Chương 17
Hết sức bối rối và bận tâm vì những điều phát giác của tiểu thư Arlange, ông Daburon đang nặng nề leo lên cầu thang dẫn đến dãy hành lang của các Thẩm phán điều tra thì chạm trán với lão Tabaret. Ông vui sướng gọi ngay:
- Ông Tabaret..!
Nhưng ông già, có vẻ vì đang vô cùng bồn chồn nên không hề có ý muốn bỏ phí một phút để dừng lại.
- Xin lỗi, thưa ngài, - ông chào ông Thẩm phán - có người đang đợi tôi ở nhà.
- Nhưng tôi hy vọng…
- Ồ, anh ấy vô tội. - Lão Tabaret ngắt lời - Tôi đã có thêm một vài bằng chứng rồi, và trong ba ngày nữa… Nhưng ngài hãy chuẩn bị nghe lời khai của người đàn ông đeo hoa tai của ông Gévrol đi. Ông này rất ranh mãnh, ông Gévrol ấy, tôi đã đánh giá thấp ông ấy.
Rồi không nói thêm một lời, ông lại chạy tiếp, nhảy ba bước cầu thang một lúc, bất chấp việc có thể ngã gãy cổ.
Ông Daburon đành phải bước tiếp, đầy thất vọng.
Ngoài hành lang, trước cửa văn phòng của ông, trên chiếc ghế băng bằng gỗ thô, Albert đang ngồi đợi cùng với một người lính gác ngục.
- Tôi sẽ cho gọi anh ngay. - Ông nói và mở cửa.
Trong văn phòng, Constant đang ngồi nói chuyện với một người đàn ông bé nhỏ có vẻ mặt ranh ma mà nhìn cách ăn mặc người ta có thể tưởng là một nhà đầu cơ nhỏ lẻ ở xứ Batignolles, nếu không có cái ghim “hàng giả” kẹp cà vạt óng ánh làm lộ ra là một nhân viên an ninh.
- Anh đã nhận được mấy bức thư của tôi chứ? - Daburon hỏi viên lục sự.
- Thưa ngài, lệnh của ngài đã được thi hành. Bị can đang đợi ngoài kia, còn đây là anh Martin vừa mới từ khu phố Thương binh trở về.
- Thế thì tốt rồi. - Vị quan tòa nói với giọng hài lòng.
Rồi ông quay sang anh nhân viên an ninh và hỏi:
- Thế nào anh Martin, anh đã thấy những gì?
- Thưa ngài, đã có một vụ trèo tường.
- Lâu chưa?
- Năm hoặc sáu ngày.
- Anh chắc chứ?
- Chắc như mắt tôi nhìn thấy anh Constant đây đang gọt lông chim[*].
[*]Hồi xưa người ta dùng lông chim làm bút viết (ND).
- Dấu vết còn rõ không?
- Rõ như chiếc mũi giữa khuôn mặt, thưa ngài, nếu tôi có thể ví như thế. Tên trộm, vì tôi nghĩ đúng là một tên trộm, - Martin nói tiếp như một người khéo ăn khéo nói - đã đột nhập vào vườn trước cơn mưa và quay ra sau khi mưa đã ngớt, đúng như ngài Thẩm phán điều tra đã phỏng đoán. Có thể dễ dàng xác định tình tiết này khi so sánh dấu vết trèo lên với dấu vết trèo xuống dọc bức tường phía ngoài đường. Dấu vết là những vết rạch xước do mũi giày gây nên. Một số vết còn hằn rõ ràng, những vết khác thì dính bùn đất. Gã này, đúng là một gã lanh lẹn, đã leo vào bằng cách bám vào tường, nhưng khi đi ra thì hắn tự cho phép mình sử dụng một chiếc thang mà sau đó được ném trở lại xuống đất. Ta có thể thấy rõ chiếc thang được dựa vào chỗ nào: phía dưới còn in rõ lỗ chân thang, phía trên đỉnh tường thì vôi vữa bị lở.
- Có thế thôi à? - Ông Thẩm phán hỏi.
- Vẫn chưa hết, thưa ngài. Có ba chiếc đít chai gắn trên đỉnh tường đã bị bung ra. Có mấy cành cây keo vươn ra bên trên đúng chỗ bức tường đó đã bị vặn hoặc bẻ gãy. Thậm chí trên lớp vỏ gai của một cành cây tôi còn thu được một mẩu da xám nhỏ, và nó có vẻ là của một chiếc găng tay.
Ông Thẩm phán vồn vã đón lấy mẩu da rách.
Đúng là một mẩu găng tay màu xám.
- Anh Martin, - ông Daburon nói - tôi hy vọng là anh đã sắp đặt sao cho không đánh thức sự chú ý của ngôi nhà mà anh đã thực hiện cuộc điều tra này chứ?
- Tất nhiên, thưa ngài. Đầu tiên, tôi thoải mái kiểm tra bên ngoài. Sau đó tôi cất mũ ở nhà ông hàng rượu ở góc phố và đến trình diện bà Hầu tước Arlange bằng cách giả vờ là quản lý của một bà Công tước ở cạnh đó, trình bày sự cố đáng tiếc là để sổng một con vẹt quý và xin phép được vào để tìm. Người ta đã rất vui lòng cho phép tôi vào lục tìm khu vườn, và vì tôi nói đến nỗi buồn bực của bà chủ giả của mình nên họ tưởng tôi là một anh gia nhân…
- Anh Martin, anh là một người khôn khéo và tháo vát, - ông Thẩm phán ngắt lời - tôi rất hài lòng về anh và sẽ báo cáo chuyện này lại với người có thẩm quyền.
Ông lắc chuông trong khi anh nhân viên, với vẻ tự hào vì được khen, cúi gập nửa vòng tròn rồi lùi ra cửa.
Albert được dẫn vào phòng. Ông Thẩm phán điều tra hỏi luôn không cần rào trước đón sau:
- Anh đã quyết định cho biết là anh đã làm gì tối thứ Ba chưa?
- Tôi đã nói rồi, thưa ngài.
- Không đúng, thưa anh, không, tôi rất tiếc phải nói rằng anh đã nói dối.
Trước lời mắng mỏ này, mặt Albert trở nên tím tái, hai mắt long lên.
- Tôi biết những gì anh đã làm tối hôm đó, - ông Thẩm phán nói tiếp - bởi vì tòa án, như tôi đã nói với anh rồi, không bỏ qua bất cứ điều gì mà nó cho là quan trọng cần phải biết.
Ông tìm ánh mắt Albert rồi chậm rãi nói:
- Tôi đã gặp tiểu thư Arlange.
Nghe thấy cái tên này, nét mặt của bị can, mới vừa nãy còn co rúm lại vì quyết chí không chịu khuất phục, giờ đã dãn ra.
Có thể nói anh đang cố giữ một cảm giác thoải mái, giống như một người mà nhờ phép màu vừa thoát khỏi một tai họa sắp xảy ra mà anh đang tuyệt vọng muốn gạt bỏ.
Tuy nhiên anh vẫn không đáp gì.
- Tiểu thư Arlange, - ông quan tòa nói tiếp - đã nói cho tôi biết anh ở đâu tối thứ Ba.
Albert vẫn ngập ngừng.
- Tôi không giăng bẫy anh đâu, - ông Daburon nói thêm - xin thề danh dự với anh. Nàng đã nói với tôi tất cả, anh có hiểu không?
Lần này, Albert quyết định khai.
Những lời trình bày của anh khớp từng điểm với lời khai của Claire, không thêm một chi tiết nào. Vậy là không thể nghi ngờ điều gì nữa.
Lòng thành thực của tiểu thư Arlange thì không thể nghi ngờ. Như vậy, hoặc là Albert vô tội, hoặc nàng là tòng phạm của anh.
