Chương 14
Cho dù bị ông Thẩm phán điều tra kiên quyết bác bỏ, vì ông này vừa phải trải qua một ngày hỏi cung mệt nhoài, lão Tabaret vẫn không cam chịu thất bại. Ông lão thuộc dạng đầu bò đầu bướu, đó là khiếm khuyết hay ưu điểm của ông?
Sự quả quyết không thể khuất phục nhanh chóng thay thế nỗi tuyệt vọng mà ông gặp phải tại hành lang tòa án. Ý thức về nghĩa vụ đã chiếm ưu thế. Chẳng lẽ giờ là lúc buông bỏ cho sự nản chí hèn nhát, khi mà mạng sống của một con người đang từng phút bị hiểm nguy! Ngồi chơi không hành động gì sẽ là một điều không thể tha thứ. Ông đã đẩy một người vô tội xuống vực thì đích thân ông sẽ phải kéo anh ta lên, nếu không có ai muốn ra tay giúp ông.
Giống như ông Thẩm phán, lão Tabaret cũng đang mệt rã rời. Khi ra đến ngoài đường, ông nhận ra rằng mình đang muốn ăn. Những cảm xúc ban ngày đã ngăn ông không thấy đói, và từ hôm qua đến giờ ông chưa uống một cốc nước nào. Ông vào một nhà hàng bên đường và gọi món ăn tối.
Trong khi ăn, không chỉ có lòng can đảm, mà cả niềm tin cũng dần dần trở lại với ông. Đối với ông, đây là lúc phải kêu lên, “Tội nghiệp loài người!”, câu nói này không biết liệu có thể thay đổi được bao nhiêu về suy nghĩ của ông, từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc bữa ăn, cho dù đó là một bữa ăn đạm bạc! Một nhà triết học hẳn sẽ có thể chứng minh rằng lòng dũng cảm là câu chuyện về cái dạ dày.
Ông lão đang xem xét tình hình dưới một góc độ ít tăm tối hơn. Trước mắt ông không có nhiều thời gian! Nhưng một người khôn khéo trong một tháng có gì mà không làm được! Chẳng lẽ óc sáng suốt hàng ngày đang phản bội ông? Không, chắc chắn là không. Ông hối tiếc nhất là đã không thể báo cho Albert biết rằng có một người đang tìm cách giúp anh.
Khi đứng lên khỏi bàn ăn ông là một người khác hẳn, và ông nhanh nhẹn vượt qua quãng đường từ đó đến phố Saint-Lazare. Khi người gác cổng mở cửa cho ông thì đồng hồ đã điểm chín giờ tối.
Ông bắt đầu leo cầu thang lên gác tư để hỏi thăm tình hình bà bạn thân của mình, người mà ngày xưa ông đã gọi là bà Gerdy tuyệt vời và đáng kính.
Người ra mở cửa cho ông là Noël. Có lẽ đang mủi lòng vì những hồi ức cũ, nên anh trông buồn rầu như thể người đàn bà đang hấp hối kia chính là mẹ anh vậy.
Trước tình tiết bất ngờ này, lão Tabaret không thể không bước vào, dù chỉ năm phút sau, ông đã cảm thấy có điều phật ý.
Ông cảm thấy rất rõ rằng khi đối mặt với chàng luật sư, thế nào ông cũng sẽ bị dẫn đến việc phải nói về vụ án Lerouge. Và ông sẽ phải nói thế nào để không bị lộ tẩy rằng mình đã biết tất cả, rằng mình biết rõ mọi chuyện hơn cả chính anh bạn trẻ này? Chỉ một lời bất cẩn cũng có thể để lộ ra vai trò của ông trong vụ việc bi thảm này. Ông sẽ vẫn phải kín tiếng về quan hệ với cảnh sát, đặc biệt là với anh bạn Noël yêu quý của mình, người giờ đã là Tử tước Commarin.
Nhưng mặt khác, ông lại đang khao khát muốn biết chuyện gì đã xảy ra giữa chàng luật sư với ông Bá tước. Sự mù mờ về điểm duy nhất này đang kích thích óc tò mò của ông. Cuối cùng, vì không thể lùi bước được nữa, ông tự hứa là sẽ giữ mồm giữ miệng và hết sức cảnh giác.
Chàng luật sư dẫn ông lão vào phòng bà Gerdy. Từ chiều đến giờ, tình trạng của bà đã thay đổi, nhưng vẫn không thể nói được là tốt hay xấu. Chỉ có một việc rõ ràng, đó là sự suy sụp đã đỡ hơn. Mắt bà vẫn nhắm, nhưng có thể nhận thấy mí mắt bà hơi hấp háy, tay bà động đậy và bà rên khe khẽ.
- Bác sĩ nói sao? - Lão Tabaret thì thầm hỏi nhỏ như người ta quen nói trong phòng bệnh.
- Anh ấy vừa về. - Noël đáp - Chẳng mấy chốc mọi việc sẽ kết thúc.
Ông lão nhón chân bước tới quan sát người hấp hối với vẻ xúc động rõ rệt.
- Tội nghiệp bà ấy! - Ông thì thầm - Chúa nhân từ hãy gia ơn đưa bà ấy đi. Có lẽ bà ấy đã chịu khổ quá nhiều rồi, nhưng những nỗi đau ấy có là gì so với nỗi đau mà bà ấy sẽ phải chịu nếu biết được rằng con trai mình, đứa con trai đích thực của mình, đang phải ngồi tù vì bị kết tội giết người!
- Đó là điều mà cháu cũng cứ nhắc đi nhắc lại, - Noël nói tiếp - để tự an ủi mình một chút khi thấy bà nằm liệt giường như thế này, bởi lẽ cháu vẫn yêu bà, bác ạ; đối với cháu bà vẫn cứ là một người mẹ. Bác đã từng nghe thấy cháu nguyền rủa bà, phải không? Có hai lần cháu đã đối xử tàn nhẫn với bà, vì cháu đã tưởng là mình căm hận bà, nhưng mà đến lúc sắp mất bà, cháu đã quên hết những lỗi lầm mà chỉ nhớ lại những tình cảm âu yếm của bà. Vâng, cái chết sẽ là tốt hơn cho bà. Thế nhưng không, cháu không tin, không, cháu không thể tin rằng con trai bà có tội.
