Chương 12
Với Albert mà nói, thì dinh thự Commarin và “phòng biệt giam” của nhà tù cũng chẳng có gì khác nhau.
Bị kéo ra khỏi những suy nghĩ đau buồn bởi chất giọng thô bạo của viên thanh tra cảnh sát khi ông này nói, “Nhân danh pháp luật, tôi bắt anh!”, tinh thần của anh phải mất một thời gian dài hoang mang mới lấy lại được sự cân bằng.
Tất cả những gì diễn ra sau khi anh bị bắt có vẻ như đang trôi nổi trong đám sương mù dày đặc, giống như những cảnh trong mơ diễn trên sân khấu đằng sau một tấm màn the bốn lớp.
Người ta hỏi cung anh, anh đáp mà không nghe thấy mình nói gì. Sau đó có hai viên cảnh sát xốc nách dẫn anh xuống cầu thang lớn của dinh thự, vì một mình anh chắc là không thể bước nổi. Đôi chân mềm như bún đang khuỵu xuống không giữ được anh đứng vững. Chỉ có một điều duy nhất mà anh nghe rõ, đó là tiếng một người hầu thông báo rằng ngài Bá tước đã lên cơn. Nhưng cả chuyện đó anh cũng đã quên mất.
Người ta lôi anh lên một chiếc xe ngựa đậu trong sân; nó có vẻ ngượng ngùng vì phải có mặt ở một nơi như thế này, rồi người ta đặt anh ngồi xuống một chiếc ghế dài ở phía sau. Hai viên cảnh sát ngồi trên ghế trước, trong khi người thứ ba ngồi trên ghế bên cạnh người đánh xe. Suốt quãng đường, anh vẫn không hình dung được chính xác tình cảnh của mình. Anh ngồi ủ rũ trên chiếc xe bẩn thỉu nhớp nhúa này như một vật vô tri. Cơ thể anh, lắc lư theo những cú xóc hầu như không được giảm bớt bởi những chiếc lò xo cũ mòn của chiếc xe, liên tục đung đưa từ bên này sang bên kia, đầu anh lúc lắc trên vai như thể cổ anh đã bị bẻ gãy. Khi đó, anh đang nghĩ đến bà quả phụ Lerouge. Anh đang nhìn thấy bà như lần anh theo cha đến làng La Jonchère. Khi đó là mùa xuân, những cây đào gai nở hoa bên đường tỏa hương thơm ngát. Người phụ nữ già, đầu trùm khăn trắng, đang đứng trước cổng vườn; bà có vẻ van nài khi nói. Ông Bá tước lắng nghe với đôi mắt nghiêm khắc, sau đó mở ví lấy tiền đưa cho bà.
Người ta lôi anh xuống xe ngựa cũng giống như khi đẩy anh lên.
Trong khi làm thủ tục nhận tù trong căn phòng lục sự tăm tối và hôi hám, vừa trả lời như cái máy, anh vừa vui sướng xúc động thả mình theo những kỷ niệm về Claire. Đó là thời kỳ đầu trong mối tình của họ, khi anh đang không biết liệu mình có được nàng yêu lại hay không. Hai người gặp nhau tại nhà tiểu thư Goëllo. Bà cô này có một phòng tiếp khách sơn màu hoa thủy tiên ở bên bờ tả sông Seine, một nơi có lối bài trí kỳ quặc. Trên tất cả những món đồ nội thất, thậm chí cả ở trên bệ lò sưởi, có mười hai hoặc mười lăm con chó nhồi bông thuộc đủ các giống được phô bày ở các tư thế khác nhau. Những con chó này, cùng nhau hoặc lần lượt, đã giúp bà vượt qua được những đồng cỏ khô cằn của cuộc sống độc thân. Bà thích kể chuyện về những con vật chung thủy này, những con vật có tình cảm và không bao giờ phản bội. Có những con có vẻ kỳ cục và ghê sợ. Một con bị căng phồng quá mức, có vẻ như sắp nổ tung. Biết bao lần anh đã cùng Claire cười chảy nước mắt vì chúng.
Lúc này người ta bắt đầu lục soát người anh.
Trước sự nhục mạ cùng cực này, khi những bàn tay vô sỉ sờ nắn khắp người mình, anh mới hơi hồi tỉnh và cơn giận trong người bắt đầu trỗi dậy.
Nhưng mọi thủ tục đã xong, người ta dẫn anh đi dọc những hành lang tăm tối với nền gạch trơn nhầy nhụa. Người ta mở một cánh cửa và đẩy anh vào một căn buồng như là xà lim. Sau lưng, anh nghe thấy tiếng sắt va chạm vào nhau và tiếng khóa cửa lách cách.
Anh đã trở thành tù nhân, và, theo những sắc lệnh đặc biệt, thì là tù biệt giam.
Ngay lập tức anh có một cảm giác thoải mái. Anh đã được ở một mình. Không còn phải nghe những tiếng xì xào, những giọng the thé, những câu hỏi bám riết. Một sự im lặng sâu lắng đến mức cho anh cảm giác về một nỗi hư vô bao quanh. Anh cảm thấy mình như đã vĩnh viễn tách rời xã hội, và điều đó khiến anh thấy vui. Anh tưởng như mình đang phải chịu thử thách sống dưới mồ. Cơ thể anh, cũng như linh hồn, bị đè nặng dưới sự mệt mỏi. Anh đang tìm chỗ ngồi thì nhìn thấy một chiếc ghế nằm nhỏ, giống như một chiếc giường ở bên phải, đối diện với cửa sổ song sắt có mái che. Chiếc giường này khiến anh vui sướng như người sắp chết đuối vớ được cọc. Anh vội bước đến khoan khoái nằm xuống. Tuy nhiên, anh cảm thấy ớn lạnh, vậy nên, bất chấp sự thô ráp của tấm chăn len, anh vẫn cuộn nó kín người và ngủ một giấc say như chết.
Bên ngoài hành lang, hai cảnh sát, một còn trẻ, một tóc đã điểm bạc, thỉnh thoảng lại thay nhau ghé mắt ghé tai vào cái lỗ nhỏ trổ trên cánh cửa.
Họ theo dõi mọi cử động của người tù, gắng hết sức để nhìn và nghe.
- Lạy Chúa! - Chàng cảnh sát trẻ thì thào - Người này là kẻ nhu nhược chăng? Khi đã suy sụp thì người ta thường tỏ ra lương thiện. Thế mà hắn lại không hề nghĩ đến chuyện chải đầu, đến chuyện vệ sinh buổi sáng. Có phải không, ông Balan?
- Cũng còn tùy, - ông cảnh sát già đáp - phải nhìn tận mắt đã. Anh Lecoq đã nói với tôi rằng hắn là một kẻ tinh ranh đáng gờm.
- Nhìn kìa, hắn đang dọn giường để đi ngủ! Liệu hắn có muốn ngủ không? Chuyện này sẽ hay đây. Đây là lần đầu tôi thấy một cảnh thế này!
- Đó là vì cậu không quen thuộc với đám vô lại, anh bạn ạ. Tất cả những kẻ vô lại giàu sang, và ta đã tóm được không chỉ một thằng đâu, đều hành xử như này. Lúc bị bắt thì thôi rồi, xin chào, chẳng còn muốn nhìn ai nữa, tim chúng quay cuồng, đến hôm sau mới hồi tỉnh.
- Hắn đang ngủ kìa! Thật kỳ quặc!
- Nên biết rằng, anh bạn ạ, - ông cảnh sát già nói thêm với vẻ trịnh trọng - trái lại, không có gì tự nhiên hết. Ta tin chắc rằng từ lúc bị đòn thì cậu bé kia đã không còn sống nữa; bụng dạ hắn đang sôi lên. Bây giờ hắn biết rằng vụ án của mình đã được tính toán rồi, và thế là hắn bình tâm.
