← Quay lại trang sách

Chương 18

Lão Tabaret không chỉ nói, mà còn hành động.

Sau khi bị ông Thẩm phán bỏ mặc cho xoay xở một mình, lão Tabaret liền bắt tay vào việc không bỏ phí một giây và cũng không dám nghỉ ngơi một phút.

Câu chuyện về chiếc xe độc mã do một con ngựa khỏe kéo là một câu chuyện chính xác.

Là người tiêu tiền không tiếc tay, ông lão đã thuê một tá cảnh sát đã nghỉ việc hoặc những tay anh chị không có việc làm, rồi, cầm đầu nhóm trợ thủ đáng nể này, ngoài ra còn có được anh chàng Lecoq cuồng tín trợ giúp, ông phi thẳng đến Bougival.

Ông lùng sục kỹ càng mọi ngóc ngách trong vùng, đi từ nhà này sang nhà khác, với sự ngoan cố và kiên nhẫn của một kẻ bị ám ảnh muốn tìm một cái kim trong đống cỏ khô.

Nỗ lực của ông hoàn toàn không phải là vô ích.

Sau ba ngày điều tra, đây là những điều mà ông gần như đã có thể chắc chắn:

Kẻ giết người đã không xuống nhà ga Rueil như tất cả người dân ở Bougival, La Jonchère và Marly thường làm. Hắn đã đi tàu đến tận ga Chatou.

Ông Tabaret nghĩ rằng mình nhận ra hắn là một người còn trẻ, tóc nâu với bộ râu quai nón đen rậm, mặc một chiếc áo khoác và mang một chiếc ô, đúng như các nhân viên nhà ga đã tả.

Người khách này, đến bằng chuyến tàu khởi hành từ Paris đi Saint-Germain lúc tám giờ ba mươi lăm phút, đã tỏ ra rất vội vã.

Ra khỏi ga, hắn lao đi trên con đường dẫn đến Bougival. Dọc đường, có hai người đàn ông ở Marly và một người đàn bà ở Malmaison đã chú ý vì bước chạy của hắn. Hắn vừa chạy vừa hút thuốc.

Đến lối qua cầu ở Bougival, nối liền hai bờ sông Seine, hắn lại càng gây chú ý kỹ hơn, bởi vì đi qua cây cầu này người ta phải trả tiền, và kẻ giết người giả định kia hẳn là đã quên mất điều này.

Hắn cứ chạy qua một cách tự nhiên với bước chạy của người tập thể dục, hai khuỷu tay khép chặt vào thân để điều chỉnh hơi thở, thế là người gác cầu phải lao ra đuổi theo đòi hắn trả tiền.

Hắn có vẻ rất phật ý vì điều này, quẳng lại đồng mười xu rồi tiếp tục chạy mà không thèm đợi lấy lại tiền thừa.

Nhưng không chỉ có thế.

Người soát vé ở ga Rueil nhớ lại rằng hai phút trước khi chuyến tàu mười giờ mười lăm phút khởi hành, có một vị khách đi tàu đã có mặt, tỏ ra rất xúc động và thở gấp đến nỗi nói không ra lời khi hắn hỏi mua một chiếc vé hạng hai đi Paris.

Dấu hiệu nhận dạng của người này hoàn toàn khớp với kẻ đã được các nhân viên nhà ga Chatou và ông gác cầu mô tả.

Cuối cùng, ông lão còn tin vào dấu vết về một người chắc hẳn đã lên cùng khoang tàu với người hành khách thở đứt hơi kia.

Người ta cho ông biết rằng đó là một thợ làm bánh mì ở Asnières, và ông đã viết thư cho ông ta xin một cái hẹn.

Đó chính là bản tổng kết của lão Tabaret, khi ông đến trình diện tại tòa án vào sáng thứ Hai để xem liệu người ta đã nhận được hồ sơ lý lịch của bà quả phụ Lerouge chưa.

Ông không thấy tập hồ sơ đó, nhưng đã bắt gặp Gévrol ngoài hành lang cùng với đối tượng truy lùng của ông ta.