- Phải, đúng không? Cả cháu cũng không tin…!
Lão Tabaret tỏ ra nhiệt tình hào hứng khi thốt ra câu đó đến mức Noël phải nhìn ông với vẻ sửng sốt. Ông cảm thấy hai má ửng đỏ và ông vội giải thích:
- Bác nói “cả cháu cũng không tin”, bởi vì bác, có thể do thiếu kinh nghiệm, bác tin vào sự vô tội của chàng trai kia. Bác không thể tưởng tượng được rằng một chàng trai thuộc đẳng cấp như anh ta lại suy nghĩ và thực hiện một hành động mưu sát hèn hạ như vậy. Bác đã nói chuyện với nhiều người về vụ án tai tiếng này, và mọi người đều đồng ý với bác. Anh ta đã được dư luận ủng hộ, và thế là được một phần thuận lợi rồi.
Ngồi bên cạnh giường, đủ xa ngọn đèn để có thể ẩn mình trong bóng tối, cô nữ tu đang đan những chiếc tất dành cho người nghèo với vẻ bực bội. Đó là một công việc thuần tuý máy móc, trong khi cô vẫn cầu nguyện như thường ngày. Nhưng, từ lúc lão Tabaret bước vào, để hóng chuyện, cô đã quên mất những lời cầu kinh muôn thuở của mình. Nhưng cô nghe họ nói mà chẳng hiểu gì. Bộ óc bé nhỏ của cô đang căng ra như muốn vỡ. Câu chuyện này có nghĩa gì? Người đàn bà này có thể là ai? Còn người đàn ông trẻ này, dù không phải là con trai bà, lại gọi bà là “mẹ cháu”, và còn nói về một người con trai đích thực đang bị kết tội giết người? Cô đã sớm chộp được những câu trao đổi bí hiểm giữa Noël và anh bác sĩ. Cô đang rơi vào ngôi nhà kỳ lạ nào đây? Cô cảm thấy có chút sợ hãi, và cô trở nên vô cùng rối trí. Liệu cô có phạm tội không? Cô định bụng sẽ thổ lộ với cha xứ khi cha đến.
- Không. - Noël nói - Không, thưa bác Tabaret, Albert vẫn chưa có được sự ủng hộ của dư luận đâu. Người Pháp khó chiều hơn nhiều, bác biết rõ mà. Khi người ta bắt một kẻ khốn nạn, có thể là vô tội đối với tội ác mà người ta gán cho, thì chúng ta rất dễ dàng ném đá anh ta đến chết. Khi một người, rất có thể là có tội, bị đưa ra Tòa đại hình, thì chúng ta lại dành cho anh ta tất cả lòng thương hại. Trong khi tòa án còn nghi ngờ, thì chúng ta cùng với nó chống lại bị can; ngay khi một người được chứng minh là kẻ gian, thì anh ta lại giành được mọi sự thông cảm… Đó chính là dư luận. Bác hãy hiểu là dư luận chẳng hề khiến cháu xúc động. Cháu khinh bỉ dư luận đến mức, nếu Albert không được thả, như là cháu vẫn hy vọng, thì chính cháu, xin bác nghe cho, cháu sẽ là người bào chữa cho cậu ấy. Vâng, chiều nay cháu đã nói điều đó với cha mình, Bá tước Commarin, cháu sẽ là luật sư của cậu ấy và cháu sẽ cứu cậu ấy.
Ông lão suýt nữa thì vui mừng nhảy lên ôm cổ Noël. Ông đang khát khao muốn nói, “Cả hai ta sẽ cứu cậu ấy”, nhưng ông đã kìm được mình. Chàng luật sư, nếu ông thổ lộ vai trò của mình, liệu anh có khinh bỉ ông không? Tuy nhiên, ông tự hứa là sẽ tiết lộ mình, nếu điều đó trở nên cần thiết và nếu vụ việc của Albert gặp phải một tình huống bất lợi. Tạm thời ông chỉ bằng lòng với việc hết sức tán dương anh bạn trẻ của mình.
- Hoan hô, con trai của ta! - Ông nói - Đây mới là một tấm lòng cao thượng. Bác còn đang sợ sẽ thấy cháu hư hỏng vì quyền lực và sự giàu sang. Bác cảm thấy cháu vẫn giữ lại được sự khiêm tốn. Nhưng, hãy nói cho bác biết, vậy là cháu đã gặp ông Bá tước cha cháu rồi sao?
Chỉ đến khi đó Noël dường như mới nhận ra ánh mắt của cô nữ tu đang trở nên long lanh vì tò mò. Anh đưa mắt ra hiệu cho ông lão.
- Cháu gặp rồi, - anh đáp - và tất cả đã được thu xếp ổn thỏa… Cháu sẽ kể kỹ cho bác sau, khi nào chúng ta bình tĩnh hơn. Trước cái giường này, cháu gần như thấy xấu hổ về niềm hạnh phúc của mình…
Lão Tabaret rất hài lòng về câu đáp và lời hứa này.
Khi thấy không còn biết được thêm điều gì tối nay nữa, ông liền nói sẽ đi nằm sau khi tuyên bố là mình đang mệt nhoài vì một số công việc buộc phải thực hiện lúc ban ngày. Noël không giữ ông lại. Anh nói là mình đang đợi anh trai bà Gerdy, người mà anh đã đi tìm nhiều lần mà không gặp. Những lần trước anh đã thấy rất lúng túng trước sự có mặt của ông bác này; bây giờ thì anh lại càng không biết phải xử sự thế nào. Liệu anh có cần phải nói tất cả với ông không? Như thế sẽ chỉ càng khiến ông đau lòng. Nhưng mặt khác, nếu im lặng thì lại buộc phải diễn một vở kịch khó khăn. Lão Tabaret có ý kiến là tốt hơn hết cứ im lặng, dù sau này có phải giải thích.
