← Quay lại trang sách

Chương 11

Đây là Bá tước Commarin, hay nói đúng hơn là cái bóng của ông. Mái đầu kiêu hãnh của ông đang gục xuống ngực, vóc người ông sụm xuống, đôi mắt không còn sinh khí, hai bàn tay run rẩy. Quần áo của ông xộc xệch đến tệ hại, càng làm nổi bật sự biến động mà ông đã phải chịu. Trong một đêm ông đã già đi đến hai mươi tuổi.

Mấy ông già cường tráng này giống như những cây cổ thụ mà lõi gỗ bên trong đã bị nát vụn và chúng chỉ sống nhờ lớp vỏ. Chúng tỏ ra là không thể lay chuyển, chúng có vẻ như thách thức thời gian, nhưng chỉ một cơn bão là chúng sẽ đổ lăn ra đất. Con người này, hôm qua vẫn còn tự hào là không bao giờ gục ngã, giờ đây đang tan vỡ. Niềm kiêu hãnh của tên tuổi là thứ mang lại sức mạnh cho ông; giờ đây, khi bị hạ nhục, ông cảm thấy rã rời. Mọi thứ trong ông bị xé nát cùng một lúc, mọi điểm tựa của ông đều đồng thời biến mất. Ánh mắt vô hồn bộc lộ sự sững sờ u buồn trong suy nghĩ của ông. Ông là hình ảnh hoàn hảo nhất của nỗi tuyệt vọng, đến nỗi khi nhìn thấy ông, ông Thẩm phán điều tra không khỏi rùng mình. Lão Tabaret làm một cử chỉ hoảng sợ, chính viên lục sự cũng cảm thấy xúc động.

- Constant, - ông Daburon vội vàng nói - hãy đến sở cùng với ông Tabaret để nghe ngóng tin tức đi.

Anh lục sự rời đi, theo sau là ông lão, người đang tỏ ra tiếc rẻ khi phải bỏ đi.

Ông Bá tước đã không nhận ra sự có mặt của hai người, và ông cũng không để ý khi họ đi ra.

Daburon đẩy cho ông một chiếc ghế; ông liền ngồi xuống.

- Tôi cảm thấy quá mệt mỏi, - ông nói - nên không thể đứng được.

Ông, chính ông, đã phải hạ mình xin lỗi trước một ông quan tòa hèn mọn như thế này đây!

Đó là vì chúng ta đã không còn sống trong thời kỳ đầy tiếc nuối, khi mà giới quý tộc vẫn tự cho mình quyền được đứng trên pháp luật, và quả thực đúng là như thế. Xa rồi cái thời mà bà Công tước Bouillon dám khinh bỉ mấy ông nghị viên, khi mà các quý bà đài các độc ác của triều đại vua Louis XIV dám đối xử với các ủy viên hội đồng của Hạ viện với vẻ khinh bỉ nhất! Ngày nay tất cả mọi người đều phải tôn trọng pháp luật, và phải sợ nó một chút, ngay cả khi nó được đại diện chỉ bởi một vị Thẩm phán điều tra bình thường và mẫn cán.

- Có thể ngài đang thấy khó ở, thưa ngài Bá tước, - ông Thẩm phán nói - nên không biết ngài có cung cấp được thông tin để tôi làm rõ vụ việc không?

- Tôi thấy khá hơn rồi, - ông Commarin đáp - cảm ơn ông. Tôi cũng cố gắng giữ mình sau cú đòn khủng khiếp kia. Khi được biết con trai bị bắt vì tội gì, tôi đã choáng váng. Tôi cứ tưởng mình mạnh mẽ, nhưng tôi đã đổ sụp. Đám gia nhân tưởng tôi đã chết. Quả thực là không hiểu sao tôi lại chưa chết! Theo những gì ông bác sĩ nói thì sức lực của thể tạng đã cứu sống tôi, nhưng tôi nghĩ là Chúa muốn tôi sống để tôi phải uống đến giọt đắng cuối cùng của sự nhục nhã.

Ông ngừng lời; một dòng máu trào lên họng làm ông tắc nghẹn. Ông Thẩm phán điều tra đứng gần bàn giấy không dám cử động chút nào.

Sau một lát nghỉ ngơi, ông Bá tước tỏ ra nhẹ nhõm, và ông tiếp tục nói:

- Thật bất hạnh cho tôi! Chẳng phải là tôi đang chờ đợi tất cả những điều này sao? Chẳng lẽ mọi chuyện sẽ không thể bị phát hiện? Chỉ là sớm hay muộn thôi! Tôi đang bị trừng phạt bởi chính điều mà tôi đã phạm phải, đó là kiêu hãnh. Tôi tưởng là mình đứng trên sấm sét, thế mà tôi đã kéo dông tố đánh xuống nhà mình. Albert là kẻ giết người! Tử tước Commarin bị đưa ra Tòa đại hình! Ôi! Thưa ngài, hãy trừng phạt cả tôi đây, bởi chính tôi đã gây ra tội ác này. Vì tôi, mười lăm thế kỷ vinh quang trong sạch nhất của dòng họ đang lụi tàn trong sự ô nhục.

Daburon cho rằng thái độ của Bá tước Commarin là không thể tha thứ được. Ông đã nghĩ rằng mình sẽ thấy một đại lãnh chúa cao ngạo gần như cố chấp, và ông đã thề sẽ đánh gục sự kiêu căng của ông ta. Không nghi ngờ gì nữa, có lẽ kẻ bình dân đã từng bị bà Hầu tước Arlange khinh bỉ đang còn giữ lại một chút hiềm khích đối với giới quý tộc…

Ông đã chuẩn bị bài phát biểu hơn mức nghiêm khắc một chút để chắc chắn hạ gục được ông già quý tộc này và khiến ông ta phải co vòi. Thế mà ông lại phải đứng trước một thái độ sám hối quá lớn, đến nỗi sự phẫn nộ của ông giờ bỗng biến thành lòng thương hại sâu sắc, và ông đang tự hỏi làm thế nào để xoa dịu nỗi đau này.