Liệu nàng có cố tình làm tòng phạm cho tội ác ghê tởm này? Không, thậm chí còn không thể nghi ngờ nàng có ý định đó.
Nhưng nếu thế thì phải tìm kẻ giết người ở đâu? Bởi với tòa án, có tội ác là phải có tội phạm.
- Anh thấy đấy, thưa anh, - ông Thẩm phán nghiêm khắc nói với Albert - anh đã nói dối tôi. Anh đã đánh liều cái đầu của mình, và một điều rất nghiêm trọng nữa là anh đã đẩy tôi, tức là anh đã đẩy tòa án, sa vào một sai lầm tệ hại. Tại sao anh không nói ra sự thật ngay từ đầu?
- Thưa ngài, - Albert đáp - khi chấp nhận hẹn gặp là tiểu thư Arlange đã phó thác danh dự cho tôi…
- Thế anh thà chịu chết hơn là khai ra cuộc gặp này sao? - Ông Daburon ngắt lời với vẻ mỉa mai - Chuyện đó thật là đẹp, anh ạ, và chỉ đáng với thời hiệp sĩ xưa cũ thôi…
- Tôi không phải là người hùng như ngài tưởng đâu, thưa ngài. - Anh chàng bị can đáp gọn - Nếu tôi nói rằng mình không trông cậy vào Claire thì là tôi nói dối. Tôi vẫn chờ đợi điều đó. Tôi biết rằng khi nghe được tin tôi bị bắt nàng sẽ bất chấp tất cả để cứu tôi. Nhưng người ta có thể giấu nàng tai họa này, và đó chính là điều tôi lo sợ. Trong trường hợp đó, khi vẫn còn có thể tự chịu trách nhiệm về mình, tôi tin rằng mình vẫn sẽ không khai tên nàng ra.
Đây hoàn toàn không có vẻ gì là một lời khoác lác. Những gì Albert nói ra chính là điều anh nghĩ và cảm nhận. Ông Daburon bắt đầu thấy hối hận vì chất giọng mỉa mai của mình.
- Thưa anh, - ông nói với giọng nhân từ - người ta sẽ dẫn anh về nhà giam. Tôi vẫn chưa thể nói được gì, nhưng anh sẽ không bị biệt giam nữa. Người ta sẽ đối xử với anh bằng tất cả sự tôn trọng dành cho một tù nhân có khả năng là người vô tội.
Albert nghiêng mình cảm ơn. Người lính gác ngục bước vào dẫn anh đi.
- Bây giờ hãy cho Gévrol vào. - Ông Thẩm phán bảo viên lục sự.
Viên Đội trưởng an ninh không có mặt, người ta vừa gọi ông về Sở Cảnh sát, nhưng nhân chứng của ông, người đàn ông đeo khuyên tai, đang ngồi đợi ở ngoài hành lang.
Người ta bảo ông vào gặp ông Thẩm phán.
Đó là một người thuộc loại thấp lùn và có một thân hình tròn trịa, rắn chắc như gỗ sồi, giống như được xây lên bằng gạch và vữa, loại người có thể vác được ba bao thóc trên đôi vai khum vồng.
Mái tóc và bộ râu quai nón bạc trắng của ông làm nổi bật nước da rám nắng như bị rang cháy và sạm đi vì mưa nắng nhiệt đới.
Ông có hai bàn tay to, đen, rắn chắc và chai sạn, với những ngón tay to sần sùi hẳn là có sức mạnh ngang với một chiếc êtô. Hai tai ông đeo những chiếc khuyên tai lớn có hình chiếc mỏ neo. Ông mặc bộ quần áo đánh cá rất thoải mái của người Normandie, cả khi đi dạo phố lẫn đi chợ.
Ông mõ tòa đã phải đẩy ông vào văn phòng ông Thẩm phán, vì con người trông giống như sói biển này lại có vẻ nhút nhát và sợ sệt.
Ông loạng choạng bước tới từng chân một như kiểu đi của thủy thủ, những người mà, vốn đã quen với sự tròng trành và lắc lư trên tàu, nay ngạc nhiên khi thấy đất liền dưới chân mình bất động.
Để lấy lại tư thế, ông loay hoay cầm chiếc mũ phớt mềm được trang trí bằng những chiếc mề đay bằng chì, không kém gì chiếc mũ lưỡi trai uy nghi của vua Louis XI, để tỏ vẻ sùng kính, và được trang bị thêm một vành trang sức cuộn tròn bằng len giống kiểu được các thiếu nữ nông thôn dệt bằng một khung dệt cổ có cấu tạo gồm bốn hoặc năm chiếc ghim xuyên qua một chiếc nùi có khoét lỗ.
Ông Daburon lướt ánh mắt nhìn soi mói để đánh giá ông ta.
Không thể nghi ngờ gì nữa, đây đúng là người đàn ông có bộ mặt màu gạch mà nhân chứng ở làng La Jonchère đã mô tả.
Cũng không thể không nhìn nhận ông ta là một người lương thiện. Diện mạo của ông ta toát lên một vẻ chân thành và tốt bụng.
- Tên ông là gì? - Ông Thẩm phán điều tra hỏi.
- Marie-Pierre Lerouge.
- Vậy ông là họ hàng của bà Claudine Lerouge?
- Tôi là chồng bà ấy, thưa ngài.
Sao? Chồng của nạn nhân còn sống ư? Thế mà cảnh sát không biết gì đến sự tồn tại của ông ấy! - Daburon nghĩ - Thế này thì sự tiến bộ của ngành nhân khẩu học phỏng có ích gì?
Ngày hôm nay, khi tòa án do dự điều gì, thì vẫn giống như hai mươi năm trước, nó đã phải mất biết bao thời gian và tiền bạc để lấy được một thông tin nhỏ nhặt nhất. Trong nhiều trường hợp, nó đã phải vất vả lắm mới nắm được hoàn cảnh hộ tịch của một nhân chứng hoặc một bị can.
Hôm thứ Sáu, vào lúc ban ngày, người ta đã viết thư yêu cầu cung cấp hồ sơ của bà Claudine, đến hôm nay là thứ Hai mà người ta vẫn chưa nhận được báo cáo trả lời; trong khi giờ đã có nghề nhiếp ảnh, nghề điện tín, cùng hàng nghìn phương tiện mà trước đây không có được, vậy mà người ta vẫn không sử dụng chúng.
- Mọi người đều tưởng rằng bà ấy góa chồng, - ông Thẩm phán nói tiếp - bản thân bà ấy cũng khẳng định như thế.
- Đó là bởi chỉ bằng cách đó bà ấy mới có thể biện giải được một chút cho cách cư xử của mình. Vả lại đó là một sự thỏa thuận giữa chúng tôi. Tôi đã nói với bà ấy rằng đối với bà ấy tôi không còn tồn tại nữa.
- Ồ…! Ông có biết rằng bà ấy đã chết do một tội ác ghê tởm không?
- Thưa ngài, ông cảnh sát đến tìm tôi đã nói cho tôi biết rồi. - Ông thủy thủ nhíu mày đáp - Bà ấy là một người khốn nạn! - Ông nói thêm bằng giọng khản đặc.
- Sao? Ông là chồng mà cũng kết tội bà ấy ư?