- Anh chàng Noël này thật tử tế! - Lão Tabaret vừa lẩm nhẩm vừa bước khẽ khàng hết sức về phòng mình.
Ông đã vắng nhà suốt hơn hai mươi tư giờ qua, và ông đang chờ đợi sự khó chịu của bà quản gia.
Quả thực, bà Manette đang nổi khùng lên, đến mức bà tuyên bố là sẽ đi tìm một chỗ làm khác nếu ông chủ không thay đổi cách sống.
Cả đêm bà đã đi đi lại lại như trong cơn nhập đồng ghê sợ, dỏng tai nghe ngóng từng tiếng động nhỏ nhất ngoài hành lang, chờ đợi việc sẽ nhìn thấy người ta khiêng xác ông chủ của mình về trên một chiếc cáng từng phút một. Như một sự trùng hợp, trong tòa nhà hôm nay lại có nhiều người ra vào. Bà đã nhìn thấy anh Gerdy ra khỏi nhà ít phút sau khi ông chủ của bà đi khỏi, bà lại nhìn thấy anh trở về sau hai giờ đồng hồ. Sau đó là người bên ngoài đến nhà, rồi người ta đi kiếm ông bác sĩ. Những cảm xúc thế này đang giết chết bà, đó là chưa tính đến chuyện tính khí không cho phép bà đợi được lâu. Điều mà bà Manette quên là sự chờ đợi của bà không phải là dành cho ông chủ, cũng không dành cho Noël, mà là dành cho một người đồng hương của bà, một người đàn ông đẹp trai thuộc đội vệ binh Paris, người đã hứa sẽ cưới bà, và là người mà bà đã đợi chờ vô vọng; đúng là một kẻ bội bạc!
Bà càu nhàu trách móc khi sửa soạn chăn mền cho ông chủ. Bà khẳng định mình là người quá thực thà nên không thể giữ được điều gì trong lòng và cũng không thể im miệng khi vấn đề liên quan đến quyền lợi, sức khỏe và danh tiếng của ông chủ. Ông chỉ im lặng không muốn cãi lại; ông cúi đầu chịu trận, như thể giơ lưng chịu đòn. Nhưng ngay khi bà Manette chuẩn bị xong giường chiếu, ông tống bà ra khỏi cửa không chút khách sáo và khóa trái cửa lại.
Giờ là lúc ông phải lập một kế hoạch hành động mới và đưa ra những giải pháp mau lẹ và quả quyết. Ông nhanh chóng phân tích tình hình. Liệu ông có nhầm trong lúc điều tra không? Không. Những tính toán của ông có nhầm không? Không. Ông đã xuất phát từ một sự kiện có thật, đó là vụ án mạng, ông đã xác nhận các tình tiết của nó, những dự đoán của ông đã thành hiện thực, chắc chắn ông sẽ đi đến được thủ phạm như ông đã dự đoán. Và tên thủ phạm này không thể là bị can mà ông Daburon đã bắt. Niềm tin của ông vào một tiên đề pháp lý đã đánh lừa ông khi ông chỉ định Albert là kẻ có tội.
Thế là, - ông nghĩ - mình đã thấy những ý kiến nhận được cùng những câu nói vô nghĩa đã dẫn đến đâu, những ý kiến và câu nói đó giống như những cột mốc trên con đường của bọn ngu ngốc. Dựa vào những điều gợi ý, đáng ra mình đã phải đào sâu hơn nữa vụ án này, không để phó mặc cho sự may rủi. Công thức “Hãy tìm xem ai được lợi do tội ác này” có thể sai mà cũng có thể đúng. Trên thực tế, những người thừa kế của một người bị ám sát sẽ giành được tất cả mọi điều lợi do vụ sát hại, trong khi kẻ giết người nhiều nhất chỉ lấy chiếc đồng hồ và túi tiền của nạn nhân. Trong cái chết của bà Lerouge có ba người được lợi: Albert, bà Gerdy và ông Bá tước Commarin. Mình đã thấy rằng Albert không thể là thủ phạm, bà Gerdy cũng không phải, vì riêng cái tin bất ngờ về án mạng ở La Jonchère cũng đã đủ để giết chết bà; chỉ còn lại ông Bá tước. Liệu có phải là ông ấy không? Nếu đúng thì cũng không phải chính ông ấy ra tay. Ông ấy đã thuê một kẻ khốn nạn, một kẻ khốn nạn có giáo dục, nếu muốn nói như vậy, đi đôi giày cao cổ hàng hiệu đánh bóng, hút xì gà đầu loe bằng tẩu hổ phách. Đám vô lại ăn mặc nghiêm chỉnh đó thường nhát gan. Chúng ăn cắp, liều mạng làm đồ giả, chứ chúng không giết người. Nhưng giả sử ông Bá tước đã gặp một kẻ táo bạo và quyết đoán, thì nhiều nhất cũng chỉ có nghĩa là ông ấy đã thay kẻ tòng phạm bằng một kẻ nguy hiểm hơn. Thế thì sẽ là ngu ngốc, mà ông Bá tước lại là một người cương nghị. Vậy trong vụ án này không có chuyện cho không. Tuy nhiên, để khỏi áy náy, mình sẽ phải xem xét khía cạnh đó.