- Hãy chép đi, thưa ngài, - ông Bá tước nói tiếp với một sự hăng hái mà trước đó mười phút người ta không dám tin là ông có thể như thế - hãy chép lại những lời thú tội của tôi mà không cần phải cắt xén gì hết. Tôi không còn cần tha thứ và nể nang nữa. Từ bây giờ tôi còn có gì phải sợ nữa chứ? Điều nhục nhã chẳng phải sẽ được công khai sao? Chẳng phải chỉ còn mấy ngày nữa là tôi, Bá tước Rhéteau de Commarin, sẽ ra trước tòa để công bố sự ô nhục của dòng họ mình sao? Ôi! Giờ đây tất cả đã hết, kể cả danh dự! Ngài chép đi, thưa ngài, tôi muốn cả thiên hạ biết rằng tôi là kẻ tội phạm đầu tiên. Nhưng người ta cũng sẽ biết rằng từ lâu tôi đã bị trừng phạt khủng khiếp lắm rồi, và rằng chẳng cần đến cái chứng cứ chết người cuối cùng này nữa.

Ông Bá tước dừng lại để tập hợp và gói gọn lại các kỷ niệm. Sau đó ông nói tiếp bằng giọng rắn rỏi mà càng nói càng trở nên rung cảm:

- Thưa ngài, khi tôi bằng tuổi Albert bây giờ, bất chấp mọi lời van xin của tôi, cha mẹ đã ép tôi phải cưới một cô gái quý phái và trong trắng nhất. Tôi đã khiến nàng trở thành người phụ nữ bất hạnh nhất, vì tôi không thể yêu nàng. Khi đó tôi đã dành sự đam mê cuồng nhiệt nhất cho một người tình, người đã hiến thân cho tôi như một cô gái ngoan và là người mà tôi đã yêu suốt nhiều năm. Tôi thấy nàng đáng tôn thờ về sắc đẹp, về sự trong trắng và tâm hồn. Nàng tên là Valérie. Bây giờ mọi thứ trong tôi đã chết, thưa ngài; ấy vậy mà, nhắc đến cái tên này vẫn khiến tôi xúc động. Dù đã kết hôn, nhưng tôi vẫn không thể cam chịu cắt đứt với nàng. Có lẽ nàng muốn chia tay. Ý nghĩ về một sự chia sẻ tình cảm nhục nhã như thế khiến nàng nổi giận. Có lẽ khi ấy nàng vẫn yêu tôi. Thế là chúng tôi tiếp tục giữ mối quan hệ. Vợ và người tình của tôi trở thành mẹ gần như cùng một lúc. Sự trùng hợp này làm nảy sinh trong tôi một ý tưởng tai hại là hy sinh đứa con hợp pháp để đổi lấy đứa con hoang. Tôi đã thông báo kế hoạch này cho Valérie. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy nàng bác bỏ nó với vẻ ghê tởm. Từ lâu bản tính làm mẹ trong nàng đã thức dậy, nàng không muốn chia lìa với đứa con đẻ của mình. Trong một giây phút điên rồ, tôi đã giữ lại những bức thư nàng viết cho mình trong thời gian này; thậm chí đêm qua tôi đã đọc lại chúng. Tại sao tôi lại không nhượng bộ trước lý trí cũng như những lời cầu xin của nàng cơ chứ? Hẳn là khi đó tôi đã mất trí rồi. Nàng đã có linh cảm về tai họa mà ngày hôm nay nó đang đổ xuống đầu tôi. Nhưng khi đó tôi đã lên Paris, đã gây áp lực tuyệt đối với nàng; tôi dọa sẽ bỏ nàng, sẽ không bao giờ gặp lại nàng nữa, thế là nàng phải nhượng bộ. Claudine Lerouge cùng với một người hầu của tôi được giao nhiệm vụ thực hiện cuộc đánh tráo tội lỗi đó. Vậy là người mang danh Tử tước Commarin vừa bị bắt cách đây một giờ đồng hồ chính là con trai người tình của tôi.

Ông Daburon đã không hy vọng có được một lời khai quá rõ ràng và nhất là quá nhanh chóng như thế. Trong thâm tâm ông đang mừng cho chàng luật sư trẻ, người đã chinh phục được ông bằng những tình cảm quý phái.

- Vậy là, thưa ngài Bá tước, - ông nói - ngài công nhận rằng anh Noël Gerdy được sinh ra từ cuộc hôn nhân hợp pháp của ngài, và chỉ có anh ấy mới có quyền mang họ của ngài?

- Vâng, thưa ngài. Than ôi! Ngày xưa tôi đã vui sướng vì kế hoạch của mình thành công như vui sướng trước một chiến thắng vinh quang nhất. Tôi đã quá say mê với niềm vui là có được bên mình đứa con của nàng Valérie của tôi, đến nỗi tôi quên đi tất cả. Tôi chuyển sang cho nó một phần tình yêu của tôi dành cho mẹ nó, hay nói đúng hơn là tôi yêu nó hơn nữa, nếu có thể. Ý nghĩ rằng nó sẽ mang họ của tôi, sẽ thừa kế tất cả tài sản của tôi trong sự thiệt hại của đứa con kia đã khiến tôi sướng điên lên. Còn đứa con kia, tôi ghét nó, tôi không muốn nhìn thấy nó. Tôi không nhớ là mình đã ôm nó lần thứ hai. Đến mức Valérie, một người đàn bà rất nhân hậu, cũng thường trách tôi là tàn nhẫn. Chỉ một lời duy nhất đó thôi đã làm xáo động hạnh phúc của tôi. Bà Bá tước Commarin rất yêu quý đứa trẻ mà nàng tưởng là con trai mình, nàng không ngừng muốn bế nó vào lòng. Tôi không thể bày tỏ được nỗi khổ khi nhìn thấy vợ hôn hít vuốt ve đứa con của người tình của mình. Trong chừng mực có thể, tôi đã tách nó ra khỏi nàng, và nàng, vì không biết điều tôi đã làm, đã nghĩ rằng tôi đang làm tất cả để ngăn cản con trai yêu nàng. Nàng đã chết, thưa ngài, bị ý nghĩ đó đầu độc trong những ngày cuối đời. Nàng chết vì buồn phiền, nhưng giống như những vị thánh, không một lời than vãn, không một lời thì thầm, với sự tha thứ trên môi và trong tim.

Mặc dù thời gian gấp gáp, nhưng Daburon không dám ngắt lời ông Bá tước để hỏi vắn tắt về những sự việc liên quan trực tiếp đến cái chết của bà Bá tước.