- Tôi có quyền quá đi chứ, thưa ngài. Ôi, người cha quá cố của tôi ngay từ hồi xưa đã hiểu rõ điều này và đã cảnh báo tôi. Tôi đã cười khi ông ấy nói rằng, “Cẩn thận đấy, cô ta sẽ làm ô danh tất cả chúng ta.” Thế mà ông ấy đã nói đúng. Tôi đây, chỉ vì bà ấy mà đã bị cảnh sát săn đuổi, thật chẳng khác gì một tên trộm bị truy lùng và phải lẩn trốn. Cứ chỗ nào người ta đưa giấy tòa ra hỏi về tôi là người ta lại nói, “Đấy, thế là hắn lại làm một chuyện xấu xa rồi!” Thế là bây giờ tôi phải ra tòa đây. Ôi, thưa ngài, thật là đau khổ! Đó là vì từ đời này đến đời khác dòng họ Lerouge đều là những người lương thiện, từ cha đến con. Ông cứ hỏi mọi người ở quê tôi xem, họ đều sẽ nói, “Mỗi lời của nhà Lerouge đều đáng được viết ra.” Vâng, bà ấy là một kẻ khốn nạn, và tôi đã nói thẳng với bà ấy rằng bà ấy sẽ có một kết cục tồi tệ.
- Ông đã nói với bà ấy thế à?
- Vâng, thưa ngài, tôi đã nói cả trăm lần rồi.
- Và tại sao? Xem nào, ông bạn, ông hãy trấn tĩnh lại đi, danh dự của ông không hề bị nguy hại ở đây, không ai nghi ngờ gì điều đó. Ông đã cảnh báo bà ấy một cách khôn ngoan như thế từ khi nào?
- Ồ, lâu rồi, thưa ngài, lần đầu tiên là từ hơn ba mươi năm trước cơ. Bà ấy là kẻ tham vọng từ trong trứng, bà ấy thích can thiệp vào chuyện của giới quyền quý, đó chính là thứ khiến bà ấy tiêu đời. Bà ấy nói rằng người ta có thể kiếm được vàng bạc bằng việc giữ kín những điều bí mật, còn tôi thì nói có mà kiếm được sự ô nhục chứ chẳng có gì hơn. Ra tay giúp đỡ các nhà quyền quý che giấu những hành vi hèn hạ của họ để đổi lấy cuộc sống sung sướng thì chẳng khác gì nhồi gai nhọn vào nệm để mong được ngủ yên. Nhưng bà ấy cứ hành động mà chẳng hỏi ý kiến ai.
- Dù sao ông cũng là chồng, - Daburon phản bác - ông có quyền ra lệnh chứ?
Ông chồng lắc đầu và cất một tiếng thở dài.
- Than ôi, thưa ngài! Chính tôi lại là người phải nghe theo bà ấy.
Việc tiến hành những cuộc hỏi cung ngắn và cố tìm cách thu thập thông tin với một nhân chứng mà ta thậm chí còn không ý thức được những thông tin mà anh ta có thể cung cấp sẽ chỉ tổ mất thời gian. Có lúc ta tưởng như đang tiếp cận được một sự việc quan trọng thì lại khiến nó bị lạc hướng. Tốt hơn hết là ta cứ thả lỏng dây cương và cam chịu nghe anh ta nói, trừ phi phải lôi anh ta trở lại vấn đề khi thấy anh ta đã đi quá xa. Đó vẫn là con đường chắc chắn và ngắn nhất. Đây chính là quyết định mà ông Daburon lựa chọn, trong khi ông nguyền rủa sự vắng mặt của Gévrol, người mà chỉ với một câu nói chắc cũng có thể rút ngắn được nửa thời gian cuộc hỏi cung này, một cuộc hỏi cung mà ông Thẩm phán vẫn chưa ngờ được tầm quan trọng của nó.
- Vậy thì vợ ông đã vướng vào những vụ việc gì? - Vị quan tòa hỏi - Nào, thưa ông bạn, hãy kể thật chính xác cho tôi nghe. Ở đây, ông biết đấy, người ta phải nói không chỉ sự thật, mà là toàn bộ sự thật.
Từ nãy ông Lerouge đã đặt mũ lên một chiếc ghế. Giờ ông cứ lúc thì doãi ra doãi vào các ngón tay, bẻ chúng kêu răng rắc như muốn gãy, lúc thì ông gãi đầu gãi tai. Đó là cách ông tìm lời để nói.
- Xin được nói với ngài, - ông lên tiếng - rằng tôi bắt đầu yêu Claudine, tính đến ngày lễ thánh Saint-Jean sắp tới đây, đã ba mươi lăm năm. Thật đấy! Đó là một cô gái đẹp, đứng đắn, duyên dáng, có giọng nói ngọt ngào hơn cả mật ong. Nàng là người đẹp nhất vùng, lưng thẳng như cột buồm, nhưng lại mềm mại như cây liễu, mảnh mai và mạnh mẽ như một chiếc xuồng đua. Đôi mắt nàng long lanh như rượu táo lâu năm. Nàng có mái tóc đen, hàm răng trắng và hơi thở tươi mát như gió biển. Điều bất hạnh là nàng chẳng có gì, trong khi đó thì gia đình tôi thì lại sống sung túc. Mẹ nàng, một bà góa qua hàng chục đời chồng, và xin ngài thứ lỗi, là một kẻ chẳng ra gì, trong khi cha tôi là hiện thân cho sự lương thiện. Khi tôi nói với ông là sẽ lấy Claudine làm vợ, ông chửi rủa tôi thậm tệ, và tám ngày sau ông gửi tôi đi Porto trên chiếc thuyền buồm của một người hàng xóm, nói là để thay đổi không khí. Sau sáu tháng, tôi quay về, người gầy hơn cả cọc chèo, nhưng lại yêu mãnh liệt hơn trước. Kỷ niệm về Claudine khiến tôi dần trở nên héo hon. Tôi phát điên đến mức không muốn ăn muốn uống, và không sai khiến được mình nữa, tôi có ý nghĩ rằng nàng cũng yêu tôi một chút, bởi vì tôi là một chàng trai rắn rỏi và cũng được khá nhiều cô gái dòm ngó. Đến lúc đó thì cha tôi, vì thấy không làm được gì để thay đổi tôi, rằng tôi đang chết dần chết mòn không kịp trăn trối và đang từ từ đi theo bà mẹ quá cố của mình nằm ngoài nghĩa địa, đã quyết định để mặc cho tôi thỏa cơn điên. Một buổi tối, khi chúng tôi đi đánh cá về và thấy tôi không đụng đến đĩa của mình, ông liền bảo, “Thôi mày cưới cái con nghẽo đó đi, rồi thế là hết đời nhé!” Tôi nhớ rất rõ điều đó, vì rằng, khi nghe thấy cha tôi gọi người yêu mình bằng cái tên ấy, tôi như bị choáng và đã muốn giết chết ông, vì cưới vợ mà không được sự đồng ý của cha mẹ thì sẽ chẳng đem lại được hạnh phúc gì.
Ông thủy thủ tử tế đang sa đà vào những kỷ niệm xa xưa. Không phải là ông đang kể chuyện mà là đang đọc một bài xã luận. Ông Thẩm phán điều tra cố đưa ông trở lại vấn đề.
- Ta hãy đi vào vấn đề chính đi. - Ông nói.