Mặt khác, bà quả phụ Lerouge, người đã dám đánh tráo những đứa trẻ còn ở tuổi bú sữa, rất có thể dám nhận nhiều nhiệm vụ nguy hiểm khác. Ai mà biết được rằng liệu bà ấy có dính đến những người khác nữa, và giờ họ muốn thoát khỏi bà ấy hay không? Có một bí mật mình đang nóng lòng muốn biết mà chưa nắm được. Ít ra thì giờ mình đã tin chắc rằng bà ấy bị giết không phải để ngăn Noël lấy lại quyền của một người con hợp pháp. Chắc hẳn bà ấy phải bị thủ tiêu vì một lý do gì đó tương tự, do một kẻ vô lại dữ tợn, từng trải và có những động cơ giống như mình đã nghi cho Albert. Mình cần phải đi theo hướng này. Trước tiên mình cần tìm hiểu tiểu sử của bà quả phụ cần mẫn kia, và mình sẽ có được điều đó, vì lẽ những thông tin được yêu cầu về nơi sinh của bà chắc sẽ được gửi về Viện công tố vào ngày mai.
Trở lại với Albert, lão Tabaret cân nhắc những lời buộc tội chống lại chàng trai trẻ này và đánh giá cơ hội dành cho anh.
- Về mặt cơ hội, - ông lẩm nhẩm - mình chỉ nhìn thấy sự ngẫu nhiên và vai trò của mình, tức là tạm thời gần như bằng không, về những lời buộc tội, chúng lại có quá nhiều. Vậy nhưng mình không hoang mang. Chính mình là người đã tập hợp những lời buộc tội đó, và mình biết chúng có giá trị như thế nào; chúng vừa là tất cả lại vừa chẳng là gì. Những bằng chứng này, cho dù gây ấn tượng mạnh, thì có thể chứng minh được gì trong những tình huống thế này, khi mà người ta có thể hoài nghi chính ý nghĩa của chúng! Albert đang là nạn nhân của những sự trùng hợp không thể giải thích nổi, nhưng một lời lập luận cũng có thể giải thích được tất cả. Mình đã thấy nhiều trường hợp như vậy! Trường hợp tệ hại nhất là trong vụ án anh chàng thợ may. Vào lúc năm giờ chiều, anh chàng này đã mua một con dao rồi nói với mười người bạn của mình, “Con dao này là để dành cho vợ tớ, mụ ta là một kẻ vô lại đã phản bội tớ để đi với trai.” Đến tối, những người hàng xóm nghe thấy tiếng cãi nhau gay gắt giữa hai vợ chồng, tiếng kêu thét, đe dọa, giậm chân, đánh đấm, rồi đột nhiên tất cả im bặt. Hôm sau, anh chàng thợ may biến mất và người ta thấy vợ anh nằm chết với chính con dao của anh cắm giữa hai vai ngập đến cán. Thế mà kẻ giết người lại không phải là anh thợ may mà là gã tình nhân ghen tuông. Sau chuyện đó thì mình biết tin vào cái gì đây? Đúng là Albert không muốn nói mình đã ở đâu vào buổi tối hôm đó. Cái đó không liên quan gì đến mình. Đối với mình, vấn đề không phải là chỉ ra anh ta đã ở đâu, mà là phải chứng minh được rằng tối hôm đó anh ta không hề có mặt ở La Jonchère. Có thể ông Gévrol đã đi đúng hướng. Thành thật chúc mừng ông ấy! Vâng, Chúa hãy phù hộ cho ông ấy thành công! Hãy để ông ấy chế giễu mình bằng những lời lẽ xúc phạm nhất, lòng tự phụ và sự suy đoán ngốc nghếch của mình rất đáng phải nhận sự trừng phạt tối thiểu ấy. Mình đã tốn bao công sức và tiền của chỉ để biết rằng thủ phạm vẫn được tự do! Một nửa tài sản của mình chỉ là một sự hy sinh không đáng giá. Nếu mình thất bại thì sao? Nếu như, sau khi gây tội, mình không có khả năng gỡ tội…
Lão Tabaret lên giường mà rùng mình với ý nghĩ cuối cùng kia.
Ông ngủ thiếp đi, và ông đã gặp một cơn ác mộng đáng sợ.
Mất hút trong đám đông đê tiện chen lấn trên quảng trường Roquette, nơi diễn ra những cơn co giật của một tử tù trước sự trả thù của xã hội, ông đang chứng kiến cuộc hành quyết Albert. Ông nhận ra con người khốn khổ này, hai tay bị trói ngoặt ra đằng sau, cổ áo sơ mi bị bẻ lật xuống, đang tựa vào một vị linh mục để cẩn thận bước lên bậc thang của đoạn đầu đài. Ông nhìn thấy anh đứng trên bệ máy chém định mệnh, lướt ánh mắt kiêu hãnh nhìn đám đông đang khiếp hãi. Đôi mắt của người tử tù nhanh chóng bắt gặp ánh mắt ông, rồi, giật đứt phăng dây trói, anh chỉ cho đám đông thấy lão Tabaret và hét to, “Ông kia là kẻ đã giết ta!” Ngay lập tức có tiếng huyên náo nguyền rủa ông. Ông muốn bỏ chạy, nhưng hai chân ông dính chặt xuống đất; ông muốn ít ra là nhắm được mắt, nhưng ông không thể, một sức mạnh bí ẩn và không thể cưỡng lại bắt ông phải nhìn. Sau đó Albert còn la lên, “Ta vô tội, thủ phạm là…” Anh nói ra một cái tên, đám đông nhắc lại, thế mà ông không nghe thấy, không thể nào nghe rõ được. Cuối cùng, đầu người tử tù rơi xuống.
Ông lão thét lên một tiếng và tỉnh dậy, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa. Phải mất một lúc lâu ông mới tin được rằng những điều ông vừa nhìn và nghe thấy không phải là thật, và rằng ông đang ở nhà mình, nằm trên giường. Đó chỉ là một giấc mơ! Nhưng, như người ta nói, giấc mơ nhiều khi là điềm báo của Thượng đế. Trí tưởng tượng của ông bị kích động đến mức ông cứ cố hết sức để nhớ lại cái tên của thủ phạm mà Albert đã nói ra. Vì không nhớ nổi, ông liền ngồi dậy đi thắp nến; bóng tối khiến ông sợ, ông có cảm giác đêm đen đầy những bóng ma. Ông không dám nghĩ đến chuyện ngủ nữa. Bị ám ảnh bởi những nỗi lo âu, ông tự nguyền rủa bản thân và cay đắng tự trách cái nghề mà trước đó vẫn đem lại cho ông niềm vui thích này. Tội nghiệp loài người!