Ông hiểu rằng chỉ có cơn sốt mới cho ông ấy thứ nghị lực giả tạo này, và đến một lúc nào đó, có thể nó sẽ dẫn đến sự suy sụp; ông sợ rằng nếu dừng ông ấy lại thì ông ấy sẽ không còn đủ sức để nói tiếp nữa.

- Tôi đã không nhỏ một giọt nước mắt nào dành cho nàng. - Ông Bá tước nói tiếp - Nàng là gì trong cuộc đời của tôi? Một nỗi buồn phiền và một sự ăn năn. Nhưng công lý của Thượng đế, luôn đi trước so với công lý của con người, đã thực hiện một cuộc trả thù khủng khiếp. Một hôm, người ta báo cho tôi biết rằng Valérie đang đùa cợt tôi và đã lừa dối tôi từ lâu. Ban đầu tôi không muốn tin, vì với tôi điều đó không thể xảy ra, là một chuyện điên rồ. Thậm chí tôi là người còn đáng bị nghi ngờ hơn nàng ấy chứ. Lần đầu tiên tôi gặp nàng là trên một tầng áp mái, khi nàng đang phải cật lực làm việc mười sáu tiếng một ngày để kiếm 30 xu; nàng mắc nợ tôi tất cả. Dần dần, tôi đã biến nàng thành một món đồ của mình, đến nỗi ý nghĩ về sự phản bội của nàng khiến tôi cảm thấy ghê tởm. Tôi không thể đóng vai kẻ ghen tuông. Tuy nhiên, tôi đã tìm hiểu, đã cho người theo dõi nàng, và tôi đi đến chỗ rình mò nàng. Người ta nói đúng. Người đàn bà khốn nạn này có một tình nhân, và nàng đã có từ hơn mười năm nay. Đó là một sĩ quan kỵ binh. Anh ta đến gặp nàng một cách hết sức thận trọng. Thường thì anh ta rút lui vào lúc nửa đêm, nhưng cũng có lúc anh ta qua đêm ở nhà nàng; những lúc đó anh ta sẽ rời đi từ sáng sớm. Được cử đến đồn trú gần Paris, anh ta đã có những ngày nghỉ phép để đến thăm nàng, và trong những ngày đó, anh ta ở lại trong nhà nàng không ló mặt ra ngoài. Một buổi tối, những người theo dõi của tôi đã báo cho tôi biết là anh ta đang ở đó. Tôi chạy ngay đến. Sự có mặt của tôi không khiến nàng bối rối. Nàng vẫn tiếp đón tôi như mọi ngày bằng cách nhảy lên ôm cổ tôi. Tôi tưởng là mọi người lừa tôi, và đúng lúc tôi đang định nói tất cả với nàng thì tôi nhìn thấy trên mặt chiếc đàn piano có một đôi găng tay bằng da đanh mà các quân nhân vẫn hay mang. Không muốn gây ồn ào, và không biết sự tức giận có thể khiến mình trở nên thế nào, tôi đã bỏ đi không nói một lời. Từ đó tôi không bao giờ gặp lại nàng nữa. Nàng có viết thư cho tôi, nhưng tôi không bóc. Nàng cố tìm cách gặp tôi, muốn chặn tôi trên đường, nhưng vô ích; các gia nhân của tôi đã nhận được một quân lệnh mà không kẻ nào dám vi phạm.

Có thật là ông Bá tước Commarin đây, một con người ngạo mạn lạnh lùng và luôn mang thái độ dè dặt đầy khinh bỉ, lại đang nói ra chuyện này, đang giao nộp cả cuộc đời mình? Và giao nộp cho ai cơ chứ? Cho một Người Không Quen Biết!

Đó là vì ông đang ở trong một thời điểm tuyệt vọng gần như lầm lạc, khi mọi phản xạ đều không còn, khi vẫn cần phải có một lối thoát cho một cảm xúc quá mạnh.

Còn quan trọng gì điều bí mật mà ông đã dũng cảm giữ nó suốt bấy nhiêu năm? Ông đang muốn rũ bỏ nó, giống như một kẻ khốn nạn muốn quẳng đi một cái gánh quá nặng mà không cần quan tâm đến việc nó sẽ rơi vào đâu, cũng như không thèm thử thách lòng hám lợi của những kẻ đi đường.

- Chẳng có gì. - Ông nói tiếp - Không, chẳng có gì giống với điều tôi đã phải chịu đựng khi đó. Tôi đã khắc ghi người phụ nữ đó trong tâm khảm. Nàng giống như linh hồn thoát ra từ chính bản thân tôi. Khi chia tay nàng, tôi có cảm giác như phải dứt bỏ gì đó từ da thịt mình. Tôi không thể nói được kỷ niệm về nàng đã khơi dậy trong tôi những đam mê dữ dội như thế nào. Tôi khinh bỉ, đồng thời cũng khao khát nàng, với một sự mãnh liệt ngang nhau. Tôi căm ghét nàng và tôi cũng yêu nàng. Và ở bất cứ đâu tôi cũng kéo theo cái hình bóng đáng ghét của nàng. Không gì có thể khiến tôi quên được nàng. Tôi không bao giờ có thể khuây khỏa vì việc mất nàng. Và không chỉ có vậy. Những nỗi nghi ngờ ghê sợ về Albert lại xuất hiện. Có đúng tôi là cha đẻ của nó không? Ngài có hiểu được nỗi nhục hình của tôi khi cứ nghĩ rằng liệu có phải tôi đã hy sinh con trai mình vì đứa con của một người lạ không? Đứa con hoang mang tên Commarin này khiến tôi ghê sợ. Tình cảm yêu mến quá mãnh liệt của tôi biến thành sự ghê tởm không thể cưỡng lại. Trong thời gian đó, biết bao lần tôi đã phải vật lộn chống lại cái thôi thúc điên rồ muốn giết nó! Về sau, tôi đã làm chủ được sự ghê tởm của mình, nhưng tôi không bao giờ hoàn toàn thắng được nó. Albert, thưa ngài, là đứa con ngoan của tôi; thế nhưng giữa nó và tôi lại có một hàng rào băng giá không thể giải thích được. Nhiều lần tôi đã định ra tòa để thú nhận hết, để đòi lại người thừa kế hợp pháp của mình, nhưng sự tôn trọng dành cho địa vị của nó đã ngăn tôi lại. Tôi đã đầu hàng trước tai tiếng. Tôi sợ tên tuổi của mình sẽ bị chê cười, và tôi sẽ không thể cứu được nó khỏi bị ô nhục.

