol của tôi đang quyết tâm muốn tóm người đàn ông đeo khuyên tai. Tôi tin là ông ấy có khả năng làm được. Gévrol là một người hoạt bát, láu lỉnh, một người nổi tiếng! Một năm người ta trả bao nhiêu cho sự khôn khéo của ông ấy?

- Thôi nào, ông Tabaret thân mến, - ông Thẩm phán nói ngay khi tìm được dịp để chen vào - chúng ta hãy nghiêm túc, nếu có thể, và hãy tiến hành một cách có trật tự.

- Mặc kệ! - Lão già nói tiếp - Để làm gì chứ? Vụ án này đã xong rồi. Khi nào người ta đưa hắn đến, ông chỉ cần chỉ cho hắn thấy những vết xước lấy ra từ móng tay nạn nhân và đôi găng tay là ông sẽ khiến hắn cứng họng ngay. Tôi thì tôi cá là hắn sẽ thú tội ngay tức khắc. Vâng, tôi xin lấy đầu mình ra để đánh cược, cho dù làm vậy khá là liều lĩnh. Mà không, hắn sẽ thoát chết thôi. Mấy con gà mái nhát gan của bồi thẩm đoàn có khả năng sẽ cho hắn hưởng khoan hồng. Biết đâu chính tôi là người sẽ cung cấp cho hắn điều đó! Ôi! Những sự chậm chạp này đang khiến công lý bị mất đi! Giá như tất cả mọi người đều theo ý kiến tôi thì sự trừng phạt dành cho những kẻ vô lại đã không phải chờ lâu thế. Bắt ngay rồi treo cổ luôn. Thế là xong.

Ông Daburon cam chịu đợi cho ông lão trút hết những suy nghĩ của mình. Khi cơn phấn khích đã giảm đi chút ít, ông mới bắt đầu hỏi. Ông vẫn đang phải cố gắng thu thập những chi tiết chính xác hơn nữa về việc bắt giữ, những chi tiết mà biên bản của viên thanh tra cảnh sát chắc sẽ phải xác minh.

Ông Thẩm phán đã tỏ ra rất ngạc nhiên khi được nghe rằng Albert, khi nhìn thấy lệnh bắt giữ, đã nói, “Ta tiêu đời rồi!”

- Thế là, - ông lẩm nhẩm - ta sẽ có một nhiệm vụ khủng khiếp đây!

- Tất nhiên! - Lão Tabaret nói tiếp - Quả thực, có lẽ là không bao giờ, trong trạng thái bình thường, hắn ta lại để buột ra những câu nói khiến hắn tiêu đời như thế. Đó là vì chúng ta đã tóm hắn khi hắn còn chưa tỉnh hẳn. Đêm qua hắn không lên giường ngủ. Hắn đang ngủ một giấc ngủ không yên trên đi văng khi chúng tôi đến. Tôi đã ép một tên gia nhân phải theo dõi sát sao hắn từ trước. Tất cả những tính toán của tôi đều đã được thực hiện. Nhưng ngài đừng lo, hắn sẽ tìm thấy một lời giải thích có thể chấp nhận được cho câu buột miệng đáng tiếc đó. Tôi phải nói thêm rằng bên cạnh hắn, ở dưới sàn nhà, chúng tôi tìm thấy tờ báo Nước Pháp số ra ngày hôm qua, bị nhàu nhĩ hoàn toàn, trong đó có đăng tin về vụ sát hại. Đây sẽ là lần đầu tiên một mẩu tin trên báo khiến một tên hung phạm bị tóm.

- Vâng, - ông Thẩm phán trầm tư lẩm nhẩm - vâng, ông thật là một người quý giá, thưa ông Tabaret.

Rồi ông cất cao giọng nói thêm:

- Tôi hoàn toàn tin chắc rằng đúng như vậy, bởi lẽ anh Gerdy vừa ra khỏi đây.

- Ngài đã gặp Noël rồi ư? - Ông già kêu lên.

Mọi sự thỏa mãn tự phụ của ông biến mất ngay lập tức. Một vẻ lo lắng che phủ bộ mặt đỏ gay và hoan hỉ của ông như một chiếc băng tang.