Viên Đội trưởng an ninh đang hân hoan, và hân hoan không chút ngượng ngùng. Vừa nhìn thấy lão Tabaret, ông đã gọi:

- Này! Nhà điều tra nổi tiếng, có gì mới không? Chúng ta đã treo cổ được kẻ gian nào kể từ hôm đó chưa? Ồ, ông già láu cá, tôi thấy rõ là ông đang rình rập muốn chiếm chỗ của tôi!

Than ôi! Ông lão đã thay đổi ghê gớm.

Ý thức về sai lầm của mình đã khiến ông trở nên nhún nhường và hiền lành. Những câu đùa như vừa rồi, mà trước đây hẳn phải khiến ông phẫn nộ lắm, thì bây giờ lại chẳng khiến ông phiền lòng. Không hề cãi lại, ông cúi mặt với vẻ hối hận đến nỗi khiến Gévrol phải ngạc nhiên.

- Ông cứ chế giễu tôi đi, thưa ông Gévrol, - ông đáp - cứ cười nhạo tôi không thương tiếc, ông đã đúng, tôi đáng bị như thế.

- Ồ thế à! - Ông cảnh sát nói tiếp - Vậy là chúng ta đã có một thành công mới, có phải không, ông già đam mê?

Lão Tabaret buồn bã lắc đầu.

- Tôi đã giao nộp một người vô tội, - ông nói - và giờ tòa án lại không muốn trả anh ta lại cho tôi.

Gévrol tỏ ra hoan hỉ, ông xoa tay như muốn làm tróc da.

- Khá lắm! - Ông ta nói như hát - Chuyện này thật là hay. Khiến kẻ có tội bị kết án ư, eo ơi! Thật là xoàng! Nhưng khiến người vô tội bị treo cổ thì, mẹ kiếp, đó mới là ngón nghề tuyệt đỉnh. Lão Tirauclair ơi, lão tài thật đấy, tôi xin ngả mũ bái phục.

Và ông ta mỉa mai nhấc mũ.

- Đừng dồn ép tôi như thế! - Ông lão nói tiếp - Ông muốn gì nữa; mặc dù đầu tôi đã bạc, nhưng tôi vẫn còn non nớt trong nghề. Bởi vì có mấy lần gặp may nên tôi đã trở nên kiêu ngạo một cách ngu ngốc. Tôi đã nhận ra quá muộn màng rằng tôi không phải là người như mình đã tưởng. Tôi chỉ là một kẻ học nghề mà thành công đã khiến tôi rối trí, trong khi ông, thưa ông Gévrol, ông là sư phụ của tất cả chúng tôi. Thay vì chế nhạo tôi, xin ông hãy cứu tôi, hãy giúp tôi bằng lời khuyên và kinh nghiệm của ông. Một mình thì tôi không tìm ra được lối thoát, trong khi cùng với ông…

Gévrol tỏ ra kiêu căng đến tột đỉnh.

Vẻ phục tùng của Tabaret, người mà thực ra ông rất kính nể, đang kích thích những tham vọng trinh thám khoan khoái của ông. Ông trở nên nhân từ và nói bằng giọng che chở:

- Hình như đó là chuyện vụ án ở La Jonchère?

- Than ôi, vâng, thưa ông Gévrol thân mến, tôi đã định tiến hành một mình, và tôi gặp phải chuyện rầy rà.

Lão Tabaret láu cá vẫn giữ vẻ mặt ăn năn của một người giữ đồ thờ bị bắt quả tang ăn mặn vào ngày thứ Sáu, nhưng thực ra ông đang cười, đang rất vui.

Đồ ngốc nghếch tự phụ, - ông nghĩ - ta sẽ phỉnh phờ cho mi phổng mũi lên, thế là cuối cùng mi sẽ phải làm tất cả những gì ta muốn.

Gévrol vừa gãi mũi vừa trề môi dưới ra và nói, “Ờ, ờ!”

Ông giả vờ ngập ngừng, khoái chí kéo dài niềm vui sướng tinh tế mà sự bối rối của lão già đang đem lại cho mình.