- Ông Balan này buồn cười quá! Ông gọi thế này là bình tâm ư?
- Tất nhiên! Rồi cậu sẽ thấy rằng không có nhục hình nào đáng sợ hơn sự lo âu; mọi thứ đều tốt hơn điều đó. Cậu chỉ cần có 10.000 livre lợi tức, ta sẽ bày cho cậu biết dùng nó như thế nào. Ta sẽ bảo, “Hãy chạy đến Hombourg rồi đánh liều cho một cú đỏ đen tất cả món tiền đó đi.”, và sau đó cậu sẽ kể cho ta nghe cậu đã cảm thấy thế nào trong lúc bàn đỏ đen quay vòng. Cậu sẽ thấy nó giống như thể người ta đang giày vò bộ não mình, như thể người ta đang rót chì nóng chảy vào trong xương thay cho tủy sống. Đó là một cảm giác mạnh đến nỗi, cho dù cậu thua hết, cậu cũng vẫn sẽ hài lòng, vẫn thấy nhẹ người, vẫn hít thở. Cậu sẽ tự nhủ, “Ồ! Thế là xong! Ta đã sạt nghiệp, đã mất sạch, nhưng thế là xong.”
- Đúng, thưa ông Balan, hẳn là ông đã trải qua chuyện đó rồi.
- Than ôi! - Ông cảnh sát già thở dài - Chính nhờ có mối tình của ta dành cho nàng đầm bích, một mối tình đau khổ, mà cậu mới có được vinh dự cùng ta đứng gác ô cửa này. Nhưng mà anh bạn của chúng ta kia đang có vài giờ để ngủ; đừng rời mắt khỏi hắn nhé, ta ra sân hút một điếu thuốc đây.
Albert ngủ bốn giờ đồng hồ. Khi thức dậy, anh cảm thấy đầu óc mình thoải mái hơn lúc nói chuyện với Noël. Đối với anh, đây là một thời điểm đáng sợ, bởi nó là lần đầu tiên anh hình dung được chính xác hoàn cảnh của mình.
- Bây giờ, - anh thì thầm - là lúc ta không được gục ngã.
Anh rất khát khao được gặp ai đó, được nói, được hỏi cung, được giải trình. Anh muốn gọi ai đó.
Nhưng để làm gì! - Anh tự nhủ - Chắc chắn người ta sẽ đến thôi mà.
Anh muốn xem giờ và nhận ra là người ta đã tước đồng hồ của mình. Chi tiết nhỏ này cực kỳ nhạy cảm đối với anh. Người ta đã coi anh như một kẻ gian ác nhất. Anh lục tìm các túi quần áo, tất cả chúng đã được vét sạch. Nghĩ đến tình trạng hiện tại, anh liền gieo mình xuống giường và cố gắng sửa sang lại trang phục. Anh chỉnh lại áo quần, giũ bụi, dựng lại cổ áo và loay hoay thắt lại cà vạt. Rồi anh đổ nước lên góc chiếc khăn tay, lau mặt và thấm nước lên hai mí mắt đang đau. Cuối cùng, anh cố gắng vuốt thẳng bộ râu và mái tóc. Anh không hề nghi ngờ rằng đang có bốn con mắt mèo theo dõi mình.
- Tốt! - Anh chàng cảnh sát học việc thì thầm - Nhìn con gà trống của chúng ta đang vênh mào chải lông kìa!
- Ta đã nói rồi, - ông Balan bác lời - hắn chỉ bị tê liệt thôi… Im nào! Hắn đang nói, hình như thế.
Nhưng họ không thấy một cử chỉ lộn xộn nào, cũng như không nghe được một câu nói rời rạc nào mà thông thường hầu như những kẻ yếu đuối sợ hãi luôn thốt ra, hay những kẻ bất cẩn thường mắc phải vì họ tin vào sự kín đáo của những “phòng biệt giam”. Chỉ có một lần, hai chữ “danh dự” phát ra từ miệng Albert lọt được đến tai hai kẻ mật thám.
- Cái bọn chó ngao quý tộc này, - ông Balan làu bàu - lúc nào cũng chỉ có hai chữ này ở cửa miệng. Điều khiến chúng lo lắng nhất là ý kiến của bạn bè và hàng trăm nghìn kẻ xa lạ đọc báo Tòa án. Chỉ về sau chúng mới nghĩ đến cái đầu của mình.
Khi những hiến binh đến tìm Albert để dẫn anh đi hỏi cung, họ thấy anh đang ngồi trên mép giường, hai chân tì lên thanh sắt, khuỷu tay chống lên gối và hai tay ôm lấy đầu.
Anh đứng lên ngay khi họ bước vào và bước mấy bước về phía họ.
Nhưng họng anh khô rát đến mức anh hiểu là mình không thể cất lên lời.
Anh xin họ một lát, rồi bước tới chỗ chiếc bàn, rót nước và uống ừng ực hai cốc lớn.
- Tôi đã sẵn sàng. - Anh nói ngay sau đó.
Rồi bằng những bước rắn rỏi, anh đi theo những hiến binh qua lối đi dài dẫn đến tòa án.
Khi ấy, ông Daburon đang như trong cơn nhục hình. Ông giận dữ bước từng bước dài trong phòng và chờ đợi bị can. Thêm một lần nữa, lần thứ hai mươi trong sáng nay, ông cảm thấy hối tiếc vì đã nhận vụ án này.
Thật chết tiệt cái thứ danh dự phi lý mà ta đang phải phục tùng! - Ông nghĩ - Có cố thử trấn an mình bằng những lời ngụy biện cũng hoài công vô ích, ta đã sai lầm khi không chịu xin rút. Chẳng có gì trên đời có thể thay đổi được tình cảnh của ta khi phải đối mặt với người đàn ông trẻ tuổi này. Ta đang căm hận anh ta. Ta là quan tòa, thế mà sự thực là ta đang rất muốn giết chết anh ta. Ta đã chĩa súng lục vào anh ta rồi, thế mà tại sao ta không bóp cò? Làm sao mà ta biết được? Sức mạnh nào đã giữ ngón tay ta lại, khi mà chỉ cần một cái ấn nhẹ là viên đạn sẽ bay ra? Ta không thể giải thích được. Nếu ý đồ cũng bị trừng phạt như hành động thì chắc là ta sẽ bị cắt cổ. Trong những điều kiện thế này mà ta dám hỏi cung anh ta…!
Khi đi qua trước cánh cửa, ông nghe thấy tiếng chân bước nặng nề của những hiến binh.
- Anh ta đến rồi. - Ông nói to.
Và ông vội vã trở về chỗ ngồi sau bàn giấy, nấp dưới bóng các hộp giấy bìa như thể đang muốn trốn.
Nếu tinh mắt thì anh lục sự đã được chứng kiến cảnh tượng đặc biệt khi một quan tòa đang bối rối hơn cả bị can. Nhưng anh lại đang mờ mắt, và lúc này anh chỉ nghĩ đến một lỗi viết sai đến mười lăm phần trăm trong một phép tính đang tìm không ra.
Albert ngẩng cao đầu bước vào văn phòng của ông Thẩm phán, vẻ mặt anh lộ rõ những dấu vết của sự mệt mỏi ghê gớm và của việc thức đêm kéo dài; mặt anh nhợt nhạt, nhưng hai mắt vẫn sáng long lanh.
Mấy câu hỏi thông thường mở đầu cuộc hỏi cung đã giúp cho ông Thẩm phán có thời gian bình tĩnh lại.