- Thì tôi đang nói đến nó đây, thưa ngài Thẩm phán, nhưng ta phải nói cho có đầu có đuôi. Vậy là tôi lấy vợ. Buổi tối, sau lễ cưới, khi người thân và khách mời đã ra về, khi tôi đi vào buồng với vợ thì bắt gặp cha tôi đứng khóc trong góc nhà. Tôi thấy tim mình thắt lại và có một dự cảm không lành. Cuộc đời thật là đẹp trong sáu tháng đầu khi ta có được người vợ mà ta yêu quý! Nhìn nàng qua đám sương mù ta sẽ thấy những tảng đá bên bờ biển cũng biến thành những tòa lâu đài và nhà thờ, khiến những kẻ non nớt bị nhầm lẫn. Trong hai năm, trừ những cuộc cãi cọ vặt, mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ. Claudine điều khiển tôi như điều khiển một chiếc xuồng. Ôi, nàng thật là ranh ma! Nàng lôi tôi ra chợ để mua bán dù tôi chẳng hiểu gì hết. Cái tật lớn nhất của nàng là làm dáng. Tất cả những gì tôi kiếm được, vì việc làm ăn của tôi rất thuận lợi, nàng đều chuyển thành váy áo hết. Mỗi Chủ nhật nàng lại diện đồ mới; váy áo, mũ mão, tất cả những thứ đồ trang sức của quỷ sứ mà các nhà buôn phát minh ra để khiến đám đàn bà sa đọa. Những người hàng xóm chê bai nàng, nhưng tôi thì lại thấy thích. Để làm lễ rửa tội cho đứa con trai mà nàng đã sinh và tôi đã đặt tên là Jacques theo tên cha mình, để chiều lòng nàng, tôi đã tiêu sạch tất cả khoản tiền tiết kiệm thời trẻ, một khoản hơn 300 pistole[*] mà tôi đã định dùng để mua một bãi cỏ đã khiến tôi phát điên, bởi nó nằm lọt giữa những mảnh đất của nhà tôi.
[*]Pistole: một đơn vị tiền vàng cũ của Pháp, Tây Ban Nha, Italia, trị giá bằng 3 écu hay 10 livre. (ND).
Ông Daburon sôi lên vì sốt ruột, nhưng biết làm thế nào bây giờ?
- Tiếp tục đi, ông nói tiếp đi! - Ông nói mỗi khi ông Lerouge có vẻ muốn dừng lại.
- Vậy là, - ông thủy thủ nói tiếp - tôi đang sống khá hài lòng thì một buổi sáng, tôi thấy có một gia nhân nhà ngài Bá tước Commarin lượn lờ quanh nhà chúng tôi, ông Bá tước này có một lâu đài cách nhà chúng tôi một phần tư dặm ở phía bên kia thị trấn. Đó là một kẻ mà tôi không thể nào nhớ mặt nổi, một kẻ có tên là Germain. Người ta cho rằng ông ta dính dáng đến chuyện lỗi lầm của cô nàng Thomassine, một cô gái đẹp ở chỗ chúng tôi mà ngài Bá tước trẻ tuổi đã yêu thích và cô ta đã biến mất. Tôi hỏi vợ tôi rằng gã vô tích sự kia muốn gì; nàng trả lời là ông ta đến để đề nghị nàng nhận nuôi một đứa trẻ còn ăn bú. Ban đầu tôi không muốn nghe chuyện này. Cuộc sống đầy đủ của chúng tôi cho phép Claudine giữ được đủ sữa cho con trai mình. Nhưng rồi nàng bắt đầu nêu lý do để nhận nuôi con. Nàng nói rằng nàng hối hận vì thói làm đỏm và tiêu hoang của mình. Nàng muốn kiếm tiền, nói là xấu hổ vì mình chẳng làm gì, trong khi chồng thì nai lưng ra làm việc. Nàng xin được gom góp, tiết kiệm để sau này con trai khỏi phải đi biển. Người ta đề nghị trả nàng một khoản rất hời mà chúng tôi có thể dành dụm trong một thời gian ngắn để bù lại số tiền 300 pistole. Cuối cùng, cuộc sống như chó hoang mà nàng nhắc đến đã khiến tôi đồng ý.
- Bà ấy không nói rõ người ta giao cho mình nhiệm vụ gì ư? - Ông thẩm phán hỏi.
Câu hỏi này khiến ông Lerouge sửng sốt. Ông tưởng rằng việc người ta khẳng định tòa án thấy hết và biết hết là đúng chứ!
- Vẫn chưa nói. - Ông đáp - Nhưng ngài sẽ thấy đây. Tám ngày sau, một người đi bộ đem đến cho nàng một bức thư, trong đó nói yêu cầu nàng đến Paris đón đứa bé. Lúc đó là buổi tối. “Được rồi”, nàng nói, “ngày mai tôi sẽ đi xe ngựa đến.” Còn tôi, tôi không thèm nói một lời; chỉ đến sáng hôm sau, khi nàng trang điểm xong để chuẩn bị gọi xe thì tôi mới tuyên bố rằng sẽ đi cùng nàng. Nàng không hề tỏ ra bực bội. Nàng ôm hôn tôi và tôi thấy vui vì chuyện đó. Đến Paris, nàng sẽ phải đi đón đứa trẻ ở nhà bà Gerdy sống trên một đại lộ. Tôi thỏa thuận với Claudine rằng nàng sẽ đi đón đứa trẻ một mình, còn tôi sẽ đợi nàng ở quán trọ. Nhưng, khi nàng đi khỏi thì tôi thấy lo âu vì phải ở trong phòng. Sau một giờ đồng hồ, tôi ra khỏi quán trọ và lượn lờ quanh ngôi nhà của bà kia. Tôi dò hỏi đám gia nhân, hỏi thăm những người đi từ trong nhà ra, và tôi được biết rằng bà ấy là tình nhân của Bá tước Commarin. Điều này khiến tôi rất bất bình đến nỗi nếu tôi mà làm chủ được thì vợ tôi sẽ phải bỏ đứa trẻ lại mà ra về. Tôi chỉ là một anh thủy thủ nghèo hèn, nhưng tôi biết rằng một người đàn ông phải biết sống quên mình. Người ta có thể bị rượu xúi bẩy, đôi khi bị bạn bè lôi kéo. Nhưng một người có vợ con mà sống như vợ chồng với kẻ khác, hơn nữa lại còn lấy của cải của nhà mình cho kẻ đó thì tôi thấy không tốt, rất không tốt. Có phải thế không, thưa ngài?
Ông Thẩm phán bực bội cựa quậy trên ghế. Ông nghĩ, Liệu bao giờ người này mới hết chuyện đây?
- Phải, ông nghìn lần nói đúng, - ông đáp - nhưng đừng nghĩ ngợi nữa. Ông cứ kể tiếp đi, kể nhanh lên!
- Claudine, thưa ngài, lại bướng hơn một con lừa. Sau ba ngày bàn bạc hôn hít, nàng đã khiến tôi phải cầu Chúa mà đồng ý. Thế là nàng thông báo với tôi rằng chúng tôi sẽ không quay về bằng xe ngựa. Bà mẹ kia, vì sợ đứa bé sẽ bị mệt vì đi đường, nên đã thu xếp để người ta đưa chúng tôi về bằng những chặng ngắn trên chiếc xe riêng với ngựa kéo của bà. Đó là bởi bà ấy đã quen được chăm sóc theo cung cách quyền quý! Tôi khoái chí đến phát rồ, vì điều đó sẽ cho phép tôi được thoải mái ngắm nhìn phong cảnh đất nước. Thế là chúng tôi cùng với hai đứa trẻ được ngồi trên cỗ xe bốn bánh tuyệt đẹp, có những con ngựa kéo tuyệt vời, dưới sự điều khiển của một người đánh xe mặc chế phục. Vợ tôi điên lên vì vui sướng. Nàng ôm hôn tôi chùn chụt và để cho đám tiền vàng kêu lóc xóc trong túi. Còn tôi, tôi sững sờ như một người chồng lương thiện khi thấy trong nhà có những đồng tiền không phải do mình đem về. Chính vì thấy vẻ mặt của tôi như thế nên Claudine, với hy vọng khiến tôi vui, đã đánh liều kể cho tôi sự thật. “Này”, nàng bảo tôi…
Ông Lerouge ngừng lời, rồi đổi giọng nói tiếp:
- Ngài có hiểu không, đó là nàng bắt đầu nói với tôi.
- Vâng, vâng… Ông kể tiếp đi.