- Xem nào, - cuối cùng ông nói - hãy cười lên, lão Tirauclair ơi! Tôi là người tốt bụng, tôi sẽ giúp ông một tay. Thế là tử tế, đúng không? Nhưng hôm nay tôi đang vội, người ta đang đợi tôi ở Sở. Sáng mai ông hãy đến gặp tôi, chúng ta sẽ nói chuyện. Tuy nhiên, trước khi chia tay, tôi sẽ thắp cho ông một ngọn đèn để soi đường. Ông có biết nhân chứng mà tôi vừa dẫn về là ai không?

- Xin hãy nói đi, thưa ông Gévrol tử tế!

- Được rồi! Cái ông đang ngồi trên ghế băng đợi ngài Thẩm phán điều tra kia chính là chồng của nạn nhân ở La Jonchère đó!

- Không thể thế được! - Lão Tabaret sửng sốt nói.

Rồi vừa suy nghĩ ông vừa nói thêm:

- Ông đang đùa tôi.

- Không, tôi nói thật đó. Ông hãy tới hỏi đi, ông ta sẽ trả lời rằng tên ông ta là Pierre Lerouge.

- Vậy ra bà ấy không phải quả phụ?

- Hình như thế, - Gévrol đáp với vẻ giễu cợt - vì kia chính là ông chồng may mắn của bà ấy.

- Ồ! - Ông lão lẩm nhẩm - Và ông ta biết gì chứ?

Bằng mấy câu vắn tắt, viên Đội trưởng an ninh thuật lại cho ông thám tử tình nguyện câu chuyện mà Lerouge sắp trình bày với ngài Thẩm phán điều tra.

- Ông nói gì về chuyện này? - Gévrol hỏi sau khi đã kết thúc câu chuyện.

- Tôi sẽ nói… - Lão Tabaret ấp úng, bộ mặt ông cho thấy một vẻ ngạc nhiên gần như ngây dại - Tôi biết nói gì bây giờ? Tôi chịu không biết phải nói gì. Tôi nghĩ… Mà không, tôi chẳng nghĩ được gì cả.

- Một tai họa bất ngờ, đúng không? - Gévrol hớn hở nói.

- Hãy nói là một tai vạ bất ngờ thì đúng hơn. - Tabaret đáp lại.

Nhưng ông bỗng đứng thẳng người, giận dữ đập tay lên trán rồi kêu lên:

- Còn người thợ bánh mì của tôi! Hẹn ngày mai nhé, thưa ông Gévrol.

Ông này hâm rồi! - Viên Đội trưởng an ninh nghĩ.

Nhưng ông lão có một tinh thần rất khỏe mạnh, chỉ có điều ông bỗng nhiên nhớ đến người thợ làm bánh mì ở Asnières mà ông đã mời đến nhà. Liệu ông ta còn đợi ông không?

Ra đến cầu thang, ông gặp Daburon; và ông chỉ kịp trả lời qua loa ông này.

Chẳng mấy chốc ông đã ra đến ngoài đường và bước dọc theo bờ sông, rảo bước như một con ngựa gầy.

Gặp nhau chúng ta sẽ nói chuyện, - ông tự nhủ - thế là Noël lại trở về với thân phận hẩm hiu như trước. Cậu ấy sẽ không cười được nữa, khi mà cậu ấy đang vui sướng có được một cái danh. Thôi kệ! Nếu cậu ấy muốn thì mình sẽ nhận cậu ấy làm con nuôi. Cái họ Tabaret không sang như Commarin, nhưng vẫn là một cái họ. Không hề gì, câu chuyện của Gévrol cũng chẳng làm thay đổi được gì tình cảnh của Albert cũng như niềm tin của mình. Anh ấy là một người con hợp pháp, càng tốt cho anh ấy. Điều đó không khẳng định sự vô tội của anh ấy, nếu mình có nghi ngờ. Tất nhiên, không hơn gì cha mình, anh ấy cũng không biết gì về những tình tiết đáng ngạc nhiên này. Cũng giống như ông Bá tước, chắc hẳn anh ấy cũng đã tin là có sự đánh tráo. Những sự kiện này, kể cả bà Gerdy cũng không biết, có thể người ta đã bịa ra một chuyện gì đó để giải thích cho vết sẹo. Đúng thế, nhưng bà Gerdy biết chắc rằng Noël chính là con đẻ của mình. Khi nhận lại con, chắc bà ấy đã kiểm tra lại việc đánh dấu. Khi Noël tìm thấy những bức thư của ông Bá tước, hẳn bà đã vội vã giải thích cho cậu ấy…

Bỗng nhiên lão Tabaret đứng sững lại, như thể ông vừa nhìn thấy một con bò sát ghê sợ nằm vắt ngang đường.