Giọng ông quý tộc già tắt lịm đi khi nói những câu cuối cùng. Với một cử chỉ đau buồn, ông đưa hai tay lên che mặt. Hai giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên hai gò má nhăn nheo.

Trong lúc đó, cánh cửa văn phòng hé mở và cái đầu của viên lục sự lưng dài xuất hiện.

Ông Daburon ra hiệu mời anh ta về chỗ rồi quay sang ông Commarin.

- Thưa ngài, - ông nói bằng giọng thương cảm dịu dàng nhất - dưới con mắt của Chúa cũng như của xã hội, ngài đã phạm phải một sai lầm lớn, và hậu quả, ngài thấy đấy, thật là tai hại. Sai lầm này, ngài có bổn phận phải sửa chữa khi vẫn còn có thể.

- Đó cũng là ý định của tôi, thưa ngài, và tôi xin nói với ngài rằng đó là nguyện vọng quý giá nhất của tôi.

- Có lẽ là ngài hiểu ý tôi. - Daburon nhắc lại.

- Vâng, thưa ngài, - ông già đáp - tôi hiểu ý ngài.

- Sẽ là điều an ủi cho ngài, - ông Thẩm phán nói thêm - khi biết được rằng anh Noël Gerdy xứng đáng về mọi mặt với địa vị cao quý mà ngài sẽ trả lại cho anh ấy. Có lẽ ngài sẽ phải công nhận rằng tính cách của anh ấy sẽ không được tôi luyện mạnh mẽ đến vậy nếu như anh ấy ở bên ngài. Nỗi bất hạnh là người thầy dạy cho ta mọi bài học. Anh ấy là một người đàn ông có tài, là người giỏi nhất và đáng quý trọng nhất mà tôi biết. Ngài sẽ có một người con trai xứng đáng với tổ tiên. Cuối cùng, không ai trong gia đình ngài phải chịu thiệt, thưa ngài, Tử tước Albert không phải là một Commarin.

- Phải, đúng vậy! - Ông Bá tước hào hứng đáp - Một Commarin sẽ phải chết vào giờ này, và máu sẽ rửa sạch tất cả.

Câu nói của ông quý tộc già khiến ông Thẩm phán điều tra phải suy nghĩ rất kỹ.

- Vậy là ngài tin chắc, thưa ngài, - ông hỏi - rằng Tử tước là kẻ có tội?

Bá tước Commarin nhìn ông Thẩm phán bằng ánh mắt ngạc nhiên.

- Tôi mới về Paris tối qua, - ông đáp - và tôi không hề biết về những việc có thể đã xảy ra. Tôi chỉ biết rằng người ta không thể bộp chộp khởi tố một người như Albert. Nếu ngài đã cho bắt nó, thì chắc là ngài đã có nhiều hơn những sự nghi ngờ, tức là ngài đã có những bằng chứng xác thực.

Daburon cắn môi và không thể giấu được một cử chỉ không hài lòng. Ông đã đánh mất sự thận trọng thường ngày của mình và đã đi quá nhanh. Ông tưởng rằng tinh thần của ông Bá tước đã hoàn toàn bị đảo lộn, thế là ông vừa đánh thức sự ngờ vực của ông ấy. Mọi sự khôn khéo cũng không thể sửa chữa được một sự vụng về như vậy. Vào lúc kết thúc một cuộc hỏi cung mà ta đang mong đợi nhiều điều, sự vụng về đó có thể phá hỏng mất mọi mưu tính.

Một nhân chứng đã cảnh giác sẽ không còn là một nhân chứng mà ta có thể trông đợi; anh ta sẽ sợ mắc sai lầm, sẽ đắn đo các câu hỏi và cân nhắc các câu trả lời.

Mặt khác, tòa án cũng như cảnh sát thường có thiên hướng hoài nghi, giả định mọi thứ và nghi ngờ tất cả mọi người.

Ông Bá tước xa lạ đến mức nào đối với tội ác ở La Jonchère? Rõ ràng là mấy ngày trước đó, mặc dù nghi ngờ về quyền làm cha của mình, nhưng ông vẫn cố hết sức để cứu vãn tình cảnh của Albert. Ông tin đây là vấn đề dính dáng đến danh dự của ông, chuyện ông kể đã chứng minh điều đó.

Liệu có phải ông đang tìm mọi cách để tránh đưa ra một lời chứng có hại? Đó chính là điều mà ông Daburon đang tự hỏi.

Cuối cùng, ông không thấy rõ lợi ích của Bá tước Commarin trong vụ án này là thế nào, và sự hoài nghi này đang khiến ông cảm thấy lo lắng cũng như hết sức bất bình.

- Thưa ngài, - ông nói tiếp với giọng thong thả hơn - ngài đã được thông báo về việc bí mật của mình bị phát giác từ bao giờ?

- Tối qua, do chính Albert thông báo. Nó đã nói với tôi về câu chuyện đáng buồn này theo một cách mà đến giờ tôi vẫn cố tìm hiểu nhưng không được. Trừ phi là…

Ông Bá tước đột nhiên ngừng lời, như thể lý lẽ của ông vừa va phải một giả định khó tin mà ông đang định đưa ra.

- Trừ phi cái gì? - Ông Thẩm phán điều tra háo hức hỏi.

- Thưa ngài, - ông Bá tước nói mà không trả lời trực tiếp - Albert sẽ là một người hùng nếu nó không phải một kẻ có tội.

- Ồ! - Ông Thẩm phán nhanh nhảu bảo - Vậy là, thưa ngài, ngài có lý do để tin vào sự vô tội của anh ấy?

Sự bực bội của Daburon lộ ra quá rõ qua giọng nói, đến mức ông Commarin có thể và hẳn đã cảm thấy bị lăng nhục. Ông giật mình, và giống như thể bị mất lòng rõ rệt, ông liền ưỡn thẳng người lên, nói:

- Bây giờ tôi không còn là một nhân chứng gỡ tội cũng như ban nãy tôi không phải là một nhân chứng buộc tội. Tôi chỉ tìm cách làm rõ công lý như bổn phận của mình, thế thôi.