- Vậy là vừa xóc túi tiền nàng vừa nói, “Này, lang quân của em ơi, chúng ta sẽ tha hồ có những đồng tiền như thế này, và chàng sẽ biết tại sao: Ngài Bá tước, vì có một đứa con trai hợp pháp sinh ra cùng lúc với đứa trẻ này, nên ông muốn đứa con hoang này được mang họ của mình. Điều đó sẽ trông cậy vào em. Trên đường đi, đến một quán trọ mà chúng ta sẽ nghỉ đêm ở đó, chúng ta sẽ gặp ông Germain và chị vú nuôi của đứa con hợp pháp. Người ta sẽ để chúng em ngủ chung một phòng, và đến đêm, em sẽ có nhiệm vụ đánh tráo hai đứa trẻ mà người ta đã cố tình cho chúng mặc giống nhau. Vì chuyện này ngài Bá tước sẽ cho em 8.000 franc tiền mặt và một khoản trợ cấp trọn đời mỗi năm 1.000 franc.”
- Thế mà ông, - ông Thẩm phán kêu lên - ông nói mình là người lương thiện mà lại chịu được tội ác này, trong khi đáng ra chỉ một câu nói của ông cũng đủ ngăn nó lại!
- Xin ngài, - ông Lerouge van vỉ - xin ngài hãy để tôi nói hết đã…
- Được rồi, nói đi!
- Lúc đầu tôi không thể nói được gì vì cơn giận đã làm tôi tức nghẹn. Chắc là tôi đã tỏ ra đáng sợ lắm. Nhưng nàng, người vẫn sợ tôi khi tôi nổi nóng, đã phá lên cười, khiến tôi hoang mang. “Chàng thật là ngốc”, nàng bảo tôi, “hãy nghe em nói trước khi nổi cáu như một người nóng nảy. Chàng nghe đây, chính ông Bá tước là người phát cuồng muốn có đứa con hoang trong nhà mình; chính ông đã trả tiền để đánh tráo nó. Người tình của ông, mẹ của đứa trẻ này, lại không muốn thế. Người đàn bà, sở dĩ phải làm ra vẻ đồng ý là vì bà không muốn bất hòa với người tình và bà đã có kế hoạch riêng. Lúc ở trong phòng, bà đã kéo em ra một chỗ và sau khi bắt em thề trước cây thánh giá là phải giữ bí mật, bà đã nói với em rằng bà không thể quen với ý nghĩ sống xa con mãi mãi để nuôi con của một người khác. Bà nói thêm rằng nếu em đồng ý không đánh tráo hai đứa trẻ và không nói gì cho ông Bá tước biết, thì bà sẽ cho em ngay 10.000 franc và cũng đảm bảo cho em khoản trợ cấp hàng năm giống như ông Bá tước. Bà còn tuyên bố rằng sẽ biết rõ nếu em giữ lời, vì bà đã làm một dấu nhận dạng không thể xóa được trên người đứa trẻ rồi. Bà không chỉ cho em cái dấu ấy, còn em thì tìm hoài mà không thấy. Bây giờ thì chàng đã hiểu chưa? Em chỉ cần giữ cậu nhỏ này thôi; em sẽ khẳng định với ông Bá tước là em đã tráo nó rồi, chúng ta cứ nhận tiền từ cả hai phía, và thế là thằng Jacques của chúng ta sẽ giàu to. Hãy hôn vợ yêu của chàng đi, vì em tài trí hơn chàng đấy, chàng yêu ạ!” Thế đấy, thưa ngài, tôi vừa thuật lại đúng từng lời mà Claudine đã nói.
Ông thủy thủ thô lỗ rút chiếc khăn tay lớn in sọc ca rô màu xanh lơ rồi hỉ mũi mạnh đến nỗi làm rung cả cửa kính. Ông đang khóc.
Ông Daburon trở nên bối rối.
Từ lúc bắt đầu vụ án đau lòng này, ông đã đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ông vừa kịp sắp xếp các ý nghĩ vào một vấn đề thì sự chú ý của ông lại bị lôi kéo sang một vấn đề khác.
Ông đang nóng lòng muốn hỏi cung thật nhanh, nhưng ông Lerouge, ta thấy đấy, lại kể chuyện một cách khó nhọc, vất vả gỡ rối các kỷ niệm; một sợi dây phải được giữ chắc mới dẫn dắt ông được, chỉ cần một sự ngắt quãng nhỏ nhất cũng có thể làm đứt sợi dây này và làm mối tơ vò thêm rắc rối.
- Những gì mà Claudine đề nghị, - ông thủy thủ kể tiếp - là một sự ghê tởm, mà tôi lại là một người lương thiện. Nhưng khi đó, vợ tôi đã nhào nặn tôi như nặn bột mì. Cô ta khiến con tim tôi xúc động. Cô ta khiến tôi nhìn những thứ đen như mực thành ra trắng như tuyết, vì tôi yêu cô ta mà! Cô ta chứng minh cho tôi rằng chúng tôi chẳng làm hại ai cả mà lại đảm bảo được sự giàu có cho thằng Jacques, thế là tôi im. Buổi tối, khi đi đến một ngôi làng, người đánh xe dừng ngựa trước cửa một quán trọ và bảo rằng chúng tôi sẽ nghỉ đêm ở đây. Chúng tôi bước vào quán và đã nhìn thấy gì? Chính là gã Germain chết tiệt, cùng với một người đàn bà bế trên tay một đứa trẻ còn đang bú, ăn mặc chính xác như đứa trẻ của chúng tôi, đến mức khiến tôi sợ. Họ cũng đi du hành như chúng tôi trên một cỗ xe của ông Bá tước. Tôi bắt đầu thấy nghi ngờ. Ai đảm bảo được với tôi rằng Claudine chẳng đã bịa ra một câu chuyện thứ hai để trấn an tôi? Chắc chắn là cô ta thừa khả năng để làm điều đó. Thế là tôi phát điên lên. Hóa ra tôi đã đồng tình với một chuyện xấu xa! Tôi tự hứa với bản thân rằng sẽ không rời mắt khỏi đứa con hoang của chúng tôi, và thề rằng sẽ không để người ta giấu nó đi. Quả thực, suốt cả buổi tối tôi đã bế đứa bé trên đùi, và để cho chắc chắn hơn, tôi đã buộc chiếc khăn tay rộng của mình quanh thắt lưng nó để đánh dấu. Ôi! Cú lừa đảo này đã được dàn dựng kỹ càng. Sau khi ăn tối mọi người bảo nhau đi ngủ. Và tình cờ là ở quán trọ này chỉ có hai phòng đôi. Cứ tưởng như người ta đã cố tình xây dựng quán trọ như thế. Ông chủ quán nói hai chị vú nuôi sẽ ở một phòng, còn tôi và Germain ở phòng kia. Ngài có hiểu không, ngài Thẩm phán? Ngài nên biết rằng suốt cả buổi tối tôi đã bắt được những dấu hiệu trao đổi ngầm giữa vợ tôi với cái gã gia nhân vô lại kia. Tôi tức điên lên.
Lúc đó lương tâm tôi bắt đầu lên tiếng, và tôi cố sức giữ im lặng. Tôi thấy mình hành động rất dở và tôi tức mình chết đi được. Tại sao lũ đàn bà ranh mãnh lại khiến tâm hồn của một người đàn ông lương thiện phải quay cuồng như chong chóng trước những trò đểu giả của họ?
Ông Daburon đáp lại bằng một cú đấm có thể làm vỡ cả mặt bàn.