Ông rõ ràng là đã điên rồ quá mức vào cái ngày mà ông cứ khăng khăng muốn đi xin việc ở phố Jérusalem. Quả thực đó là một công việc hay và cao thượng đối với một người ở tuổi ông, một thị dân tốt bụng của thành Paris, giàu có và được mọi người kính trọng! Thế mà ông lại đang tự hào về những chiến tích của mình, cảm thấy vinh dự về óc tinh tế, huênh hoang về tài đánh hơi, lấy làm hãnh diện về biệt danh nực cười “Ông Biết Tuốt” của mình! Đúng là một lão già ngu ngốc! Ông kiếm được gì ở nghề chó săn này? Chỉ là sự khó chịu của mọi người, là sự khinh bỉ của bạn bè, đó là chưa kể đến nguy cơ góp phần khiến một người vô tội bị kết án. Sao ông lại không chịu tỉnh ngộ qua vụ án anh chàng thợ may cơ chứ?
Ôn lại những thành tích đáng thỏa mãn giành được trong quá khứ và so sánh chúng với những lo âu hiện tại, ông tự thề rằng mình sẽ không theo cái nghề này nữa. Cứu được Albert xong, ông sẽ tìm cho mình những thú vui ít nguy hiểm và được mọi người ưa thích hơn. Ông sẽ cắt đứt những mối quan hệ đang khiến bản thân cảm thấy xấu hổ; cảnh sát và tòa án sẽ tự dàn xếp được với nhau mà chẳng cần đến ông.
Cuối cùng, ánh sáng ban ngày mà ông đang nóng lòng mong đợi cũng đã xuất hiện.
Để giết thời gian, ông thong thả và chăm chút mặc quần áo, cố để cho đầu óc mình bận tâm đến những chi tiết vật chất, tìm cách để mình nhầm lẫn thời giờ bằng việc nhìn vào chiếc đồng hồ quả lắc đến hai mươi lần xem nó có bị chết không.
Mặc dù cố làm mọi việc một cách chậm chạp, nhưng khi ông đến gặp ngài Thẩm phán thì vẫn mới có tám giờ sáng. Để khỏi mang tiếng là vô ý tứ, ông xin lỗi ngài Thẩm phán và nói vì những lý do nghiêm trọng nên ông phải đến gặp ngài sớm thế này.
Cáo lỗi cũng bằng thừa. Ông Daburon chẳng thấy phiền hà gì vào tám giờ sáng cả. Giờ này ông đã bắt đầu làm việc rồi. Ông tiếp ông lão tình nguyện của Sở Cảnh sát với một thiện chí như mọi ngày, thậm chí ông còn đùa vui một chút về thái độ kích động của lão hôm qua. Ai có thể tin là lão nhạy cảm như thế chứ! Chắc là ngủ một đêm đã đem lại cho lão một lời khuyên. Lão đang đem đến cho ta những ý nghĩ lành mạnh hơn, hay là lão đã tóm được tên tội phạm đích thực?
Với một ông quan tòa mà vẫn bị mang tiếng là nghiêm túc đến buồn tẻ thì giọng đùa cợt quá trớn kia càng khiến ông lão ngao ngán. Thái độ giễu cợt đó phải chăng đang ẩn giấu một định kiến là sẽ không thèm quan tâm đến những gì ông sắp nói? Nghĩ vậy, ông bắt đầu bài biện hộ của mình không một chút ảo tưởng.
Lần này ông tỏ ra bình tĩnh hơn, nhưng vẫn quyết liệt vì một niềm tin đã được suy nghĩ chín chắn. Từ đáy lòng, ông nói với một lý trí tỉnh táo. Nhưng, mặc dù nỗi nghi ngờ là một loại bệnh lây lan, ông vẫn không làm lay chuyển cũng như tiêm nhiễm được nó cho ngài Thẩm phán. Những lập luận chặt chẽ nhất của ông cũng phải chùn bước trước một niềm tin tuyệt đối, giống như những mẩu bánh mì ném vào áo giáp. Và điều đó chẳng có gì phải ngạc nhiên.
Lão Tabaret chỉ có một lý thuyết tinh tế, tức là chỉ có lời nói, để dựa vào. Còn ông Daburon thì có các bằng chứng là các sự vật hiển nhiên, sờ thấy được. Và vụ này diễn biến theo cách mà mọi lý lẽ lão già đưa ra để biện minh cho Albert có thể phản lại chính ông và khẳng định sự có tội của anh.
Sự thất bại của ông Thẩm phán được lão Tabaret dự đoán quá rõ nên ông cũng không thấy lo lắng và nhụt chí. Ông tuyên bố rằng tạm thời ông sẽ không nói nhiều về chuyện này nữa; ông có đầy đủ niềm tin vào óc sáng suốt và tính vô tư của ngài Thẩm phán điều tra, ông chỉ cần ngài cảnh giác trước những suy đoán mà tiếc thay, chính ông là người trước đó đã cố công gợi ý.
- Ngài sẽ tiến hành thu thập những bằng chứng mới. - Ông nói thêm - Bây giờ mới là điều tra bước đầu và còn nhiều việc chúng ta chưa biết, ngay cả quá khứ của bà quả phụ Lerouge. Biết bao nhiêu chuyện có thể sẽ lộ ra. Không biết người đàn ông đeo khuyên tai mà Gévrol đang theo đuổi kia sẽ khai những gì?