Rất may là lúc sáng ông đã có một tiếng để chuẩn bị kế hoạch; giờ ông chỉ việc thực hiện theo nó.
- Anh biết, thưa anh, - ông bắt đầu bằng giọng lịch sự nhất - rằng anh không hề có quyền đối với cái họ mà anh đang mang chứ?
- Tôi biết, thưa ông, - Albert đáp - rằng tôi là đứa con hoang của ngài Commarin. Tôi còn biết rằng nếu muốn thì cha tôi cũng không thể nhận tôi, bởi tôi đã được sinh ra khi ông đang bị ràng buộc trong một cuộc hôn nhân.
- Cảm tưởng của anh thế nào khi biết được điều đó?
- Thưa ngài, ngài hẳn sẽ cho là tôi nói dối nếu tôi nói rằng tôi không cảm thấy buồn ghê gớm. Khi một người ở địa vị cao như tôi, thì sự sa ngã sẽ rất khủng khiếp và đau đớn. Tuy nhiên, tôi không hề có lúc nào nghĩ đến việc tranh chấp quyền lợi với anh Noël Gerdy. Tôi đã, và bây giờ vẫn thế, quyết định ra đi. Tôi đã tuyên bố như thế với ngài Commarin rồi.
Ông Daburon đã chờ đợi câu trả lời này và nó chỉ càng củng cố thêm cho những nghi ngờ của ông. Chẳng phải là nó đã nằm trong kế hoạch mà ông đã dự đoán sao? Nhiệm vụ của ông bây giờ là tìm một điểm yếu để phá vỡ kế hoạch bào chữa mà bị can đang muốn cuộn mình trong đó như một tổ kén.
- Anh không có bất cứ cơ hội nào, - ông Thẩm phán nói tiếp - để chống lại anh Gerdy. Anh có ngài Bá tước và mẹ anh làm chứng, nhưng anh Gerdy lại có một lời chứng khiến anh phải chịu thua, đó là lời chứng của bà quả phụ Lerouge.
- Tôi không bao giờ nghi ngờ điều đó, thưa ông.
- Được rồi! - Ông Thẩm phán nói tiếp và tìm cách che đậy ánh mắt của mình - Tòa án giả định rằng, để thủ tiêu bằng chứng duy nhất ấy, anh đã sát hại bà quả phụ Lerouge.
Lời buộc tội khủng khiếp này, được nhấn mạnh một cách ghê sợ, đã không khiến thái độ của Albert biến đổi gì. Anh vẫn ngồi vững vàng, không hề có chút giả tạo; trán anh không một nếp nhăn.
- Trước Chúa, - anh đáp - và trước tất cả những gì thiêng liêng nhất trên đời, tôi xin thề với ông, thưa ông, rằng tôi vô tội! Giờ tôi đang là tù nhân trong phòng biệt giam, không chút liên lạc với bên ngoài, vậy nên tôi bị bất lực tuyệt đối; tôi chỉ biết hy vọng vào sự ngay thẳng của ông để chứng minh cho sự vô tội của tôi.
Thật là một kẻ khéo đóng kịch! - Ông Thẩm phán nghĩ - Có thể có một tội ác nào lớn hơn thế này không!
Ông lướt qua tập hồ sơ, đọc lại mấy đoạn lời khai trước, gập góc một số trang có những dấu hiệu quan trọng đối với ông. Rồi đột nhiên ông hỏi tiếp:
- Khi bị bắt, anh đã kêu lên, “Ta tiêu đời rồi!” Anh định nói gì khi đó?
- Thưa ông, - Albert đáp - quả thực tôi nhớ là mình đã nói câu đó. Khi mà tôi biết mình bị cáo buộc tội gì, cùng lúc với việc rụng rời, tinh thần tôi như nhìn thấy một tương lai lóe sáng. Chưa đầy một giây tôi đã nhìn thoáng thấy tất cả những điều ghê sợ trong tình cảnh của mình; tôi hiểu mức độ nghiêm trọng của lời cáo buộc, hiểu rằng nó là sự thực và những khó khăn mà tôi sẽ gặp phải khi muốn bào chữa cho mình. Có một tiếng nói vang lên bên tai tôi, “Ai được lợi trong cái chết của Claudine?” Và niềm tin vào mối nguy hiểm cận kề đã khiến tôi thốt ra câu nói mà ông vừa nhắc đến.
Lời giải thích tỏ ra hơn cả mức có thể chấp nhận và thậm chí có vẻ thành thực. Nó còn đón trước một câu hỏi tự nhiên đến mức đã được đúc kết thành công thức, “Hãy tìm xem tội ác làm lợi cho ai.” Lão Tabaret đã dự kiến là bị can sẽ không bị bất ngờ.
Ông Daburon thán phục sự nhanh trí của Albert cũng như trí tưởng tượng đồi bại này.
- Quả thực, - ông nói tiếp - anh là người được lợi rõ ràng nhất từ cái chết của bà ấy. Điều đó càng đúng khi chúng tôi tin chắc, xin anh hiểu cho, rằng tội ác này không phải vì động cơ ăn cắp. Người ta đã tìm thấy những thứ bị vứt dưới sông Seine. Chúng tôi cũng biết rằng tất cả các giấy tờ của nạn nhân đã bị đốt. Liệu những giấy tờ đó có làm phương hại đến ai khác ngoài anh không? Nếu biết, xin anh hãy nói cho chúng tôi.
- Tôi có thể trả lời ông thế nào đây, thưa ông? Tôi không biết gì cả.
- Anh có đến chỗ người đàn bà này thường xuyên không?
- Ba hoặc bốn lần, cùng với cha tôi.
- Một người đánh xe của nhà anh nói rằng đã đưa anh đến đó ít nhất mười lần.
- Người đó đã nhầm. Hơn nữa, số lần đến thăm thì có quan trọng gì chứ?
- Anh biết cách bố trí của căn nhà chứ? Anh nhớ nó không?
- Rất nhớ, thưa ông, nó có hai phòng. Bà Claudine ngủ ở phòng trong.
- Vậy anh không phải là khách lạ với bà quả phụ Lerouge. Nếu một buổi tối anh đến gõ cửa thì anh có nghĩ là bà ấy sẽ mở không?
- Tất nhiên, thưa ông, và với sự sốt sắng nữa là khác.
- Mấy ngày nay anh bị ốm à?
- Thưa ông, vâng, ít nhất là rất khó ở. Cơ thể tôi suy sụp dưới sức nặng của một thử thách quá lớn đối với sức lực của tôi. Tuy nhiên, tôi đã không để mất lòng can đảm.
- Tại sao anh ngăn không cho anh hầu phòng Lubin đi gọi bác sĩ?
- Ồ, thưa ông, bác sĩ thì làm được gì cho nỗi đau của tôi? Ông ta có trả lại được cho tôi tư cách người con trai hợp pháp của ngài Commarin không?
- Người ta đã nghe thấy anh nói những lời kỳ lạ. Có vẻ như anh không còn quan tâm gì đến nhà cửa. Anh đã đốt giấy tờ, thư tín.
- Tôi đã quyết định sẽ rời dinh thự, thưa ông, quyết định này của tôi sẽ giải thích cho ông tất cả.
Tất cả các câu hỏi của ông Thẩm phán, Albert đều nhanh chóng trả lời không chút lúng túng và bằng giọng tự tin. Giọng anh, với một âm sắc dễ nghe, không hề run rẩy, không có chút xúc động nào khiến nó bị tắc nghẹn; nó luôn trong sáng và rung cảm.