Thôi nào! - Daburon tự nhủ - Vậy là mình đã khiến ông ấy tự ái. Có phải là mình đang đi hết từ sai lầm này đến sai lầm khác?

- Sự việc là thế này. - Ông Bá tước nói tiếp - Tối qua, sau khi nói đến những bức thư chết tiệt kia, Albert đã giăng một cái bẫy cho tôi để tìm hiểu về sự thật, bởi lẽ nó ngờ rằng Gerdy không có được đầy đủ tập thư của tôi. Thế là giữa tôi và nó đã diễn ra một cuộc tranh luận có thể nói là gay cấn. Nó tuyên bố rằng nó đã quyết rút lui trước Noël. Trái lại, tôi thì muốn dàn xếp bằng bất cứ giá nào. Nhưng Albert đã dám đương đầu với tôi. Mọi nỗ lực của tôi nhằm lôi kéo nó theo tôi đều thất bại. Tôi đã thử đánh thức những dây thần kinh mà tôi cho là nhạy cảm nhất của nó, nhưng chỉ vô ích. Nó cương quyết nhắc đi nhắc lại với tôi rằng nó sẽ rút lui bất chấp sự phản đối của tôi, rằng nó sẽ hài lòng nếu tôi đồng ý đảm bảo cho nó một cuộc sống khiêm tốn. Tôi còn cố khiến nó hồi tỉnh bằng cách chỉ cho nó thấy rằng quyết định của nó sẽ khiến cuộc hôn nhân mà nó khát khao từ hai năm nay sẽ không thể diễn ra; nó trả lời rằng nó đã tin chắc vào sự đồng tình của vị hôn thê của nó, tiểu thư Arlange.

Cái tên kia vang lên như một tiếng sấm ngang tai ông Thẩm phán điều tra. Ông nhảy dựng lên trên ghế.

Cảm thấy mặt mình đang đỏ sẫm, ông cầm hú họa một tập hồ sơ dày trên bàn, rồi, để che giấu vẻ bối rối của mình, ông giơ tập hồ sơ lên ngang mặt, như thể đang dò tìm một dòng chữ khó đọc.

Ông bắt đầu hiểu mình đã gặp phải một nhiệm vụ khó khăn như thế nào. Ông cảm thấy mình đang luống cuống như một đứa trẻ, rằng mình không còn bình tĩnh và sáng suốt như thông thường. Ông thừa nhận rằng có khả năng mình đã phạm phải những sai lầm lớn nhất. Tại sao mình lại nhận thụ lý vụ án này cơ chứ? Liệu mình có được tự do phán xử không? Mình có phụ thuộc vào ý chí vô tư của mình không?

Ông sẵn lòng hoãn việc nghe tiếp lời khai của ông Bá tước sang lúc khác; nhưng có thể làm thế được không? Lương tâm của người Thẩm phán điều tra đang réo lên rằng đó có thể sẽ là một sai lầm nữa. Thế là ông đành tiếp tục cuộc hỏi cung quá khó nhọc này.

- Thưa ngài, - ông nói - chắc chắn những tình cảm của Tử tước là rất đẹp, nhưng anh ấy có nói với ngài về bà quả phụ Lerouge không?

- Có chứ. - Ông Bá tước đáp lời như thể chợt nhớ đến một chi tiết đã bị bỏ qua - Có chứ, tất nhiên rồi.

- Anh ấy hẳn đã cho ngài thấy rằng lời chứng của người đàn bà đó sẽ khiến chuyện tranh chấp với anh Gerdy là không cần thiết?

- Chính xác, thưa ngài, và gạt bỏ vấn đề trách nhiệm, chuyện đó mới là vấn đề trên hết mà nó dựa vào để khước từ ý muốn của tôi.

- Thưa ngài Bá tước, có lẽ ngài phải kể chính xác cho tôi nghe những gì đã diễn ra giữa ngài và Tử tước. Xin hãy cố nhớ lại và thuật lại cho tôi chính xác những lời nói của anh ấy.

Bá tước Commarin có thể chấp nhận điều đó không mấy khó khăn. Từ lúc nào đó, trong ông đã diễn ra một phản ứng thuận lợi. Bị kích thích bởi cuộc hỏi cung kiên trì, máu ông đã lấy lại dòng chảy bình thường. Đầu óc ông đang được khai thông.

Cảnh tượng của buổi tối hôm trước hiện ra trong trí nhớ ông rõ ràng đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ông như đang nghe thấy trong tai âm điệu lời nói của Albert, như đang nhìn thấy điệu bộ biểu cảm của anh.

Trong khi câu chuyện được kể lại sống động, rõ ràng và chính xác, niềm tin của ông Daburon càng được củng cố vững chắc hơn.

Ông Thẩm phán đang lật ngược câu chuyện để buộc tội Albert bằng chính những lý lẽ mà hôm qua đã khiến ông Bá tước thán phục con mình.

Thật là một trò hề đáng ngạc nhiên! - Ông nghĩ - Lão Tabaret hẳn là có giác quan thứ sáu. Hắn đã biết kết hợp sự khôn khéo quái quỷ với một sự táo tợn không thể hiểu nổi. Sẽ là một phép màu nếu ta có thể lột được mặt nạ của hắn. Hắn đã lường trước và chuẩn bị kỹ càng biết bao! Cảnh diễn với cha mình đã được sắp đặt thật tuyệt vời để tạo ra một bước ngoặt phòng trường hợp bất trắc!

Không có một câu nào không nhấn mạnh một ý đồ, không đề phòng một sự hoài nghi. Thật là một cảnh diễn hoàn hảo! Các chi tiết thật tỉ mỉ và kỹ càng!

Sự việc không thiếu một thứ gì, kể cả cảnh diễn đôi hoành tráng giữa hắn với người yêu. Có thực là hắn đã báo trước với Claire? Có thể lắm!

Ta có thể biết được điều này, nhưng ta cần phải gặp nàng, phải nói chuyện với nàng! Tội nghiệp cô ấy! Sao lại yêu một gã đàn ông như thế này! Giờ đây kế hoạch của hắn đã hiện ra quá rõ.

Cuộc tranh luận với ông Bá tước chính là tấm ván cứu sinh của hắn. Nó chẳng bó buộc hắn điều gì mà chỉ cho phép hắn có thể tranh thủ thời gian.