Mặc dù trong lòng đang điên tiết đến mức muốn chửi rủa và đấm đá cái người mà trong thâm tâm ông đánh giá là một vị “quan tòa ngu ngốc”, nhưng lão Tabaret vẫn tỏ ra nhún nhường và ngon ngọt. Đó là vì ông vẫn muốn được biết những bước đi tiếp của vụ án và được thông tin về kết quả của những cuộc hỏi cung sắp tới. Cuối cùng, ông kết thúc bằng việc xin một ân huệ được nói chuyện với Albert; ông nghĩ rằng những gì ông đã làm đáng để cho ông được hưởng ân huệ nhỏ nhặt này. Ông muốn được nói chuyện riêng với Albert chỉ mười phút thôi.
Daburon bác bỏ yêu cầu này. Ông tuyên bố rằng tạm thời bị can vẫn dứt khoát phải bị giam trong ngục kín.
Để an ủi, ông Thẩm phán nói thêm rằng trong ba hoặc bốn ngày nữa có thể ông sẽ xem lại quyết định đó, khi mà những lý do khiến nó tồn tại không còn nữa.
- Thưa ngài, sự từ chối của ngài thật là tàn nhẫn, - lão Tabaret nói - tuy nhiên tôi hiểu và xin chấp nhận.
Đó là lời phàn nàn duy nhất của ông, và gần như ngay lập tức ông cáo lui, vì sợ rằng mình sẽ không kìm nén được cơn bực tức.
Ông thấy rằng ngoài niềm sung sướng vô bờ là cứu được một người vô tội đang bị phương hại do sự bất cẩn của mình, ông còn cảm thấy có một niềm vui khó tả là trả thù được ông Thẩm phán cứng đầu.
- Ba hoặc bốn ngày, - ông lẩm nhẩm - có nghĩa là ba hoặc bốn thế kỷ đối với kẻ bất hạnh ở trong tù. Nói thì dễ lắm, thưa ngài quan tòa. Từ nay đến lúc đó tôi sẽ làm rõ sự thật!
Vâng, ba hoặc bốn ngày, ông Daburon không đòi hỏi hơn để có thể bắt Albert phải thú tội, hoặc ít nhất cũng bắt anh ta phải từ bỏ sự ngoan cố của mình.
Điều không may của bên công tố là không thể đưa ra được bất kỳ một nhân chứng nào đã nhìn thấy Albert vào buổi tối của ngày Thứ Ba Ăn Mặn.
Chỉ cần một lời khai theo chiều hướng này cũng sẽ có một tầm quan trọng quyết định, cho nên ngay khi lão Tabaret đi khỏi, ông Daburon đã quyết dành mọi nỗ lực để điều tra theo hướng đó.
Ông vẫn có thể có nhiều hy vọng; hôm nay mới là thứ Sáu, ngày xảy ra án mạng vẫn còn đủ nóng hổi để người ta có thể nhớ được, và ông vẫn chưa có thời gian để tiến hành điều tra một cách bài bản.
Năm mật thám thành thạo nhất của đội an ninh đã được phái về Bougival, trong tay có bản chụp ảnh thẻ của Albert. Họ sẽ phải lùng sục khắp từ Rueil đến La Jonchère, họ phải tìm kiếm, lấy thông tin, hỏi dò, phải điều tra thật kỹ lưỡng và tỉ mỉ. Bức ảnh sẽ tạo thuận lợi đặc biệt cho nhiệm vụ của họ. Họ được lệnh đưa bức ảnh ra cho tất cả mọi người, ở mọi nơi xem, và còn để lại đó hàng chục bức ảnh, vì họ đã được giao một lượng lớn những thứ như vậy. Không thể nào vào một buổi tối có bao người ra ngoài như thế mà lại không có ai bắt gặp chủ nhân trong bức chân dung, cho dù là ở ga Rueil, hoặc trên một chuyến tàu đi La Jonchère, hay trên đường cái quan hoặc đường mòn ven sông.
Với quyết định như vậy, ông Thẩm phán điều tra đi thẳng đến tòa án để sai người gọi bị can.
Ngay từ sáng sớm, ông đã nhận được một bản báo cáo thông báo cho ông biết chi tiết từng giờ về mọi hành động, cử chỉ và lời nói của người tù, được theo dõi một cách khôn khéo. Bản báo cáo khẳng định rằng không có gì cho thấy anh ta là thủ phạm. Anh ta tỏ ra rất buồn, nhưng không hề suy sụp. Anh ta không hề kêu ca, không hề đe dọa, không hề nguyền rủa tòa án, thậm chí không nói đến sai lầm tai hại. Sau khi ăn nhẹ, anh ta bước tới cửa sổ xà lim và đứng tựa ở đó hơn một giờ đồng hồ. Sau đó anh ta đi nằm và có vẻ đã có một giấc ngủ ngon.
Thật là một kẻ sắt đá! - Ông Daburon nghĩ khi bị can bước vào văn phòng.
Đó là vì trông anh chàng Albert chẳng có vẻ gì giống với kẻ khốn khổ hôm qua, khi mà, bị choáng váng trước những lời buộc tội dồn dập, bị bất ngờ bởi những đòn tấn công mau lẹ, anh giãy giụa dưới con mắt của ông Thẩm phán điều tra và có vẻ gần như đã suy sụp. Vô tội hay có tội thì anh cũng đã quyết rồi. Bộ mặt anh không hề để lộ một chút nghi ngờ nào về điều này. Đôi mắt anh thể hiện quyết tâm sẵn sàng hy sinh và có một vẻ kiêu kỳ mà người ta cho là sự khinh bỉ, nhưng điều này có thể được giải thích bằng thái độ oán hận của công chúng đến mức khiến anh bị xúc phạm. Trong anh, người ta thấy bóng dáng của một người tự tin đang bị nỗi bất hạnh làm chao đảo, nhưng vẫn không gục ngã.