Ông Lerouge tiếp tục kể nhanh hơn:
- Tôi liền bác bỏ sự sắp xếp này, giả vờ là mình quá ghen nên không thể rời vợ mình một phút được. Tôi phải được quyền ngủ chỗ nào tôi thích. Chị vú nuôi kia lên phòng ngủ trước; một lát sau tôi và Claudine lên theo. Vợ tôi thay quần áo đi đường rồi lên giường cùng với con trai chúng tôi và đứa trẻ; còn tôi, tôi không thay quần áo. Lấy cớ rằng khi ngủ có thể vẫn phải trông lũ trẻ, tôi cứ để nguyên quần áo, ngồi trên một chiếc ghế đặt trước giường, định bụng sẽ thức canh và cố giữ cho mình không ngủ. Tôi thổi tắt nến để mấy mụ đàn bà ngủ; còn tôi thì không hề nghĩ đến chuyện chợp mắt. Chuyện suy nghĩ đã khiến tôi mất ngủ; tôi nghĩ đến cha mình và những lời ông sẽ nói nếu như đến một lúc nào đó ông biết được cách cư xử của tôi. Thế là đến nửa đêm, tôi nghe thấy Claudine cử động. Tôi nín thở. Cô ta ngồi dậy. Liệu có phải cô ta muốn đánh tráo lũ trẻ không? Bây giờ thì tôi biết là không phải, nhưng lúc đó thì tôi tin là như thế. Tôi tức điên lên, liền túm lấy tay cô ta và bắt đầu đánh đấm cô ta túi bụi, vừa đánh vừa chửi té tát. Tôi quát tháo ầm ĩ y như đang ở trên tàu thủy lúc dông bão, tôi chửi như một kẻ tội đồ và đánh đấm không thương tiếc. Chị vú nuôi kia thét lên như bị cắt tiết. Thấy cảnh ầm ĩ, gã Germain liền cầm cây nến chạy vào. Nhìn thấy gã, tôi điên lên cùng cực. Không còn ý thức được việc mình làm, tôi rút con dao Catalogna vẫn thường đem bên mình ra, rồi, túm lấy đứa con hoang chết tiệt, tôi vừa đưa lưỡi dao cứa một đường ngang cánh tay đứa bé vừa nói, “Ít nhất thế này thì các người sẽ không đánh tráo được nó mà tôi không biết. Nó đã được đánh dấu cho đến hết đời.”
Ông Lerouge không thể nói tiếp được nữa.
Những giọt mồ hôi to lấp lánh trên trán ông, chảy dài xuống má và đọng lại ở những nếp nhăn trên khuôn mặt.
Ông thở hổn hển, nhưng cái nhìn cấp bách của ông Thẩm phán đang thúc ép, dồn đuổi ông như chiếc roi quất lên lưng một người nô lệ nằm bẹp vì kiệt sức.
- Vết thương của đứa bé thật ghê gớm, - ông kể tiếp - nó chảy máu khủng khiếp và có vẻ như sắp chết. Tôi thì chỉ lo đến tương lai, đến những gì có thể xảy ra sau này. Tôi tuyên bố rằng tôi sẽ viết lại những gì vừa xảy ra và tất cả mọi người phải cùng ký vào. Sự việc đã diễn ra như thế. Tất cả bốn người chúng tôi đều biết chữ. Germain không thể cưỡng lại, vì tôi vừa nói vừa cầm dao trong tay. Gã ký đầu tiên, chỉ cầu xin tôi đừng nói gì với ông Bá tước và thề rằng gã sẽ không bao giờ phản bội chữ ký của mình, cũng như bắt chị vú nuôi kia cũng phải hứa không được nói gì.
- Thế ông còn giữ bản tuyên bố đó không? - Daburon hỏi.
- Còn, thưa ngài; và vì ông thanh tra, người cũng đã nghe tôi thú nhận tất cả, đề nghị tôi đem nó bên mình, nên tôi đã đến chỗ cất giấu lấy nó về, và nó đây.
- Đưa tôi xem.
Ông Lerouge rút trong túi áo vest ra một chiếc ví cũ được buộc bằng một sợi dây da và lôi ra một chiếc phong bì đã ố vàng vì thời gian và vì bị cất kín.
- Nó đây. - Ông nói - Thứ này vẫn chưa được mở ra kể từ cái đêm đáng nguyền rủa đó.
Quả thực, khi ông Thẩm phán bóc phong bì, ông thấy tro bếp rơi ra, đó là tro bếp dùng để rắc lên thấm chữ mới viết cho chúng khỏi nhòe.
Đây đúng là bản tóm tắt hoạt cảnh mà ông thủy thủ vừa thuật lại. Cuối tờ giấy có bốn chữ ký.
- Các nhân chứng đã ký bản tuyên bố này, - ông Thẩm phán thì thầm nói với chính mình - giờ thế nào rồi?
Lerouge tưởng ông Thẩm phán hỏi mình.
- Germain chết rồi. - Ông đáp - Người ta nói rằng gã đã chết đuối trong một cuộc vui. Claudine thì vừa bị sát hại, nhưng chị vú nuôi kia thì vẫn còn sống. Thậm chí tôi còn biết rằng bà ấy đã nói việc này với chồng, bởi vì ông ấy đã có lời nói động đến tôi. Ông ta tên là Brossette, cũng sống ở cùng làng với nhà Commarin.
- Rồi sao nữa? - Ông Thẩm phán hỏi sau khi đã ghi lại tên và địa chỉ của người đàn bà kia.
- Ngày hôm sau, thưa ngài, Claudine đã tìm cách trấn an và khiến tôi phải thề giữ im lặng. Đứa trẻ chỉ ốm một chút, nhưng nó có một vết sẹo lớn trên cánh tay.
- Bà Gerdy có được thông báo về những gì đã xảy ra không?
- Tôi không nghĩ như vậy, thưa ngài; tôi không biết thì đúng hơn.
- Sao, ông không biết ư?
- Vâng, thưa ngài Thẩm phán, tôi thề là tôi không biết; đó là vì những gì xảy ra tiếp theo.
- Vậy đã xảy ra chuyện gì?
Ông thủy thủ ngập ngừng.
- Đó là, thưa ngài, - ông nói - là chuyện riêng của tôi, và…
- Ông bạn ơi, - ông Thẩm phán ngắt lời - ông là một người lương thiện, tôi tin chắc như thế. Nhưng trong cuộc đời, khi bị người vợ xấu xa đưa đẩy, thì ông đã suýt nữa, mà thực ra là ông đã trở thành tòng phạm cho một hành động phạm tội thực sự rồi. Hãy sửa chữa lỗi lầm bằng cách nói cho thật chân thành. Tất cả những gì được nói ra ở đây, và những gì không có liên quan trực tiếp đến án mạng, sẽ được giữ kín; chính tôi cũng sẽ nhanh chóng quên đi. Vậy nên đừng sợ gì cả, và nếu ông cảm thấy phần nào nhục nhã, thì hãy tin rằng đó là sự trừng phạt của quá khứ.