Có thể hắn sẽ kéo dài được sự việc, sau đó có thể sẽ nghe theo ý kiến của cha. Hắn sẽ được hưởng sự ban ơn và sẽ xin được đền bù cho sự yếu đuối của mình. Và đến khi Noël trở lại cầu xin, thì anh ấy sẽ phải đương đầu với ông Bá tước; lúc đó ông Bá tước sẽ phủ nhận tất cả, sẽ nhã nhặn đuổi khéo, và nếu cần có thể sẽ xua đuổi anh ấy như một kẻ lừa đảo và giả mạo.

Thật kỳ lạ, nhưng có thể giải thích được, khi ông Commarin, càng nói thì càng đi đến chỗ gặp gỡ những ý nghĩ của ông Thẩm phán, có cùng những kết luận gần như giống với ông.

Quả thực, tại sao ông cứ nhấn mạnh đến Claudine? Ông nhớ rất rõ rằng trong lúc giận dữ ông ấy đã nói với con trai, “Người ta không thực hiện những hành động đẹp như vậy chỉ để cho vui”. Thái độ vô tư cao thượng đó có thể hiểu được.

Khi ông Bá tước kết thúc, ông Daburon nói:

- Xin cảm ơn ngài, tôi chưa thể khẳng định điều gì cả, nhưng tòa án có những lý do chắc chắn để tin rằng, trong hoạt cảnh mà ngài vừa thuật lại, Tử tước Albert đã diễn một vai hoàn hảo được học thuộc từ trước.

- Và được học rất kỹ, - ông Bá tước lẩm nhẩm - bởi lẽ nó đã lừa được tôi…!

Ông bị ngắt lời bởi sự xuất hiện của Noël, trên tay là một bọc khăn da thuộc có in chữ cái tên anh.

Anh luật sư nghiêng mình trước vị quý tộc già. Ông quý tộc đứng lên ý tứ lui về cuối phòng.

- Thưa ngài, - Noël khẽ nói với ông Thẩm phán - ngài sẽ tìm thấy tất cả những bức thư trong chiếc cặp này. Tôi xin phép ngài phải về ngay, tình trạng của bà Gerdy đang càng lúc càng nguy kịch.

Noël cất cao giọng một chút khi nói câu cuối; ông Bá tước đã nghe thấy. Ông giật mình và phải cố gắng lắm mới ngăn được câu hỏi sắp bật ra từ đáy lòng.

- Dù sao thì, anh luật sư thân mến, anh nên dành cho tôi một phút. - Ông Thẩm phán nói.

Ông Daburon rời ghế bành, rồi cầm tay Noël dẫn đến trước mặt ông Bá tước.

- Ngài Commarin, - ông trịnh trọng nói - tôi có vinh dự được giới thiệu với ngài anh Noël Gerdy.

Ông Commarin có lẽ đang trông chờ một biến cố nào đó như thế này, bởi lẽ vẻ mặt ông không có gì biến sắc; ông điềm tĩnh đứng yên. Noël thì giống như một người vừa nhận một nhát búa bổ lên đầu; anh loạng choạng và buộc phải vịn tay lên lưng một chiếc ghế.

Rồi, cả hai người, cha và con, đứng đối diện nhau, có vẻ như đang chìm sâu trong suy tưởng. Thực tế, họ đang dò xét nhau với một sự nghi ngờ mờ ám, mỗi người cố nắm bắt một suy nghĩ nào đó của người kia.

Daburon đã hy vọng sẽ đạt được một kết quả tốt hơn từ cuộc gặp này, điều mà ông đã suy tính từ lúc ông Bá tước bước vào văn phòng của mình. Ông đã chờ đợi rằng sự giới thiệu đột ngột này sẽ đem đến một cảnh tượng thống thiết rất sinh động, khiến cho khách hàng của mình không có thời gian suy nghĩ.

Ông Bá tước dang rộng vòng tay, Noël lao đến, và việc nhận cha con, vì sự hoàn hảo của nó, chỉ còn trông đợi vào sự thừa nhận của tòa án.

Vẻ ngây dại của một người, và sự bối rối của người kia, đã làm chưng hửng mọi dự đoán của Daburon. Ông đã tưởng là mình sẽ phải có một sự can thiệp cấp bách hơn.

- Thưa ngài Bá tước, - ông nói bằng giọng trách móc - giá mà ngài đã thừa nhận, chỉ cách đây ít phút, rằng anh Gerdy là con trai hợp pháp của ngài.

Ông Commarin không đáp; nhìn sự bất động của ông, có thể ngờ rằng ông đã hiểu câu nói của Daburon. Chính Noël là người đã thu hết can đảm để lên tiếng trước.

- Thưa ngài, - anh lắp bắp - tôi không oán giận ngài đâu…

- Con có thể gọi “cha ơi”. - Ông già kiêu kỳ ngắt lời bằng giọng không có gì cảm động, cũng không dịu dàng.

Sau đó ông quay sang ông Thẩm phán và hỏi:

- Ngài có còn cần gì ở tôi nữa không?

- Ngài còn phải nghe lại lời khai của ngài và ký tên, - ông Daburon đáp - nếu ngài thấy lời khai đã được ghi đúng. Nào, Constant. - Ông nói thêm.

Viên lục sự lưng dài xoay nửa vòng chiếc ghế rồi bắt đầu đọc. Anh có kiểu cách rất đặc biệt của riêng mình khi lắp bắp những điều anh đã bôi ra trên giấy. Anh đọc rất nhanh, liền tù tì, không để ý đến dấu chấm, dấu phẩy, đến câu hỏi cũng như câu trả lời; anh đọc liền một mạch.

Khi hết hơi, anh ngừng lại để thở và lại tiếp tục đọc nhanh hơn. Anh vô tình khiến người ta nghĩ đến những người đang ngụp lặn thỉnh thoảng ngoi đầu lên để thở rồi lại mất hút dưới nước. Noël là người duy nhất lắng nghe, điều mà một đôi tai chưa được rèn luyện chắc chắn sẽ không hiểu được. Anh nghe được những điều mà anh cần phải biết.

Cuối cùng, Constant trịnh trọng đọc những lời công thức, “để làm tin”… khi kết thúc mọi biên bản của tòa án nước Pháp.

Anh đưa bút cho ông Bá tước, ông ký ngay không do dự và không một chút phản đối.