Nhìn thái độ đó, ông Thẩm phán hiểu rằng chắc hẳn anh vừa nạp thêm nghị lực. Ông thừa nhận rằng con người có một bản tính mà sự tấn công sẽ chỉ kích thích sự cưỡng lại và sự đe dọa sẽ chỉ khiến nó thêm vững vàng. Bằng cách từ bỏ việc hăm dọa, ông định bụng sẽ tìm cách khiến anh mủi lòng. Đó là một chiến thuật bình thường, nhưng vẫn luôn thành công, giống như hiệu ứng chảy nước mắt trên sân khấu. Kẻ tội phạm nào đã căng sức để chống trả cú sốc đe dọa thì lại tỏ ra yếu ớt trước những lời phỉnh phờ của một thái độ bao dung càng ngon ngọt thì lại càng kém chân thành. Song, thái độ mủi lòng là thế mạnh của ông Daburon. Đã bao lần ông có được sự thú nhận bằng vài giọt nước mắt! Không có ai như ông, người biết cách gảy những sợi dây cũ kỹ nhưng vẫn có khả năng khiến trái tim của những kẻ hư hỏng nhất rung động: đó là danh dự, tình yêu và gia đình.
Đối với Albert, anh trở nên mềm lòng và nhân từ, hoàn toàn xúc động trước sự cảm thông sốt sắng này. Thật bất hạnh! Chắc là anh đã phải đau khổ biết bao, khi mà cả cuộc đời anh chỉ là một chuỗi ngày sung sướng! Thế mà bỗng nhiên mọi thứ quanh anh sụp đổ! Khi xưa, ai có thể tiên đoán được điều này, khi mà cuộc sống của anh chỉ là giấc mơ về một gia đình giàu có và nổi tiếng? Khi gợi lại quá khứ, ông Thẩm phán dừng lại ở những hồi ức cảm động của thời niên thiếu và khuấy động lớp tro bụi của những tình cảm đã tắt. Tận dụng tất cả những gì ông biết về cuộc đời của bị can, ông giày vò anh bằng những lời ám chỉ đau lòng nhất về Claire. Tại sao anh lại cứ ngoan cố giữ nỗi đau vô hạn này một mình như vậy? Chẳng lẽ không có ai cảm thấy hạnh phúc được chia sẻ cùng anh trên đời sao? Tại sao anh cứ phải giữ sự im lặng nhẫn tâm này? Chẳng lẽ anh không cần vội vàng trấn an người mà cuộc đời đã gắn bó với mình? Anh phải làm gì đây? Chỉ cần một lời khai thôi. Khi ấy, nếu không được tự do thì anh cũng sẽ được trả về với đời, nhà tù sẽ trở thành nơi trú ngụ dễ chịu, sẽ không còn bị biệt giam nữa, bạn bè sẽ đến thăm anh, anh sẽ được tiếp bất cứ ai mà anh muốn.
Đây không phải là một ông Thẩm phán đang nói, mà là một người cha vẫn giữ trong đáy lòng những tình cảm bao dung nhất.
Daburon còn nói thêm nữa. Có lúc ông muốn hình dung mình ở vào địa vị của Albert. Anh ta sẽ làm gì sau sự phát giác khủng khiếp kia? Ông gần như không dám tự hỏi. Ông thông cảm cho vụ sát hại bà quả phụ Lerouge, ông hiểu chuyện đó, và gần như là tha thứ cho nó. Đây là ông đang giăng một cái bẫy khác. Ông nói đây là một tội ác mà xã hội có thể, nếu không nói là lãng quên thì ít nhất cũng đã tha thứ đến một mức độ nào đó, bởi vì động cơ gây án không có gì đáng xấu hổ. Tòa án nào mà không tìm ra được những tình tiết giảm nhẹ cho một giờ phút hoang tưởng rất có thể thông cảm được đó? Hơn nữa, thủ phạm đầu tiên và lớn nhất chẳng phải chính là Bá tước Commarin sao? Chẳng phải chính sự điên rồ của ông đã gây ra cái kết cục khủng khiếp này? Con trai ông là nạn nhân của định mệnh, vậy thì ông sẽ phải khóc thương cho anh ấy chứ?
Với bài văn này, ông Daburon đã nói rất dài, tìm những sự việc mà theo ông là rất thích hợp để làm yếu mềm trái tim cứng rắn của kẻ giết người. Và kết luận luôn là nếu khôn ngoan thì nên thú nhận. Nhưng ông đã phí công đọc bài hùng biện của mình, chẳng khác gì lão Tabaret cũng đã phí công hùng biện hòng thuyết phục ông. Albert không hề tỏ ra xúc động; anh chỉ đưa ra những câu trả lời vô cùng ngắn gọn. Anh bắt đầu và kết thúc cũng giống như lần đầu, bằng một câu phản bác vì sự vô tội của mình.
Vẫn còn một thử thách nữa mà người ta thường mong đợi là sẽ cho kết quả.
Vào cùng ngày, Albert được dẫn đến xem thi thể bà quả phụ Lerouge. Anh tỏ ra xúc động trước cảnh tượng tang tóc đó, nhưng không hơn bất kỳ người nào bị buộc phải ngắm nhìn nạn nhân của một vụ giết người sau bốn ngày xảy ra án mạng. Khi một trợ lý của ông Thẩm phán nói:
- Ôi! Ước gì bà ấy có thể nói được!
Thì Albert trả lời:
- Thế thì quá may mắn cho tôi.
Từ buổi sáng, ông Daburon đã không giành được một chút lợi thế nhỏ nhất nào. Ông đang sắp phải thú nhận thất bại trong trò diễn của mình, và mưu toan cuối cùng này cũng không đem lại thành công. Thái độ cam chịu thản nhiên của bị can khiến con người quá tự tin vào hành động của mình phải nổi cơn bực tức cùng cực. Mọi người đều thấy rõ thái độ bực bội đó của ông khi mà, đột ngột từ bỏ thái độ dỗ dành ngon ngọt, ông xẵng giọng ra lệnh giải bị can về ngục.