Ông vừa hoảng hốt vì kết luận của mình. Kết luận đó là, “Vậy có thể Noël đã ám sát bà Lerouge để ngăn không cho bà khai ra rằng chuyện đánh tráo hai đứa trẻ đã không xảy ra, và có thể cậu ấy đã đốt những bức thư và giấy tờ có khả năng chứng minh điều đó!”

Nhưng ông ghê tởm gạt bỏ khả năng này, giống như một người trưng thực gạt bỏ một ý nghĩ đáng ghét tình cờ thoáng qua trong đầu.

- Mình thật là một lão già đần độn! - Ông thốt lên rồi bước tiếp - Dù sao đây cũng là hậu quả của cái nghề đáng sợ mà mình đang hãnh diện thực hành! Nghi ngờ Noël ư? Cậu ấy như con trai mình, là người sẽ thừa kế toàn bộ gia sản của mình, là hiện thân cho đức hạnh và danh dự trên thế gian này! Noël, người mà mười năm quan hệ vững bền, gần như có cuộc sống chung, đã khiến cho mình yêu quý, thán phục đến mức có thể dám bảo đảm về cậu ấy như về chính mình! Phải có những sự đam mê khủng khiếp mới có thể thúc đẩy những người có một thân phận nhất định đi đến chỗ gây đổ máu, và mình luôn biết ở Noël chỉ có hai sự đam mê: mẹ cậu ấy và công việc. Và mình không dám có một chút nghi ngờ thoáng qua đối với một tính cách cao thượng như thế! Vậy thì ta sẽ phải tự dằn vặt mình! Lão già ngu ngốc ơi! Chắc là mi chưa thấy mức độ khủng khiếp của bài học mà mi vừa nhận được! Phải làm thế nào để mi thận trọng hơn?

Ông cứ vừa suy nghĩ vừa cố xua đuổi những nỗi lo âu như vậy, kìm nén những thói quen điều tra của mình, nhưng trong thâm tâm ông vẫn có một tiếng nói nhức nhối thì thầm, “Liệu có phải là Noël?”

Lão Tabaret đã về đến phố Saint-Lazare.

Ông thấy trước cửa nhà mình có một cỗ xe ngựa lịch sự bốn bánh màu xanh nước biển với một con ngựa đóng cương tuyệt đẹp. Ông dừng lại theo bản năng.

- Con vật đẹp quá! - Ông nói - Người thuê nhà mình đang có khách quý đến thăm đây…

Nhưng họ cũng tiếp cả những vị khách xoàng, bởi vì ông vừa mới nghĩ như vậy thì nhìn thấy Clergeot, ngài Clergeot lịch sự, người mà có mặt ở đâu là ta thấy sự sạt nghiệp xuất hiện ở đó, giống y như nhân viên nhà xác báo hiệu có người chết.

Ông thám tử già, người biết rõ mọi chuyện trên thế gian, hiểu rõ ông chủ cho vay nặng lãi lương thiện này. Thậm chí trước đây ông còn có quan hệ với ông ta, khi ông đang làm công việc sưu tập sách. Ông bước tới giữ ông ta lại.

- Ông đấy à! Ông già cá sấu, - Lão Tabaret nói - vậy ra ông có khách hàng ở nhà tôi ư?

- Ông thấy rồi đó. - Clergeot đáp xẵng, vì ông không thích người ta đối xử thân mật với mình.

- Ủa! - Lão Tabaret nói.