Khi đó ông quý tộc già mới quay sang Noël nói:

- Ta không còn vững chân nữa; thế nên, con trai ạ, - ông nhấn mạnh hai chữ “con trai” - con sẽ phải đỡ ta ra xe.

Chàng luật sư trẻ sốt sắng bước đến. Vẻ mặt anh rạng rỡ khi anh đỡ tay ông Commarin.

Khi họ ra khỏi phòng, Daburon không cưỡng lại được một cử chỉ tò mò. Ông chạy ra mở hé cửa, rồi, ông ngó cổ ra ngoài để quan sát hành lang.

Ông Bá tước và Noël vẫn chưa đi đến cuối hành lang, họ đang chậm chạp bước.

Ông Bá tước có vẻ đang lê bước nặng nề và khó nhọc; còn chàng luật sư thì bước những bước ngắn, đầu hơi nghiêng về phía ông già, và mọi cử động của anh tỏ ra một sự ân cần sốt sắng nhất.

Ông Thẩm phán đứng nhìn cho đến khi hai người khuất sau khúc ngoặt của hành lang. Sau đó ông vừa quay về chỗ ngồi vừa cất một tiếng thở dài.

Ít nhất, - ông nghĩ - ta cũng đã góp phần giúp một người được hạnh phúc. Ngày hôm nay sẽ không hoàn toàn là một ngày xấu.

Nhưng ông không có thời gian để dành cho suy nghĩ; thời gian đang bay như tên bắn. Ông đang muốn hỏi cung Albert càng nhanh càng tốt, thế mà ông vẫn còn phải tiếp nhận lời khai của mấy gia nhân nhà Commarin, và phải nghe bản báo cáo của viên thanh tra cảnh sát được trao nhiệm vụ bắt giữ.

Các gia nhân đã có giấy gọi, những người mà từ lâu đã đợi đến lượt mình, nhanh chóng được lần lượt đưa vào văn phòng Thẩm phán. Họ chẳng làm rõ thêm được điều gì, tuy nhiên tất cả các lời chứng đều giống như chất thêm những lời buộc tội. Có thể dễ dàng thấy là tất cả đều tin rằng cậu chủ của mình có tội.

Thái độ của Albert từ đầu cái tuần định mệnh này, những câu nói ngắn gọn nhất, những cử chỉ nhỏ nhặt nhất của anh, tất cả đều được báo cáo, bình luận và giải thích.

Người nào sống giữa đám ba mươi gia nhân thì sẽ chẳng khác gì một con côn trùng sống trong chiếc lọ thủy tinh dưới chiếc kính lúp của một nhà tự nhiên học. Không một hành vi nào của anh ta thoát được khỏi sự giám sát; anh ta hầu như không thể giữ kín được một điều bí mật, và hơn nữa, nếu như họ không đoán được bí mật đó là gì, thì ít nhất họ cũng sẽ biết khi nào anh có bí mật. Từ sáng đến tối, anh là tâm điểm mà ba mươi đôi mắt dò xét những biến đổi khó nhận ra nhất trên bộ mặt anh.

Thế là ông Thẩm phán có được vô vàn các chi tiết phù phiếm mà thoạt nhìn thì chẳng có ý nghĩa gì, nhưng khi ra tòa thì một chi tiết nhỏ nhất cũng đột nhiên trở thành vấn đề sống còn.

Kết hợp các lời khai, ráp nối và sắp xếp chúng lại, ông Daburon có thể theo dõi được từng giờ của bị can, bắt đầu từ sáng Chủ nhật.

Vậy là vào sáng Chủ nhật, ngay sau khi anh Noël ra về, chàng Tử tước đã lắc chuông gọi gia nhân, ra lệnh cho họ rằng nếu có ai đến thăm thì họ sẽ phải trả lời là anh vừa đi ra đồng.

Từ lúc đó, tất cả mọi người trong nhà đã nhận ra rằng anh đang “khó ở”, rất bực bội hoặc rất khó chịu.

Cả ngày anh đã không ra khỏi thư phòng, đến mức người ta đã phải phục vụ cơm tối cho anh tại đó. Trong bữa ăn anh chỉ dùng một bát canh và một lát cá bơn mỏng với cốc vang trắng.

Khi ăn, anh nói với ông đầu bếp Courtois, “Lần sau ông hãy dặn cho thêm gia vị vào món nước xốt này nhé.” Sau đó anh nói thêm, như với chính mình, “Mà thôi! Để làm gì nữa!” Buổi tối, anh cho tất cả những người phục vụ nghỉ và nói, “Các người đi chơi đi, đi đi!” Anh dứt khoát cấm không cho ai vào phòng mình, trừ khi anh lắc chuông.

Sáng thứ Hai, đến trưa anh mới dậy, trong khi mọi ngày anh dậy rất sớm. Anh kêu đau đầu dữ dội và buồn nôn. Dù vậy, anh vẫn uống một tách trà. Anh yêu cầu chuẩn bị một cỗ xe ngựa bốn bánh; nhưng gần như ngay lập tức lại bảo thôi. Lubin, anh chàng hầu phòng, đã nghe thấy anh nói, “Lưỡng lự quá”, và mấy phút sau anh lại nói, “Cần phải kết thúc.” Một lát sau anh bắt đầu viết.

Lubin được trao nhiệm vụ chuyển một bức thư cho tiểu thư Claire d’Arlange, với mệnh lệnh là chỉ được đưa cho nàng hoặc cho cô Schmidt, gia sư của nàng.

Một bức thư thứ hai, cùng với hai tờ 1.000 franc, được trao cho anh hầu Joseph để mang đến hội quán. Joseph không còn nhớ tên người nhận; đó không phải là một người có phẩm tước.

Bữa tối, Albert chỉ ăn một bát xúp rồi giam mình trong phòng.

Sáng thứ Ba anh dậy muộn. Anh đi đi lại lại trong dinh thự như một bóng ma, hoặc như một người đang sốt ruột chờ đợi một điều gì đó mà không thấy nó đến.

Khi đi dạo ngoài vườn, một người làm vườn hỏi ý kiến anh về một bản thiết kế bồn cỏ. Anh đáp, “Hãy hỏi ngài Bá tước khi ngài trở về.” Rồi anh ăn bữa trưa giống như hôm trước.

Đến khoảng một giờ, anh xuống chuồng ngựa, và với vẻ buồn rầu, anh vuốt ve con Norma, con ngựa cái ưa thích của anh. Khi vỗ về nó, anh nói, “Tội nghiệp con vật! Tội nghiệp mụ già của ta!”