Ông Daburon tưởng rằng mình sẽ phải thận trọng tạm dừng cuộc hỏi cung. Với một đối thủ mạnh như thế này, hiển nhiên là ông có thể đi sai đường. Tiến hành theo chi tiết của kế hoạch sẽ là một sự điên rồ, như vậy sẽ không thể khiến hắn sợ hãi cũng như không khiến hắn lộ tẩy được. Cần phải ra những cú đòn mạnh hơn.
- Thưa anh, - ông Thẩm phán đột ngột nói - xin hãy cho biết chính xác anh đã làm gì vào buổi tối thứ Ba vừa rồi, từ sáu giờ tối đến nửa đêm?
Lần đầu tiên, Albert tỏ ra bối rối. Ánh mắt anh, từ đầu đến giờ vẫn chiếu thẳng vào ông Thẩm phán, lúc này có vẻ lưỡng lự.
- Buổi tối thứ Ba… - Anh lúng búng nhắc lại câu hỏi, như để tranh thủ thời gian.
Ta bắt thóp được hắn rồi! - Ông Daburon giật mình vui sướng nghĩ. Và ông cất cao giọng nhắc lại:
- Phải, từ sáu giờ đến nửa đêm?
- Thưa ông, - Albert đáp - phải thú nhận là tôi không thể làm vừa lòng ông; tôi không chắc chắn vào trí nhớ của mình nữa…
- Ồ! Anh đừng nói thế. - Ông Thẩm phán ngắt lời - Nếu như tôi hỏi anh đã làm gì cách đây ba tháng, vào buổi tối ấy, giờ ấy, thì tôi còn hiểu được sự lưỡng lự của anh. Nhưng đây là chuyện hôm thứ Ba, và hôm nay mới là thứ Sáu. Hơn nữa, đó là ngày cuối cùng của kỳ lễ hội, đó là ngày Thứ Ba Ăn Mặn. Chi tiết này chắc sẽ giúp anh nhớ lại.
- Tối đó, tôi đã ra khỏi nhà. - Albert đáp lí nhí.
- Nào, - ông Thẩm phán nói tiếp - ta nói rõ thêm nhé. Anh đã ăn tối ở đâu?
- Tại dinh thự nhà tôi, như mọi ngày.
- Không, không phải như mọi ngày. Tối hôm đó, vào cuối bữa, anh đã gọi một chai vang Bordeaux và đã uống cạn cả chai. Chắc là anh cần một sự kích thích cao độ cho những dự định tiếp theo…
- Tôi không có dự định nào hết. - Bị can đáp với sự do dự rất rõ ràng.
- Chắc là anh nhầm rồi. Có hai anh bạn đã đến tìm anh; trước khi ngồi vào bàn anh đã bảo họ là anh có một cuộc hẹn khẩn cấp.
- Đó chỉ là cái cớ thoái thác để tôi khỏi phải đi với họ.
- Vì sao?
- Ông không hiểu sao, thưa ông? Tôi đã cam chịu nhưng vẫn không đỡ hơn chút nào. Tôi đang phải làm quen với cú đòn khủng khiếp kia. Chẳng phải người ta phải tìm đến sự cô đơn khi cuộc đời trải qua những cơn khủng hoảng như vậy sao?
- Bên công tố giả định rằng anh muốn ở lại để đi đến làng La Jonchère một mình. Ban ngày anh đã nói, “Người ấy không thể cưỡng lại ta.” Anh định nói đến ai vậy?
- Là một người mà tôi đã viết thư cho từ hôm trước và hôm đó vừa trả lời tôi. Lúc ấy tôi đã phải nói câu đó vì trên tay tôi vẫn đang cầm bức thư.
- Vậy là bức thư này là của một người đàn bà?
- Phải.
- Anh đã làm gì với bức thư đó?
- Tôi đốt nó rồi.
- Sự thận trọng này khiến người ta nghĩ rằng anh đã coi bức thư là một vật phiền nhiễu…
- Không hề, thưa ông, bức thư đó liên quan đến những vấn đề riêng tư.
Rõ ràng bức thư đó là của tiểu thư Arlange, ông Daburon tin chắc như vậy.
Tuy nhiên có nên yêu cầu anh ta để phải nghe anh ta thốt lên cái tên Claire đáng sợ kia không?
Ông lấy hết can đảm, cúi thấp hơn trên bàn làm việc sao cho bị can không nhìn thấy mặt ông.
- Ai đã gửi cho anh bức thư đó? - Ông hỏi.
- Của một người mà tôi không thể nói tên.
- Thưa anh, - ông Thẩm phán ngồi thẳng dậy, nghiêm khắc nói - tôi sẽ không che giấu, rằng lập trường của anh là một lập trường tệ hại nhất. Đừng có cố che giấu để khiến tội ác trầm trọng thêm nữa. Anh ở đây là để khai ra tất cả, thưa anh.
- Việc của tôi thì đúng là như vậy; nhưng việc của người khác thì không.
Albert xẵng giọng đưa ra câu trả lời cuối cùng đó. Anh đang hoang mang, choáng váng và bực bội vì cuộc hỏi cung đang diễn biến theo chiều hướng thúc bách và khó chịu, và nó không cho anh có thời gian để thở. Những câu hỏi được ông Thẩm phán rót vào đầu anh dồn dập như những nhát búa của người thợ rèn đập xuống thanh sắt nung đỏ, như thể ông ta đang vội vã gia công nó.
Vẻ chống đối của “bị can” khiến ông Daburon thực sự lo lắng. Ngoài ra, ông vô cùng ngạc nhiên khi tìm thấy khiếm khuyết trong sự sáng suốt của lão thám tử già, một sự sáng suốt tuyệt đối như thể lão Tabaret là người không thể mắc sai lầm.
Lão Tabaret đã dự tính anh ta sẽ đưa ra một chứng cứ ngoại phạm không thể bác bỏ, thế mà lại không có. Tại sao? Chẳng lẽ tên tội phạm tinh vi này có gì đó hơn cả vậy? Hắn còn giữ mưu mẹo gì trong túi cẩm nang của mình? Có lẽ hắn đang dự phòng một cú bất ngờ nào đó, có thể là một cú không thể chống trả!
Cứ từ từ, - ông Thẩm phán nghĩ - ta vẫn chưa tóm được hắn.
Rồi ông nói nhanh:
- Ta tiếp tục nhé… Sau khi ăn tối anh làm gì?
- Tôi ra ngoài.
- Không phải là ra ngay… Sau khi uống cạn chai rượu, anh đã hút thuốc trong phòng ăn, một điều có vẻ khá khác biệt nên dễ bị để ý. Anh thường hút loại xì gà nào?
- Loại xì gà đầu loe.
- Anh có dùng tẩu để tránh cho môi tiếp xúc trực tiếp với điếu thuốc không?
- Có chứ, thưa ông. - Albert đáp với vẻ khá ngạc nhiên vì những câu hỏi như thế này.
- Anh ra khỏi nhà lúc mấy giờ?
- Khoảng tám giờ.
- Anh có mang theo ô không?
- Có.
- Anh đi đâu?
- Tôi đi dạo.
- Một mình, không mục đích, cả buổi tối?
- Vâng, thưa ông.
- Thế thì anh hãy vẽ lại lịch trình đi dạo của anh thật chính xác đi.
- Than ôi! Thưa ông, việc đó thật là khó. Tôi đi chỉ để đi thôi, để cho người vận động, để rũ bỏ trạng thái đờ đẫn đã đè nặng lên tôi ba ngày qua. Tôi không biết ông có hiểu chính xác tình cảnh của tôi không; khi đó tôi đang mất tỉnh táo. Tôi cứ đi hú họa dọc theo kè sông, tôi đi lang thang qua các phố…
- Tất cả những điều đó đều không thể tin được. - Ông Thẩm phán ngắt lời.