Rồi, bị kích thích bởi óc tò mò rất tự nhiên của một người chủ nhà cần biết e sợ nếu thấy mình cho những người phiền hà thuê nhà, ông nói thêm:

- Thế quái nào mà ông lại định làm tôi sạt nghiệp thế?

- Tôi không làm ai sạt nghiệp cả. - Clergeot đáp trả với vẻ như vừa bị xúc phạm - Ông đã bao giờ phải than phiền về quan hệ của chúng ta chưa? Tôi nghĩ là chưa. Xin ông hãy hỏi anh luật sư, người đang có quan hệ làm ăn với tôi, xem liệu anh ấy có thấy hối tiếc là đã quen tôi không.

Lão Tabaret vô cùng sửng sốt.

Sao? Noël, anh chàng Noël khôn ngoan lại là khách hàng của Clergeot ư? Thế là thế nào? Có thể không hề có chuyện gì xấu. Tuy nhiên, ông nhớ lại khoản tiền 15.000 franc mà mình đã đưa cho anh hôm thứ Năm.

- Vâng, - ông nói vì muốn biết thêm thông tin - tôi biết là anh Gerdy giải quyết chuyện tiền nong khá mau lẹ.

Clergeot có sự tế nhị là không bao giờ để khách hàng bị công kích mà không bảo vệ.

- Không phải bản thân anh ấy phung phí tiền của, - ông nói - mà là cô bồ nhí yêu quý của anh. Cô ta chỉ to bằng ngón tay cái, nhưng cô ta ngốn như quỷ, ăn cả lông cả sừng, ăn tất.

Sao? Noël đang nuôi bồ nhí, một người mà chính Clergeot, bạn thân của các chị em, cũng thấy là kẻ tiêu hoang! Điều phát giác đó, trong lúc này, đã đâm trúng trái tim ông. Tuy nhiên ông vẫn cố che giấu cảm xúc. Chỉ cần một cử chỉ, một ánh mắt là có thể khiến ông chủ nợ kia nghi ngờ và ngậm miệng.

- Chuyện đó thì ai cũng biết. - Ông nói với giọng cố tỏ ra tự nhiên nhất - Thôi kệ! Phải để cho tuổi trẻ qua đi. Vậy theo ông, cái cô nàng đĩ thõa này một năm tiêu tốn bao nhiêu?

- Tôi chịu thôi. Thật sai lầm khi người ta không ấn định cho cô ta một mức cố định. Theo tính toán của tôi, từ bốn năm nay, chắc là cô ta phải ngốn của anh ta khoảng 500.000 franc.

Bốn năm cơ à! Những 500.000 franc!

Những lời nói và con số này nổ tung trong đầu lão Tabaret như một viên đạn trái phá.

Nửa triệu đồng!

Trong trường hợp đó thì hẳn Noël đã hoàn toàn sạt nghiệp. Nhưng vậy thì…

- Nhiều đấy, - ông nói và phải cố sức mới giấu được nỗi đau của mình - thậm chí là quá nhiều! Tuy nhiên cũng phải lưu ý rằng anh Gerdy có nguồn lực…

- Anh ta ư? - Ông chủ cho vay nặng lãi nhún vai ngắt lời - Không phải thế đâu. - Ông vừa nói thêm vừa cắn móng tay đánh “tách” một cái - Anh ta hết sạch rồi. Tuy nhiên, nếu anh ta có nợ tiền ông thì cũng đừng sợ. Anh ta láu cá lắm. Anh ta sẽ cưới vợ. Như ông thấy đấy, tôi vừa gia hạn cho anh ta khoản nợ 26.000 franc. Tạm biệt, ông Tabaret.

Ông chủ cho vay nặng lãi nhanh nhẹn rảo bước, để lại lão già tội nghiệp đứng chôn chân như một cột mốc trên hè đường.

Ông cảm thấy có cái gì đó giống như một nỗi đau khủng khiếp có thể làm tan nát con tim của một người cha, khi nó khiến ông thoáng thấy rằng người con trai yêu quý của mình có thể là một kẻ gian khốn nạn nhất.