- Than ôi, thưa ngài Thẩm phán, - ông thủy thủ đáp - tôi đã bị trừng phạt thật sự rồi, và từ lâu hình phạt đã bắt đầu giáng xuống tôi. Tiền bạc bất chính chẳng bao giờ làm lợi cho ta. Khi trở về nhà, tôi đã mua cái bãi cỏ khốn nạn kia với giá đắt hơn giá trị thực của nó. Vào cái ngày mà tôi vừa đi dạo trên mảnh đất đó vừa tự nhủ nó là của mình, tôi đã có được sự hài lòng cuối cùng. Claudine là một kẻ hay làm dáng, nhưng cô ta còn có nhiều tật xấu khác nữa. Khi cô ta nhìn thấy chúng tôi có nhiều tiền như thế, thì chúng sẽ bùng lên như một đám cháy thiêu sạch mọi thứ. Là một kẻ có chút máu tham ăn, nói ngài tha lỗi, cô ta trở nên háu đói một cách ghê tởm. Ở nhà tôi lúc nào cũng có những cuộc chè chén không dứt. Ngay khi tôi lên tàu ra khơi là cô ta liền tụ tập ăn uống với lũ đàn bà vô lại nhất trong vùng, và đối với lũ người này thì chẳng có gì là quá tốt hay quá đắt cả. Cô ta uống say đến nỗi phải để người ta khiêng lên giường. Thế rồi một hôm, khi cô ta tưởng tôi đang ở Rouen thì tôi bất ngờ quay về. Tôi vào nhà và bắt gặp cô ta với một thằng đàn ông. Mà kẻ đó là ai cơ chứ, thưa ngài? Đó là một kẻ gầy gò dơ bẩn bị cả vùng phỉ nhổ, một kẻ xấu xí, bẩn thỉu, hôi hám, hơn nữa lại là một tên thư lại mõ tòa của thị trấn. Đáng ra tôi đã giết hắn, vì tôi có quyền làm thế, vì hắn là tên vô lại; nhưng tôi thương hại hắn. Tôi túm lấy cổ hắn quẳng qua cửa sổ mà không mở cửa. Nó chưa đủ để giết hắn! Thế là tôi lao vào cô ta, đến khi tôi ngừng đấm đá thì cô ta đã nằm im không động đậy được nữa.
Ông Lerouge nói với giọng khản đục, thỉnh thoảng lại đưa hai nắm tay co rúm lau mắt.
- Tôi đã tha thứ cho cô ta, - ông nói tiếp - nhưng một người đàn ông đánh vợ rồi lại tha thứ cho vợ thì coi như tiêu đời. Cô ta đã trở nên thận trọng hơn, đạo đức giả hơn, và thế là hết. Trong thời gian này, bà Gerdy đã đón con về. Claudine không còn bị vướng bận gì nữa. Được bà mẹ che chở và chỉ vẽ, vì bà được cô ta đón về ở để trông thằng Jacques, cô ta đã lừa được tôi hơn một năm. Tôi cứ tưởng rằng cô ta đã trở lại với những tình cảm tốt đẹp, nhưng không hề, cô ta còn sống một cuộc đời ghê sợ hơn. Ngôi nhà của tôi trở thành chốn xấu xa nhất vùng, là nơi bọn vô lại lui tới sau cuộc nhậu. Đến đây chúng lại tiếp tục uống, bởi vì vợ tôi lại sai đem các vò rượu vang và rượu mạnh về, và trong khi tôi ở ngoài biển thì ở đây chúng say sưa trụy lạc. Khi nào thiếu tiền, cô ta lại viết thư cho ông Bá tước hoặc cho người tình của ông, và thế là cuộc ăn chơi trác táng lại tiếp tục. Đôi khi bị những nỗi nghi ngờ dằn vặt, tôi lại không biết phân biệt phải trái đánh đập cô ta đến chán tay, sau đó tôi lại tha thứ cho cô ta như một kẻ hèn nhát, như một tên ngu đần. Đó là một cuộc sống tồi tệ như địa ngục. Tôi không biết điều gì khiến mình thích thú hơn, ôm hôn hay là đánh cô ta nhừ tử. Tất cả mọi người trong thị trấn đều khinh ghét và quay lưng lại với tôi; họ tưởng tôi là tòng phạm hoặc một kẻ tự nguyện bị lừa dối. Về sau tôi biết rằng người ta cho là tôi đã lợi dụng vợ để kiếm tiền, trong khi thực tế cô ta lại đem tiền cho trai. Họ tự hỏi tiền của nhà tôi ở đâu ra mà tiêu xài kinh thế. Để phân biệt tôi với những người anh em họ Lerouge, họ đã gắn thêm vào tên tôi một chữ bỉ ổi. Thật xấu hổ, thưa ngài! Thế mà tôi đã không biết gì về những chuyện tai tiếng đó, không biết một tí gì! Tôi có đáng làm chồng không? Thật may là cha tôi đã mất.
Ông Daburon cảm thấy có chút thương hại.
- Nghỉ chút đi, ông bạn, - ông nói - hãy bình tĩnh lại đã.
- Không, - ông thủy thủ đáp - tôi muốn nói nhanh cho xong. Có một người tử tế đã cảnh báo tôi, đó là vị cha xứ. Giá mà có lúc nào đó người ấy cần đến dòng họ Lerouge… Không bỏ phí một giây, tôi đã đi tìm một luật sư để hỏi xem liệu một thủy thủ lương thiện chẳng may lấy phải một con mụ phóng đãng thì phải hành động như thế nào. Ông ấy bảo tôi là chẳng thể làm gì được. Nếu có kiện thì chỉ khiến sự ô nhục thêm ầm ĩ, và nếu có chia tay thì cũng chẳng giải quyết được gì. Ông ấy bảo tôi, “Một khi đã để cho một người đàn bà mang họ mình thì anh không thể đòi lại được nữa. Cái họ đó sẽ thuộc về người vợ trong suốt quãng đời còn lại, bà ta có toàn quyền sử dụng nó. Bà ta có thể làm vấy bẩn nó, lôi nó vào hết chuyện này đến chuyện khác, người chồng không thể làm gì được.” Biết được sự thể như vậy, tôi nhanh chóng đưa ra quyết định. Ngay ngày hôm đó tôi đã bán cái đồng cỏ định mệnh kia đi và chuyển hết tiền cho Claudine, vì tôi không muốn giữ lại một đồng tiền ô nhục nào nữa. Sau đó tôi cho thảo một văn bản, cho phép cô ta quản lý số tài sản ít ỏi của chúng tôi, nhưng không cho phép cô ta bán cũng như cầm cố nó. Rồi tôi viết một bức thư trong đó tôi lưu ý rằng cô ta sẽ không phải nghe nói gì về tôi nữa, rằng tôi không còn là gì đối với cô ta nữa, và rằng cô ta có thể coi như mình là một người đàn bà góa bụa. Ngay đêm hôm đó, tôi đem con trai bỏ đi.
- Thế vợ ông thế nào sau khi ông bỏ đi?
- Tôi không biết, thưa ngài. Tôi chỉ biết rằng cô ta cũng bỏ xứ ra đi sau tôi một năm.
- Ông không bao giờ gặp lại bà ấy nữa à?
- Không bao giờ.
- Tuy nhiên, ông đã đến gặp bà ấy ba ngày trước khi xảy ra án mạng?
- Đúng, thưa ngài, nhưng đó là vì chuyện tuyệt đối cần thiết. Tôi phải rất vất vả mới tìm lại được bà ấy, vì không ai biết bà ấy đã trở nên như thế nào. Rất may là ông công chứng viên của tôi có thể kiếm được địa chỉ của bà Gerdy, ông ta đã viết thư cho bà, và nhờ thế tôi có thể biết được rằng Claudine đang sống ở La Jonchère. Khi ấy tôi đang ở Rouen; ông chủ tàu Gervais, bạn tôi, đã mời tôi lên tàu của ông ấy để đi Paris, và tôi đã chấp nhận. Ôi, thưa ngài! Thật là xúc động khi tôi bước chân vào nhà bà ấy! Vợ tôi không nhận ra tôi. Bà ấy đã nói với mọi người rằng tôi đã chết, và có lẽ là cuối cùng thì bà ấy cũng tin như thế. Khi tôi xưng tên, bà ấy ngã ngửa người ra. Thật khốn khổ! Bà ấy chẳng thay đổi gì cả. Bên cạnh bà ấy vẫn có một chiếc ly và một chai rượu mạnh…
- Tất cả những điều đó vẫn chưa cho tôi biết lý do ông đến gặp vợ.