Nhưng ông Daburon biết rõ rằng điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Chẳng phải chính ông cũng đã chạy như điên khắp Paris đó sao? Sáng hôm đó, ông sẽ trả lời thế nào nếu có người hỏi ông, “Ông đi đâu thế?”. “Tôi không biết”, vì đúng là ông không biết thật. Nhưng ông đã quên chuyện đó, và những nỗi lo âu ban đầu của ông đã lùi xa rồi. Khi cuộc hỏi cung bắt đầu, ông đã khao khát muốn được tìm hiểu điều chưa biết. Ông lại bị lôi cuốn bởi những cảm xúc của cuộc đấu; đam mê nghề nghiệp lại chiếm lĩnh ông.
Ông lại trở về với vai trò một Thẩm phán điều tra, giống như một kiếm thủ, khi mà người này đang đấu với một người bạn thân nhất, vì say mê tiếng lách cách của kim loại, đã hăng máu lên, đánh mất mình và giết chết bạn.
- Vậy là, - ông Daburon tiếp tục hỏi - anh tuyệt đối không gặp một ai có thể đến đây khẳng định là đã nhìn thấy anh ư? Anh đã không gặp và nói chuyện với bất cứ ai ư? Anh đã không vào bất cứ chỗ nào, không vào quán cà phê cũng như nhà hát, cũng không vào hiệu thuốc lá để châm một điếu xì gà đầu loe ư?
- Tôi không vào đâu cả.
- Tốt thôi, thưa anh! Đó là một điều rất không may dành cho anh, vâng, một điều rất không may, bởi vì tôi phải nói với anh rằng đúng vào tối thứ Ba, trong khoảng từ tám giờ đến nửa đêm, bà quả phụ Lerouge đã bị sát hại. Tòa án có thể xác định chính xác giờ phút. Một lần nữa, thưa anh, vì lợi ích của anh, tôi khuyên anh nên suy nghĩ và cố sức nhớ lại.
Việc nhắc đến ngày giờ của vụ sát hại có vẻ đã khiến Albert rụng rời. Anh đưa tay lên trán trong một cử chỉ tuyệt vọng. Nhưng rồi, bằng giọng bình tĩnh, anh nói:
- Thật không may, thưa ông, nhưng tôi chẳng có gì phải suy nghĩ cả.
Daburon vô cùng ngạc nhiên. Quái lạ! Không hề có chứng cứ ngoại phạm! Đây không phải là một cái bẫy, cũng không phải một sự bào chữa… Đây có phải là một đối thủ quá mạnh không? Chắc chắn rồi. Chỉ có điều hắn đã bị tóm bất ngờ. Không bao giờ hắn hình dung được là người ta có thể rờ đến mình. Có lẽ hắn đã nghĩ, để bắt được mình cần phải có một điều gì đó như là phép màu.
Ông Thẩm phán thong thả nhấc từng tờ giấy lớn đang đậy những tang vật thu được ở nhà Albert lên.
- Chúng ta hãy chuyển sang xem xét các bằng chứng buộc tội đối với anh. - Ông nói - Xin mời anh lại gần đây. Anh có nhận ra những vật này không?
- Vâng, thưa ông, tất cả là của tôi.
- Tốt. Trước tiên hãy xem xét thanh kiếm này. Ai đã làm gãy nó?
- Tôi, thưa ông, tôi làm gãy khi đấu với ông Courtivois, ông ấy có thể làm chứng.
- Chúng tôi sẽ hỏi ông ấy. Thế đoạn kiếm gãy đâu rồi?
- Tôi không biết. Chắc là phải hỏi anh hầu phòng Lubin của tôi.
- Đúng rồi. Cậu ta khai là đã tìm mẩu kiếm gãy đó nhưng không thấy. Tôi sẽ lưu ý anh rằng nạn nhân có thể đã bị đâm bằng một mũi kiếm đã tháo đầu ruồi và được mài nhọn. Mẩu vải được kẻ sát nhân dùng để lau mũi kiếm đây là một bằng chứng.
- Về chuyện này, thưa ông, tôi xin ông hãy cho điều tra thật tỉ mỉ. Không thể nào lại không tìm thấy nửa kia của thanh kiếm.
- Tôi đã ra lệnh rồi. Bây giờ, trên tờ giấy này là dấu chân chính xác của kẻ giết người đã được chúng tôi can lại. Tôi đã ướm nó lên đế một chiếc giày của anh, và anh có thể thấy là nó khớp đến mức chính xác tuyệt đối. Miếng thạch cao nung nóng được rót vào vết lõm của dấu gót giày, và anh sẽ nhận thấy là nó hoàn toàn giống với gót giày của anh. Thậm chí tôi còn nhận ra dấu vết của cả một cái chốt ở đây nữa.
Albert theo dõi các động tác của ông Thẩm phán với một sự chăm chú rõ rệt. Rõ ràng là anh đang phải vật lộn chống lại một nỗi khiếp sợ mỗi lúc một lớn. Có phải anh đang trải qua nỗi hoảng hốt của những tên tội phạm khi chúng sắp sửa rối trí? Trước tất cả những nhận xét của vị quan tòa, anh chỉ đáp lại bằng một giọng khản đặc:
- Đúng, hoàn toàn đúng.
- Đúng thế, - ông Daburon tiếp tục - tuy nhiên anh đừng kêu la vội. Thủ phạm có một chiếc ô. Đầu chóp ô đã cắm xuống nền đất nhão, khuyên gỗ ở chóp ô đã tạo thành một vết lõm. Đây là cục đất sét đã được đào lên một cách hết sức thận trọng, còn đây là chiếc ô của anh. Hãy so sánh hai hình vành khuyên. Trông chúng có giống nhau không?
- Những thứ này, thưa ông, - Albert cố biện bạch - người ta sản xuất cả đống.
- Được rồi, thôi không nói đến bằng chứng này nữa. Anh hãy nhìn đầu mẩu xì gà được tìm thấy tại hiện trường. Hãy nói tôi nghe xem nó thuộc loại xì gà gì và được hút như thế nào?
- Đó là một điếu xì gà đầu loe, và được hút bằng một chiếc tẩu.
- Giống như những điếu này phải không? - Ông Thẩm phán gặng hỏi và chỉ vào những điếu xì gà cùng những mẩu cặn màu hổ phách và bọt thuốc được lấy trên bệ lò sưởi trong thư phòng của anh.
- Phải. - Albert lẩm nhẩm - Đây là một định mệnh, một sự trùng hợp kỳ lạ!
- Kiên nhẫn nào! Chưa hết đâu. Kẻ giết hại bà quả phụ Lerouge có mang một đôi găng tay. Nạn nhân, trong cơn hấp hối, đã cào vào tay tên sát nhân, và đã có những mẩu da thuộc lưu lại trên móng tay nạn nhân. Người ta đã tách được chúng ra, và chúng đây. Chúng có màu ngọc trai, đúng không? Khốn nỗi, người ta cũng đã tìm thấy đôi găng tay mà anh đã mang vào tối thứ Ba, chúng đây. Chúng cũng màu ngọc trai và bị xước. Hãy so sánh những mẩu da xước với đôi găng của anh. Có phải là chúng giống nhau không? Chúng có cùng màu, cùng loại da không?