- Ta sẽ tìm ra cách bắt hắn phải thú nhận! - Ông gầm gừ qua kẽ răng.
Có lẽ ông đang tiếc những thứ công cụ điều tra đáng yêu của thời trung cổ, những thứ có thể khiến bị can nói ra tất cả những gì người ta muốn. Chưa bao giờ ta gặp phải một tên tội phạm có nghị lực tinh thần như thế này. - Ông nghĩ - Thực sự thì hắn trông đợi gì ở cách phủ nhận đến cùng như vậy? Sự ngoan cố vô lý trước những bằng chứng thu được đang khiến ông Thẩm phán tức tối. Nếu Albert nhận tội thì có thể ông sẽ sẵn sàng động lòng thương hại; nếu phủ nhận thì anh sẽ phải chạm trán với một kẻ thù không đội trời chung.
Đó là tình huống sai lầm đã chế ngự và làm mờ mắt vị quan tòa vốn có bản tính hết sức nhân từ và độ lượng. Trước đây ông đã mong Albert vô tội, thì giờ đây ông dứt khoát muốn anh có tội. Và điều này có hàng trăm lý do mà ông không thể nào cắt nghĩa được. Ông nhớ lại là mình đã coi Tử tước Commarin là tình địch và đã suýt giết chết anh ta. Chẳng phải là ông đã ăn năn hối hận vì đã ký lệnh bắt giam và đã nhận nhiệm vụ điều tra vụ án này sao? Và còn có thêm một điều đáng phàn nàn nữa, đó là sự quay ngoắt khó hiểu của lão Tabaret.
Tất cả những lý do đó khiến ông Daburon trở nên hung hăng lo lắng và đẩy ông đi xa hơn trên con đường đã chọn. Từ nay, mục tiêu của ông là biện minh cho thái độ của mình với tư cách là một quan tòa, hơn là đi tìm bằng chứng buộc tội Albert. Vụ án đang chuyển thành một vấn đề cá nhân của ông.
Quả thực, nếu bị can được chứng minh vô tội thì ông sẽ trở nên không thể tha thứ được dưới chính mắt mình. Ông tự trách mình ghê gớm và khi cảm giác về những sai lầm của mình gia tăng, thì ông lại càng sẵn sàng làm mọi việc để thuyết phục kẻ tình địch cũ của mình, thậm chí là lợi dụng cả quyền hành để làm điều đó. Logic của các sự kiện đang lôi cuốn ông. Ông cảm thấy danh dự của chính mình đang gặp nguy. Ông đang triển khai một hoạt động say mê mà chưa bao giờ ông có được trong bất cứ một cuộc điều tra nào khác.
Suốt cả ngày Chủ nhật, ông dành thì giờ để nghe báo cáo của các viên cảnh sát ở Bougival.
Họ khẳng định rằng mình đã phải rất vất vả; tuy nhiên họ chẳng cung cấp được thông tin gì mới cả.
Họ nghe nói là có một người đàn bà cho rằng đã nhìn thấy kẻ giết người ra khỏi nhà bà quả phụ Lerouge, nhưng không ai mô tả cũng như nói được tên của người đàn bà đó.
Nhưng tất cả cảnh sát đều cho rằng họ có bổn phận phải báo cáo với ngài Thẩm phán là có một cuộc điều tra khác cũng đang được tiến hành đồng thời với họ, đó là cuộc điều tra của lão Tabaret. Ông này đã lùng sục khắp địa bàn với một cỗ xe được một con ngựa chạy rất nhanh kéo. Ông đã hành động rất mau lẹ, bởi vì bất cứ chỗ nào họ có mặt thì đều đã thấy ông ở đó rồi. Có vẻ như ông có hơn chục người dưới quyền mình, trong đó ít nhất bốn người là nhân viên Sở Cảnh sát. Các nhân viên trong nhóm của Daburon đều bắt gặp ông, và ông nói chuyện với tất cả bọn họ. Với một người, ông nói:
- Các anh giơ cái bức ảnh này ra để làm gì? Trong bốn ngày các anh sẽ ngập đầu vì các nhân chứng, những người mà vì ba đồng franc, họ sẽ thi nhau mô tả cho các anh người trong bức hình này.
Ông gọi một viên cảnh sát khác mà ông gặp trên đường cái quan và cười nhạo anh ta:
- Anh bạn ngây thơ quá! Ai lại đi tìm một người ở giữa đường thế này, hãy nhìn sang bên cạnh thì mới thấy được.
Cuối cùng, ông chạm trán với hai người đang ngồi trong một quán cà phê ở Bougival và nói riêng với họ:
- Tôi tóm được hắn rồi. Hắn tinh vi lắm, hắn từ Chatou đến đây. Có ba người đã nhìn thấy hắn, đó là hai nhân viên chuyển hàng của đường sắt và một người thứ ba mà lời chứng của ông ấy sẽ có ý nghĩa quyết định, bởi vì ông ấy đã nói chuyện với hắn. Và hắn nghiện thuốc lá.
Daburon giận lão Tabaret ghê gớm đến nỗi ông lập tức đi Bougival để lôi cổ lão già sốt sắng kia về Paris, ngoài ra, ông định bụng sau đó sẽ đề nghị người có thẩm quyền trừng trị lão ta. Nhưng chuyến đi thật vô ích. Lão Tabaret, chiếc xe, con ngựa nhanh chân cùng hơn chục người của ông đã mất hút, hay ít nhất là không thể tìm thấy họ.
Trở về nhà, vừa mệt vừa bực mình, ông Thẩm phán điều tra thấy bức điện của ông Đội trưởng an ninh được viết ngắn gọn có mấy chữ:
Rouen, Chủ nhật.
Đã tìm thấy đối tượng. Tối nay chúng tôi sẽ về Paris. Lời chứng rất có giá trị.
Gévrol.