Đến ba giờ, một người đưa tin xuất hiện với một bức thư. Tử tước nhận thư và vội vàng mở ra ngay. Lúc đó anh đang đứng trong sân.

Có hai gia nhân theo hầu đã nghe rõ anh nói, “Người ấy không thể cưỡng lại ta!” Anh vào nhà và quẳng bức thư vào lò sưởi ở tiền sảnh.

Đến sáu giờ, khi anh ngồi vào bàn ăn, có hai người bạn, Courtivois và Hầu tước Chouzé, đã trái lệnh và đến tận nơi gặp anh. Anh tỏ ra bực mình hết sức.

Hai anh này dứt khoát muốn lôi anh đến một cuộc vui; anh từ chối, khẳng định rằng mình có một cuộc hẹn vì một vụ làm ăn rất quan trọng.

Anh đã ăn bữa tối nhiều hơn một chút so với những ngày trước. Thậm chí anh còn yêu cầu người trông coi hầm rượu mang cho mình một chai vang château-laffitte và uống cạn cả chai.

Khi dùng cà phê, anh hút xì gà ngay trong phòng ăn, là điều trái với quy định của dinh thự.

Đến bảy giờ rưỡi, theo như Joseph và hai gia nhân theo hầu, nhưng theo như người gác cổng và anh Lubin thì là đến mãi tám giờ, Tử tước đi bộ ra ngoài với một chiếc ô.

Anh quay về nhà lúc hai giờ sáng, và cho anh hầu phòng vẫn đang đợi ở đó lui ra.

Sáng thứ Tư, khi bước vào phòng chàng Tử tước, anh hầu phòng kinh ngạc vì tình trạng áo quần của cậu chủ. Chúng ướt sũng và dính đầy đất, chiếc quần thì bị rách. Anh đánh bạo nhận xét; Albert đáp với giọng tức giận, “Quẳng cái mớ quần áo thải này vào xó nhà để đợi đem cho đi.” Hôm đó anh tỏ ra tươi tỉnh hơn. Anh ăn một bữa sáng khá ngon, và ông đầu bếp thấy anh có vẻ vui. Anh ở trong thư phòng cả buổi chiều và đã đốt mấy tập giấy tờ.

Thứ Năm, anh lại cảm thấy vô cùng đau khổ. Suýt nữa thì anh đã không thể ra ga đón ngài Bá tước. Đến tối, sau cuộc cãi vã với cha, anh lên phòng mình trong một tâm trạng thảm thương. Anh chàng Lubin muốn đi mời bác sĩ, nhưng anh ngăn lại, thậm chí còn cấm không được nói với ai về sự khó ở của mình.

Đó là bản tóm tắt chính xác của hai mươi trang giấy khổ lớn mà anh lục sự lưng dài đã cặm cụi viết ra mà không một lần ngoái đầu nhìn các nhân chứng lần lượt xuất hiện trong bộ chế phục đại lễ.

Những lời chứng này, ông Daburon đã lấy được trong vòng chưa đầy hai giờ đồng hồ.

Mặc dù ý thức được về tầm quan trọng trong lời khai của mình, nhưng những người hầu này ăn nói rất hoạt bát ba hoa. Một khi họ đã cất lời thì không thể ngăn họ lại được. Thế nhưng, tất cả những gì họ nói đều toát ra một điều rõ ràng rằng Albert là một người chủ tốt, dễ phục vụ, nhân từ và lễ độ với mọi người. Có một điều lạ là trong số họ, có ba người có vẻ không thích thú trước nỗi đau giáng xuống gia đình anh. Có hai người buồn rầu thực sự, và anh Lubin, mặc dù là người có lòng nhân từ đặc biệt, không thuộc hai người này.

Bây giờ đến lượt ông thanh tra cảnh sát. Ông báo cáo ngắn gọn việc bắt giữ Albert đã được lão Tabaret kể rồi. Ông không quên lưu ý câu nói “Ta tiêu đời rồi!” thốt ra từ miệng Albert; theo ý ông thì đó là một lời tự thú. Sau đó ông nộp tất cả những đồ vật lấy được ở nhà Tử tước Commarin.

Ông Thẩm phán chăm chú xem xét tất cả các đồ vật, so sánh kỹ với các tang vật đem từ La Jonchère về. Ông tỏ ra hài lòng hơn cả lúc ban ngày.

Tự tay ông đặt lên bàn giấy tất cả các vật chứng đó, và để che giấu chúng, ông quẳng lên trên ba, bốn tờ giấy to vẫn được dùng để làm bìa bọc hồ sơ.

Trời sắp tối và ông Daburon thấy đã đến lúc phải hỏi cung bi can trước khi đêm xuống. Điều do dự gì vẫn còn ngăn ông lại? Ông đang có trong tay những bằng chứng đủ để đưa đến mười người ra Tòa đại hình, rồi sau đó là ra quảng trường Roquette[*]. Ông sắp chiến đấu bằng những vũ khí vượt trội đến mức sẽ không để cho Albert điên rồ có thể nghĩ đến việc phòng bị. Thế nhưng, đến giờ phút long trọng này, ông lại cảm thấy yếu mềm. Ông đã nhụt chí ư? Sự quyết đoán của ông đã không còn nữa chăng?

[*]Nơi hành quyết tử tù bằng máy chém ở Pháp trước đây (ND).

Ông chợt nhớ ra là từ hôm qua đến giờ mình vẫn chưa ăn uống gì; ông liền sai người đi kiếm một chai rượu vang và một ít bánh bích quy. Một Thẩm phán điều tra không cần khỏe, mà cần dũng cảm. Vừa uống rượu, ông vừa sắp xếp các ý nghĩ trong đầu thành một câu nói kỳ quặc, “Vậy là ta sẽ phải ra đối diện với Tử tước Commarin.”

Vào lúc khác, chắc là ông sẽ cười nhạo cái suy nghĩ khác thường đó; nhưng lúc này, ông muốn xin ý kiến của Thượng đế.

Thôi kệ, - ông tự nhủ - đó sẽ là một hình phạt dành cho ta.

Rồi không cần mất thời gian suy nghĩ, ông ra lệnh đưa Tử tước Albert đến phòng hỏi cung.