Chẳng có gì để phủ nhận, để phân vân cũng như để viện cớ bác bỏ. Bằng chứng thật hiển nhiên, đập ngay vào mắt. Sự thật phũ phàng lộ rõ như ban ngày. Trong khi tỏ ra chỉ quan tâm đến những đồ vật bày trên bàn, Daburon vẫn không rời mắt khỏi bị can. Albert đang hoảng hốt. Mồ hôi lạnh thấm đẫm trán anh và đang chảy dài xuống má. Hai tay anh run đến nỗi không tự chủ được. Bằng một giọng tắc nghẹn, anh luôn mồm nói:
- Thật kinh khủng! Kinh khủng!
- Cuối cùng, - ông Thẩm phán khắc nghiệt nói tiếp - đây là cái quần mà anh đã mặc hôm xảy ra án mạng. Rõ ràng là nó đã bị ướt, và ngoài bùn ra, nó còn có những vết đất. Đây này. Hơn nữa, nó còn bị rách ở đầu gối. Nếu anh bảo là không nhớ mình đã đi những đâu thì tạm thời tôi đành phải chấp nhận. Nhưng anh sẽ khiến ai tin được rằng anh không biết mình đã làm rách quần và xước găng tay ở đâu?
Làm sao mà người ta có thể chống lại được những câu hỏi dồn dập như thế này? Sự kiên định và nghị lực của Albert đã đi đến chỗ cùng cực. Anh bắt đầu thấy choáng váng. Anh nặng nề buông mình xuống một chiếc ghế rồi nói:
- Thế này thì tôi phát điên lên mất!
- Anh có công nhận rằng, - ông Thẩm phán gặng hỏi, ánh mắt nhìn xoáy của ông trở nên không thể chịu nổi - người đã đâm chết bà quả phụ Lerouge chỉ có thể là anh không?
- Tôi thừa nhận, - Albert phản đối - rằng tôi là nạn nhân của một chuyện lạ đời đáng sợ mà nó có thể khiến người ta hoài nghi cả lý trí của mình. Tôi là người vô tội.
- Thế thì xin hãy cho biết tối thứ Ba anh đã ở đâu?
- Ôi, thưa ông, - bị can kêu lên - có lẽ phải…
Nhưng, bình tĩnh lại ngay lập tức, anh nói thêm bằng giọng nghẹn ngào:
- Tôi đã trả lời tất cả những gì có thể rồi.
Daburon đứng dậy, ông đang bị tác động mạnh.
- Vậy là, - ông nói với vẻ pha chút mỉa mai - tôi sẽ phải bổ sung cho trí nhớ khiếm khuyết của anh vậy. Tôi sẽ nhắc lại những gì anh đã làm nhé. Tối thứ Ba, vào lúc tám giờ, sau khi nhờ rượu tiếp cho mình một nghị lực đáng sợ, anh đã ra khỏi dinh thự. Đến tám giờ ba mươi lăm, anh lên tàu hỏa ở ga Saint-Lazare; đến chín giờ, anh xuống ga Rueil,…
Rồi, ăn cắp ý tưởng của lão Tabaret không chút ngượng ngùng, ông Thẩm phán điều tra nhắc lại gần như đúng từng lời đoạn trường thoại mà ông lão đã ứng tác tối qua.
Càng nói, ông càng có lý lẽ để thán phục hoàn toàn trước óc sáng suốt của lão thám tử già. Trong đời ông, sự hùng biện chưa bao giờ gây ra một ấn tượng kinh khủng đến thế. Mỗi câu nói của ông đều đang có hiệu lực. Lòng tự tin đã lung lay của bị can đang dần đổ vỡ, như một bức tường sụp đổ dưới làn đạn bắn phá.
Ông Thẩm phán thấy rõ là Albert giờ giống như một người đang rơi xuống vực mà không bám được vào một cành cây nào, đang cảm thấy sự đau đớn mỗi khi cơ thể bầm tím va vào các góc cạnh gồ ghề của thành vực.
- Và bây giờ, - ông Thẩm phán kết luận - hãy nghe một lời khuyên khôn ngoan đây. Anh đừng ngoan cố phủ nhận những điều không thể chống lại. Hãy đầu hàng đi! Anh nên hiểu rằng tòa án luôn biết những gì mà nó cần biết. Hãy tin tôi đi; hãy cố mà hưởng lượng khoan hồng của tòa án, hãy mau chóng thú nhận.
Daburon không nghĩ là bị can của mình dám tiếp tục phủ nhận. Ông như thấy anh bị đè bẹp, phải quỳ xuống xin tha. Nhưng ông đã nhầm.
Cho dù tỏ ra suy sụp ghê gớm, nhưng Albert vẫn có đủ ý chí vững vàng để ngồi thẳng người lên tiếp tục phản đối.
- Ông nói đúng, thưa ông, - anh nói bằng giọng buồn rầu nhưng cương quyết - mọi thứ đều chỉ ra là tôi có tội. Ở vào địa vị của ông, tôi cũng sẽ nói như vậy. Thế nhưng tôi xin thề là tôi vô tội.
- Thế đấy! Rất thành thực…! - Ông Thẩm phán lên tiếng.
- Tôi vô tội, - Albert ngắt lời - và tôi sẽ nhắc lại điều đó dù không có chút hy vọng sẽ làm thay đổi lòng tin của ông. Vâng, tất cả mọi thứ đang lên tiếng chống lại tôi, tất cả, kể cả thái độ của tôi trước mặt ông. Đúng là nghị lực của tôi đã bị lung lay trước những sự trùng hợp kỳ lạ, không thể tin nổi, nhưng cũng không thể chối cãi. Tôi đã tiêu đời, bởi tôi không thể chứng minh được sự vô tội của mình. Nhưng tôi không tuyệt vọng. Danh dự và mạng sống của tôi đang nằm trong tay Chúa. Lúc này đây, khi mà nếu tôi không nhầm thì chắc là ông đang thấy tôi thua cuộc, tôi vẫn không từ bỏ hy vọng vào một sự biện minh rõ ràng. Tôi tin tưởng chờ đợi điều đó…
- Anh muốn nói gì? - Ông Thẩm phán ngắt lời.
- Chẳng có gì ngoài những điều tôi đã nói, thưa ông.
- Vậy là anh vẫn khăng khăng phủ nhận?
- Tôi vô tội.
- Nhưng đó là chuyện điên rồ…
- Tôi vô tội.
- Được rồi, - ông Daburon nói - hôm nay thế là đủ rồi. Anh sẽ nghe đọc lại biên bản và người ta sẽ đưa anh về buồng kín. Tôi khuyên anh hãy suy nghĩ đi. Buổi đêm có thể sẽ cho anh một sự biến chuyển tốt đẹp; nếu anh muốn nói với tôi, thì anh cứ bảo người ta gọi tôi bất cứ lúc nào, tôi sẽ có mặt. Tôi sẽ ra lệnh cho người của tôi như vậy. Đọc biên bản đi, Constant.
Khi Albert bước ra cửa cùng với những người hiến binh, ông Thẩm phán khẽ nói:
- Thế đấy, một kẻ ranh mãnh ngoan cố.
Tất nhiên, ông không hề có chút nghi ngờ gì. Đối với ông, Albert chắc chắn là kẻ sát nhân, cứ như thể anh đã thú nhận tất cả. Cho dù anh có khăng khăng phủ nhận thì, với tất cả những bằng chứng đã có, tòa cũng không thể đưa ra một quyết định miễn tố. Chắc chắn anh sẽ phải ra trước Tòa đại hình. Và ông dám cá một trăm ăn một rằng bồi thẩm đoàn sẽ đồng ý ra phán quyết buộc tội.