- Chính là vì thằng Jacques mà tôi đến gặp bà ấy, thưa ngài. Thằng nhỏ đã trở thành người lớn, và nó muốn lấy vợ. Chuyện đó cần có sự đồng ý của người mẹ. Thế là tôi đem đến một chứng thư đã được công chứng viên thảo sẵn để bà ấy ký. Nó đây.
Ông Daburon đón lấy tờ văn bản và có vẻ chăm chú đọc. Một lát sau, ông hỏi:
- Ông có nghi ngờ ai đã giết hại vợ mình không?
Lerouge không đáp.
- Ông có nghi ngờ một người nào đó không? - Ông Thẩm phán hỏi gặng.
- Sao cơ, thưa ngài? Ngài muốn tôi nói gì bây giờ! Tôi nghĩ là cuối cùng Claudine đã đi đến chỗ khiến những người mà bà ấy trấn lột tiền của họ như múc nước dưới giếng lên chán ngấy, hoặc là vì lúc say bà ấy đã quá bép xép.
Những thông tin thu thập được vậy đã có thể coi là đầy đủ. Daburon cho Lerouge lui và dặn ông hãy đợi Gévrol quay về để đưa ông đến khách sạn, và ông sẽ phải ở đó đợi đến khi có lệnh mời ra tòa làm chứng.
- Ông sẽ được bồi thường phí tổn. - Daburon nói thêm.
Lerouge vừa mới quay gót đi khỏi thì có một sự việc nghiêm trọng, kỳ lạ, khác thường và chưa có tiền lệ đã xảy ra trong văn phòng của ông Thẩm phán điều tra.
Constant, anh lục sự nghiêm túc, lạnh lùng, bất động, người được coi là câm điếc của văn phòng, đứng lên và cất tiếng.
Anh ta đã phá tan sự im lặng mười lăm năm nay, anh ta đã quên mất mình đến mức dám đưa ra một ý kiến nhận xét.
Anh ta nói:
- Thế đấy, thưa ngài, thật là một vụ án đáng ngạc nhiên!
Quả thực là một vụ án đáng ngạc nhiên, - ông Daburon nghĩ - và được thực hiện kỹ càng để đánh lạc hướng tất cả mọi dự đoán, để lật đổ tất cả mọi định kiến.
Tại sao là một Thẩm phán mà ông lại hành động hấp tấp đáng tiếc như vậy? Tại sao, trước khi mạo hiểm điều gì, ông lại không đợi cho đến khi có được mọi tình tiết của vụ án nghiêm trọng này, cho đến khi nắm được mọi đầu mối của mớ bòng bong phức tạp đó?
Người ta kết tội tòa án vì sự chậm chạp của nó, nhưng chính sự chậm chạp này là cái làm nên sức mạnh và sự chắc chắn của tòa án, tạo thành tính không thể sai lầm của nó.
Người ta không biết kết quả mà những việc điều tra có vẻ ngoài vô ích có thể đem lại.
Những tấn kịch diễn ra ở Tòa đại hình không phải tuân thủ ba điều thống nhất[*], nó cần nhiều hơn nữa.
[*]Ý nói quy tắc tam nhất của kịch cổ điển (ND).
Khi sự rắc rối của những nỗi đam mê và động cơ gây án tỏ ra khó gỡ, thì một nhân vật lạ mặt không biết từ đâu tới bỗng xuất hiện, và chính anh ta là người cởi nút.
Ông Daburon, một người thận trọng nhất, đã tưởng vụ án phức tạp nhất này là đơn giản. Trong một vụ án mạng bí ẩn đòi hỏi phải có sự thận trọng lớn nhất thì ông lại hành động như một vụ phạm tội bị bắt quả tang. Tại sao? Đó là vì những kỷ niệm của ông đã không để cho ông tự do suy nghĩ, phán đoán và quyết định. Ông cũng sợ phải tỏ ra yếu đuối cũng như sợ tỏ ra mạnh mẽ. Tin chắc vào hành động của mình, ông đã để cho tính hung hăng cuốn đi. Ông đã bao lần tự nhủ, Bổn phận của ta ở đâu? Khi người ta không phân biệt rõ được bổn phận thì người ta sẽ đi sai đường.
Điều đặc biệt trong toàn bộ vụ án này là những sai lầm của ông Thẩm phán điều tra lại xuất phát từ chính sự trung thực của ông. Ông đã lạc lối do ý thức quá tinh tế của mình. Sự lo lắng và đắn đo đã chất đầy những bóng ma trong tâm hồn và đẩy ông đi đến chỗ hung hăng mê muội, để rồi bộc phát ra một lúc nào đó.
Khi đã bình tĩnh hơn, ông tỉnh táo xem xét lại các sự kiện. Rốt cuộc thì nhờ trời, vẫn không có gì là không thể sửa chữa. Thượng đế đã gửi cho ông không ít những lời cảnh cáo nghiêm khắc nhất. Chỉ có sự ngẫu nhiên mới có thể ngăn ông lại. Ngay lúc này, ông thề rằng vụ thụ lý này sẽ là vụ cuối cùng của đời ông. Từ nay, cái nghề này sẽ chỉ gợi cho ông một sự ghê tởm không thể xóa bỏ. Hơn nữa, cuộc nói chuyện với Claire đã khơi dậy mọi vết thương lòng của ông, và chúng đang chảy máu đau đớn hơn bao giờ hết. Ông mệt mỏi công nhận rằng cuộc đời ông đã tan nát, đã chấm dứt. Một người đàn ông sẽ tự nói với mình như thế khi tất cả những người đàn bà đều là vô nghĩa với anh ta, chỉ trừ người mà anh ta không thể hy vọng được sở hữu.
Là người quá sùng đạo nên ông không thể nghĩ đến chuyện tự vẫn; ông lo lắng tự hỏi sau này mình sẽ ra sao khi vứt bỏ chiếc áo quan tòa.
Rồi ông lại quay về với vụ án hiện tại. Trong mọi trường hợp, vô tội hay có tội, Albert cũng vẫn là Tử tước Commarin, con trai hợp pháp của ông Bá tước. Nhưng anh ta có tội không? Rõ ràng là không.
- Ta phải nghĩ xem! - Bỗng nhiên ông Thẩm phán nói to - Ta phải nói với Bá tước Commarin. Constant, hãy sai người qua dinh thự nhà Commarin mời ông ấy đến ngay; nếu ông ấy không có nhà thì đi tìm ông ấy.
Daburon đang sắp bước tới một thời điểm khó khăn. Ông sẽ buộc phải nói với ông già, “Thưa ngài, con trai hợp pháp của ngài không phải là người mà tôi đã nói với ngài, mà là người con trai kia.” Thật là một tình cảnh oái ăm! Không phải là chuyện khó chịu mà là chuyện gần như nực cười.
Ông cũng phải cho Noël biết sự thật, phải kéo anh xuống đất sau khi đã nâng anh lên tận mây xanh. Thật là vỡ mộng! Nhưng chắc chắn ông Bá tước cũng sẽ tìm ra cách bồi thường nào đó cho anh, vì rõ ràng là ông mắc nợ anh chuyện đó.
- Bây giờ, - ông Thẩm phán lẩm nhẩm - kẻ nào sẽ là thủ phạm đây?
Một ý nghĩ thoáng qua mà ban đầu ông cảm thấy khó tin. Ông xua đuổi nó, rồi ông lại nghĩ về nó. Ông lật đi lật lại câu hỏi, xem xét mọi khía cạnh của nó. Ông đang gần đi đến quyết định thì ông Commarin mở cửa bước vào.
Người đưa tin của Daburon đã đến đúng lúc ông Bá tước vừa bước xuống xe sau khi cùng với Claire từ nhà bà Gerdy trở về.