- Noël, ở đây à! - Ông thảng thốt nhắc lại.

Rồi ông rụt rè hỏi:

- Và cậu ấy biết rồi chứ?

- Không hề. - Ông Daburon đáp - Tôi đã không hề nhắc đến tên ông. Vả lại, tôi chẳng đã hứa sẽ tuyệt đối giữ kín chuyện của ông sao?

- Thế thì tốt rồi! - Lão Tabaret reo lên - Thế anh chàng luật sư Noël nghĩ thế nào?

- Tôi tin chắc đó là một người có trái tim cao thượng và đáng kính. - Vị quan tòa đáp - Một bản tính vừa mạnh mẽ vừa hiền hậu. Những tình cảm mà tôi được nghe anh ấy bộc lộ tại đây, và là những tình cảm không thể nghi ngờ, thể hiện sự cao thượng của một tâm hồn ảo não khác thường. Thật hiếm khi tôi gặp một người mà ngay lần tiếp xúc đầu tiên đã gây cho tôi một mối thiện cảm như thế. Tôi hiểu là ông rất tự hào khi được làm bạn với anh ấy.

- Thì tôi đã nói với ngài Thẩm phán rồi mà! Quả là cậu ấy đã gây được ấn tượng với tất cả mọi người. Bản thân tôi, tôi yêu cậu ấy như con, và cho dù có chuyện gì xảy ra thì cậu ấy vẫn sẽ được thừa kế tất cả tài sản của tôi. Vâng, tôi sẽ để lại cho cậu ấy tất cả sau khi tôi chết, như tôi đã viết trong di chúc đang được gửi ở chỗ luật sư Baron, công chứng viên của tôi. Tôi cũng có một điều khoản dành cho bà Gerdy, nhưng tôi sẽ xóa bỏ nó, và sẽ nhanh thôi!

- Bà Gerdy, thưa ông Tabaret, chẳng bao lâu sẽ không còn cần điều gì nữa.

- Bà ấy ư! Sao lại thế? Chẳng lẽ ông Bá tước…?

- Bà ấy đang hấp hối và chắc là không qua nổi ngày hôm nay, chính anh Gerdy đã nói với tôi như thế.

- Ôi! Lạy Chúa! - Ông lão kêu lên - Ngài nói gì vậy! Đang hấp hối ư…! Noël hẳn đang tuyệt vọng lắm… À mà không, bởi vì bà ấy không còn là mẹ cậu nữa, có quan trọng gì với cậu nữa đâu! Hấp hối ư! Tôi đã quý trọng bà ấy rất nhiều trước khi chuyển sang khinh ghét bà ấy. Khốn nạn thay loài người! Dường như tất cả đám thủ phạm đều sẽ phải trải qua điều đó trong cùng một ngày, bởi lẽ tôi quên chưa thông báo với ngài rằng đúng lúc tôi rời dinh thự Commarin thì nghe thấy một gia nhân nói với một người khác rằng, khi nghe tin con trai bị bắt, ông Bá tước đã lên cơn đau tim.

- Đây có thể sẽ là tai họa tồi tệ nhất đối với anh Gerdy.

- Đối với Noël ư?

- Tôi đang trông mong vào lời khai của ông Bá tước Commarin để có thể trả lại cho anh ấy tất cả những gì mà anh ấy đáng được hưởng. Nếu ông Bá tước mà chết, bà quả phụ Lerouge cũng chết rồi, bà Gerdy thì đang hấp hối, hoặc dù sao thì cũng phát điên, vậy ai có thể nói những bức thư kia là thật?

- Đúng vậy! - Lão Tabaret lẩm nhẩm - Đúng vậy! Thế mà một người như tôi lại không nhìn ra điều đó! Thật là định mệnh! Bởi lẽ tôi đã không nhầm, tôi đã nghe rõ…

Ông không nói hết câu. Cánh cửa văn phòng ông Daburon mở ra, và đích thân Bá tước Commarin xuất hiện, người cứng đờ như bức chân dung của những ông già hóa đá trong khung ảnh mạ vàng.

Ông quý tộc già đưa tay ra hiệu, và hai người gia nhân vừa xốc nách dìu ông lên hành lang vội lui ra.