Tuy nhiên, khi chỉ còn lại một mình, ông Daburon không hề thấy thỏa mãn trong lòng như ông vẫn thường tự phụ cảm thấy sau một cuộc điều tra thành công, khi mà ông đã điều khiển được một “bị can” tầm cỡ như Albert. Trong ông đang có gì đó cựa quậy và nổi loạn. Thâm tâm ông đang chất chứa những lo lắng âm thầm. Ông đã chiến thắng, nhưng chiến thắng này chỉ đem lại cho ông sự khó chịu, buồn rầu và chán chường.
Có một ý nghĩ thật đơn giản, mà ông không thể hiểu tại sao ngay từ đầu mình đã không nghĩ đến, đang làm tăng thái độ bất bình và cuối cùng tự khiến ông cảm thấy bực bội.
- Có một điều gì đó đã mách bảo ta rất rõ ràng, - ông lẩm nhẩm - rằng chấp nhận vụ án này là một sai lầm. Ta đang bị trừng phạt vì đã không nghe tiếng nói trong thâm tâm đó. Đáng ra ta phải xin rút lui. Trong trường hợp đó, Tử tước Commarin đằng nào cũng sẽ bị bắt, bị giam, bị hỏi cung, bị đánh gục, chắc chắn sẽ bị xét xử và có thể cả bị kết án. Nhưng khi đó, vì không liên quan đến vụ án, ta sẽ lại có thể xuất hiện trước mặt Claire. Nàng hẳn sẽ đau khổ lắm. Vì vẫn là bạn của nàng, ta có thể tự cho mình quyền được an ủi nỗi đau của nàng, được nhỏ nước mắt cùng nàng, được làm dịu sự tiếc thương của nàng. Cùng với thời gian, nàng hẳn sẽ nguôi ngoai, và có thể nàng sẽ quên. Nàng sẽ không thể không biết ơn ta, và biết đâu đấy… Trong khi bây giờ, cho dù có chuyện gì xảy ra thì đối với nàng ta cũng sẽ là một sinh vật ghê tởm. Nàng sẽ không bao giờ chấp nhận gặp ta. Đối với nàng, ta sẽ mãi mãi là kẻ đã giết người tình của nàng. Bằng chính tay mình, ta đã đào một vực sâu ngăn cách giữa nàng và ta mà hàng thế kỷ cũng không lấp bằng được. Ta đã mất nàng lần thứ hai do sai lầm của mình, một sai lầm rất lớn.
Ông Thẩm phán khốn khổ dành cho mình những lời trách móc cay đắng nhất. Ông đang tuyệt vọng. Chưa bao giờ ông thấy căm ghét anh chàng Albert đến thế. Kẻ khốn nạn này đã vấy máu tội ác, lại còn chen ngang vào hạnh phúc của ông. Ông còn nguyền rủa cả cái lão Tabaret kia nữa! Nếu chỉ mình ông thì ông đã không quyết định nhanh đến thế. Có thể ông sẽ đợi cho quyết định của mình chín muồi, và chắc chắn ông sẽ nhận ra những điều bất tiện mà giờ ông đã phát hiện ra. Cái lão già hăng máu như một con chó săn không được dạy dỗ chu đáo này, với nỗi đam mê ngớ ngẩn, đã lôi ông vào một vòng xoáy như một kẻ ngơ ngác, bị phỉnh phờ, bị lôi kéo.
Chính khoảng mười lăm phút thuận lợi này là lúc lão Tabaret chọn để xuất hiện trước mặt ông Thẩm phán.
Người ta vừa cho ông biết là cuộc hỏi cung đã kết thúc, ông liền nóng lòng chạy vội đến để xem kết cục ra sao, miệng thở hổn hển vì tò mò, mũi phồng lên vì niềm hy vọng khoan khoái là mình đã đoán đúng.
- Hắn trả lời thế nào? - Ông hỏi trước cả khi kịp khép cửa.
- Rõ ràng là hắn có tội. - Ông Thẩm phán đáp với một vẻ thô bạo khác hẳn với tính cách của mình.
Lão Tabaret sững sờ trước giọng nói của ông, vì ông đang tưởng là mình đến đây với cái túi mở sẵn để thu hoạch những lời khen ngợi. Thế là ông rụt rè do dự đề nghị được nhún nhường phục vụ.
- Tôi đến, - ông khiêm tốn nói - để xem liệu ngài Thẩm phán có cần điều tra thêm để đánh đổ chứng cứ ngoại phạm mà bị can viện dẫn hay không.
- Chẳng có chứng cứ ngoại phạm nào cả. - Vị quan tòa xẵng giọng đáp.
- Sao! - Lão già kêu lên - Không có chứng… Tôi thật ngốc quá, - ông nói thêm - chắc là ngài Thẩm phán đã chiếu bí hắn chỉ bằng vài câu hỏi, và hắn đã thú nhận hết.
- Không, - ông Thẩm phán sốt ruột nói - hắn chẳng thú nhận gì cả. Hắn thừa nhận là những chứng cứ này có tính quyết định; hắn không thể nói được hắn đã ở đâu trong thời gian xảy ra án mạng; nhưng hắn khẳng định rằng mình vô tội.
Đứng giữa phòng, mồm há hốc, hai mắt trợn tròn, lão Tabaret đang ở trong tư thế kỳ dị nhất, khiến người ta tưởng ông giả vờ ngạc nhiên. Ông buông thõng hoàn toàn hai tay.
Mặc dù đang tức giận, ông Daburon vẫn không nén được một nụ cười, còn Constant thì nhăn mặt như thể sắp phá ra cười.
- Không có chứng cứ ngoại phạm! - Lão Tabaret lẩm nhẩm - Không có gì cả, không một lời biện bạch, một kẻ ranh mãnh đến thế ư! Điều này thật không thể hiểu được. Không có chứng cứ ngoại phạm! Chẳng lẽ chúng ta nhầm chăng? Thế thì anh ta không phải là thủ phạm; không thể là anh ta, không phải là anh ta…
Ông Thẩm phán nghĩ rằng lão thám tử tình nguyện của mình hoặc là đã phải ngồi uống rượu ở góc phố để chờ đợi kết quả của cuộc hỏi cung của ông nên mới có thái độ thẫn thờ như vậy, hoặc là đầu óc ông lão đang bị rối loạn.
- Thật đáng tiếc, - ông nói - là chúng ta đã không nhầm. Mọi thứ đã được chứng minh quá rõ rằng anh chàng Commarin chính là kẻ giết người. Hơn nữa, nếu muốn, ông có thể bảo Constant cho xem biên bản, và ông hãy tìm hiểu đi trong khi tôi thu dọn đống giấy tờ lộn xộn này.
- Xem nào! - Lão già sốt sắng nói.
Ông ngồi vào chỗ Constant, rồi, tì khuỷu tay lên bàn, hai bàn tay lùa lên mái tóc, ông đọc nghiến ngấu tập biên bản trong nháy mắt.
Sau khi đọc xong, ông hốt hoảng đứng lên, mặt tái nhợt sững sờ.
- Thưa ngài, - ông nói với giọng tắc nghẹn - tôi chính là nguyên nhân đã vô tình gây ra nỗi bất hạnh khủng khiếp này. Người này vô tội!
- Thôi nào, thôi nào! - Ông Thẩm phán nói mà vẫn không ngừng việc dọn dẹp để ra về - Ông mất trí rồi, ông Tabaret thân mến. Làm sao mà, sau những gì ông vừa đọc…
- Vâng, thưa ngài, vâng, sau những gì tôi vừa đọc, tôi kêu gọi ngài, “Hãy dừng tay!”, nếu không thì chúng ta sẽ thêm một lỗi nữa vào danh sách sai lầm pháp lý đáng buồn của chúng ta! Ngài hãy bình tĩnh đọc lại biên bản hỏi cung này đi. Không có một câu trả lời nào mà không giải tội cho con người bất hạnh này, không có một lời nào không phải là một dấu hiệu hé sáng. Và anh ta vẫn đang bị giam trong ngục kín phải không…?
- Và anh ta vẫn sẽ còn ở trong đó, xin lỗi ông! - Ông Thẩm phán ngắt lời - Sau tất cả những gì ông đã nói với tôi đêm qua, khi mà tôi còn đang do dự, vậy mà giờ ông lại nói thế này!
- Nhưng, thưa ngài, - lão già kêu lên - tôi vẫn sẽ nói với ngài như vậy. Ôi! Lão Tabaret khốn khổ ơi, mọi cái tiêu đời rồi, người ta đã không hiểu mi. Xin lỗi ngài, nếu tôi có thiếu tôn trọng dành cho một quan tòa, thưa ngài Thẩm phán, ngài đã không nắm vững được phương pháp của tôi. Thế nhưng nó rất đơn giản. Khi một tội ác xảy ra, với các tình tiết và chi tiết của nó, tôi đã xây dựng từng phần một kế hoạch buộc tội và chỉ đưa nó ra một cách toàn bộ và hoàn thiện. Nếu ta gặp một người mà kế hoạch này có thể áp dụng chính xác với tất cả các khâu đoạn của nó, thì kẻ đó sẽ là thủ phạm, còn không thì đó là kẻ vô tội. Nếu một đoạn nào đó áp dụng đúng thì chưa đủ; không, phải là tất cả hoặc không gì cả. Điều này không thể sai được. Song, ở đây, tôi đã tìm ra thủ phạm như thế nào? Bằng cách suy luận từ cái đã biết đến cái chưa biết. Tôi đã xem xét vụ án và đánh giá kẻ thực hiện nó. Suy luận và logic sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu? Dẫn đến một kẻ gian ác quyết đoán, táo tợn và thận trọng, xảo quyệt như quỷ. Thế mà ngài lại có thể tin rằng một kẻ như thế đã bỏ quên một hành động cẩn trọng mà một tên vô lại tầm thường nhất cũng sẽ không bỏ qua! Điều đó là không thể tin được. Sao chứ! Con người này đủ khôn khéo để chỉ để lại những dấu vết nhỏ đến nỗi có thể dễ dàng thoát được con mắt thành thạo của ông Gévrol, thế mà ngài lại nghĩ rằng anh ta đã mạo hiểm để mua vui bằng cách biến mất cả một đêm! Không thể có chuyện đó được. Tôi tin vào kế hoạch của mình như tin vào một phép tính đã được chứng minh. Kẻ giết người ở làng La Jonchère phải có một chứng cứ ngoại phạm. Albert không đưa ra được chứng cứ đó, vậy nên anh ta vô tội.
Ông Daburon soi mói nhìn lão thám tử già với vẻ chăm chú mỉa mai mà người ta thường dành cho một kẻ thao thao bất tuyệt những điều điên rồ. Khi ông lão nói xong, ông mới bảo:
- Ông Tabaret xuất chúng ơi, ông chỉ có mỗi một sai lầm, đó là ông đã tinh tế quá mức. Ông quá dễ dãi dành cho kẻ khác sự tinh tế tuyệt diệu của ông rồi. Đối thủ của chúng ta thiếu thận trọng là vì hắn tin là mình sẽ không bao giờ bị nghi ngờ.
- Không, thưa ngài, nghìn lần không. Kẻ phạm tội đích thực theo tính toán của tôi, kẻ mà chúng ta chưa tóm được, hắn sợ mọi thứ. Vả lại ngài hãy xem xem Albert có tự bào chữa không? Không. Anh ta bị đánh gục vì anh ta thừa nhận những sự trùng hợp quá định mệnh đến nỗi chúng có vẻ như sẽ kết tội anh ta một cách không thể cưỡng lại. Anh ta có tìm cách gỡ tội không? Không. Anh ta chỉ nói, “Thật khủng khiếp.” Thế nhưng, nói cho cùng thì tôi cảm thấy anh ta có một điều không thể nói ra mà tôi không hiểu được lý do.
- Tôi thì lại hiểu rất rõ, và tôi cũng yên tâm như thể anh ta đã thú nhận hết. Tôi đã có đủ bằng chứng cho chuyện này.
- Than ôi! Thưa ngài, bằng chứng ư! Ta luôn có bằng chứng chống lại những người mà ta bắt. Ta cũng đã có bằng chứng chống lại tất cả những người vô tội bị kết án. Ôi, bằng chứng…! Tôi đã lấy được nhiều bằng chứng chống lại Kaiser, anh chàng thợ may tội nghiệp…
- Thế thì, - ông Thẩm phán sốt ruột ngắt lời - nếu không phải anh ta, người được lợi tất cả trong tội ác này, thì ai là người đã gây án? Ai? Chẳng lẽ là bố anh ta, ông Bá tước Commarin?
- Không, kẻ giết người của tôi vẫn còn trẻ.
Daburon đã sắp xếp xong giấy tờ và sửa soạn ra về. Ông cầm mũ lên, và, khi sắp bước ra cửa, ông nói:
- Thế thì ông thấy rõ rồi đó. Thôi nào, hẹn gặp lại, thưa ông Tabaret, và ông hãy rũ bỏ những bóng ma trong đầu đi. Ngày mai chúng ta sẽ nói tiếp về vấn đề này, tối nay tôi đang mệt đến chết đây. Constant, - ông nói thêm - hãy đến phòng lục sự xem bị can Commarin có muốn gặp tôi không.
Khi ông bước ra cửa, lão Tabaret chặn đường ông và nói:
- Thưa ngài, nhân danh Chúa, xin ngài hãy nghe tôi. Anh ta vô tội, tôi xin thề; hãy giúp tôi tìm ra thủ phạm. Thưa ngài, hãy nghĩ đến chuyện chúng ta sẽ phải hối hận nếu chúng ta khiến anh ta bị cắt cổ…
Nhưng ông quan tòa không muốn nghe thêm nữa; ông nhanh nhẹn né lão Tabaret rồi lao ra hành lang.
Ông lão liền quay về chỗ Constant. Ông muốn thuyết phục anh ta, muốn chứng minh cho anh ta… Nhưng vô ích! Anh lục sự lưng dài đang vội vã thu dọn đồ đạc, bụng nghĩ đến bát xúp nóng hổi đang đợi mình ở nhà.
Dù không muốn, lão Tabaret cũng phải ra khỏi văn phòng Thẩm phán; lúc này chỉ còn lại mình ông trong dãy hành lang tăm tối. Mọi tiếng động trong tòa nhà đã chấm dứt, khiến ta tưởng như đang ở trong một ngôi nhà mồ rộng mênh mông. Trong cơn tuyệt vọng, lão thám tử già đưa cả hai tay lên rứt tóc.
- Khốn thay! - Ông nói - Albert vô tội, thế mà chính mình lại là người đã giao nộp anh ta! Chính mình, lão già điên rồ, đã rót vào cái đầu trì độn của lão Thẩm phán kia một niềm tin mà bây giờ không thể rứt ra được. Anh ta vô tội và giờ đang phải chịu đựng những sự lo lắng khủng khiếp. Nếu anh ta tự tử thì sao! Đã có nhiều trường hợp những người khốn khổ bị kết tội oan đã tự tử trong tù. Tội nghiệp loài người! Nhưng mình sẽ không bỏ anh ta. Mình đã hủy hoại anh ta, vậy thì mình sẽ phải cứu lấy. Mình cần một thủ phạm, và mình sẽ tìm ra hắn. Và hắn sẽ phải trả giá đắt, tên bất lương đó!