Thế nhưng, niềm tin vào Noël mạnh đến nỗi ông đang cưỡng ép lý trí để gạt bỏ những nỗi nghi ngờ đang khiến mình đau khổ. Biết đâu ông chủ cho vay nặng lãi này lại chẳng đang vu cáo chàng luật sư?

Những kẻ dám cho vay lấy lãi mười phần trăm này có khả năng làm mọi chuyện. Rõ ràng ông ta đã phóng đại con số ăn chơi của khách hàng.

Nhưng ai mà biết được! Có biết bao người chẳng đã làm những chuyện điên rồ vì phụ nữ mà vẫn tỏ ra là người lương thiện đó sao?

Ông đang định vào nhà, thì một mớ váy áo lụa là đăng ten ở lối vào ngăn ông lại.

Một người phụ nữ trẻ đẹp tóc nâu đang đi ra. Ả lướt nhẹ như một con chim tới chiếc xe ngựa màu xanh.

Lão Tabaret vẫn còn trai tráng, người phụ nữ trẻ thì đẹp say lòng, thế nhưng ông không hề nhìn ả.

Ông bước vào nhà, và dưới vòm cửa ông thấy người gác cổng đứng đó, mũ lưỡi trai trên tay, đang xem xét đồng 20 franc với đôi mắt xúc động.

- Ồ, thưa ông, - người đàn ông nói - chị ấy đẹp quá, và thật lịch sự! Sao ông không về sớm năm phút?

- Chị nào…? Tại sao…?

- Cái chị quý phái vừa đi ra ấy. Chị ấy đến đây, thưa ông, để hỏi thông tin về anh Gerdy. Chị ấy cho tôi 20 franc để tôi trả lời các câu hỏi. Hình như anh Gerdy sắp lấy vợ. Chị ấy có vẻ phật ý lắm. Thật là một người tuyệt vời! Tôi nghĩ chắc đó là tình nhân của anh ấy. Giờ thì tôi hiểu tại sao đêm nào anh ấy cũng ra ngoài.

- Anh Gerdy ấy à?

- Vâng mà, thưa ông, tôi chưa bao giờ nói cho ông biết vì thấy anh ấy có vẻ giấu giếm. Anh ấy không bao giờ nhờ tôi mở cửa, không, như thế thì quá ngốc! Anh ấy chuồn qua cánh cửa nhỏ của nhà để xe. Tôi thì tôi tự nhủ, có thể đó là vì con người này không muốn làm phiền mình, anh ấy rất tế nhị, và vì anh ấy thích thế…

Người gác cổng còn nói nữa, mắt vẫn dán vào đồng tiền.

Khi ngẩng đầu lên để dò xét phản ứng của ông chủ nhà thì lão Tabaret đã biến mất.

Thế là lại thêm một người đàn bà nữa! - Ông gác cổng tự nhủ - Ta dám đánh cược 100 xu rằng ông chủ đang chạy theo người đàn bà tuyệt diệu kia! Cứ chạy đi, ông già chơi trống bỏi ơi! Người ta sẽ cho ông một miếng, không nhiều đâu, nhưng đắt lắm đấy.

Ông gác cổng đã không nhầm. Lão Tabaret đang chạy theo người phụ nữ trên chiếc xe màu xanh.

Ông nghĩ, Người này sẽ cho ta biết tất cả; và chỉ một bước nhảy ông đã vọt ra đến ngoài đường.

Ông ra đúng lúc nhìn thấy chiếc xe ngựa màu xanh rẽ ngoặt ở góc phố Saint-Lazare.

- Trời ơi! - Ông thì thầm - Ta sẽ mất hút cô nàng mất, thế mà tất cả sự thật lại ở đó.

Ông đang ở trong một trạng thái kích động thần kinh quá độ, có khả năng sinh ra những điều kỳ diệu.

Ông vượt qua đoạn phố Saint-Lazare nhanh như một chàng trai hai mươi tuổi.

Ôi, thật may mắn! Sau năm mươi bước, trên phố Havre, ông nhìn thấy chiếc xe ngựa màu xanh dừng lại giữa hàng xe cộ ùn tắc.

Ta sẽ đuổi kịp nó! - Ông tự nhủ.

Ông nhìn lướt xung quanh nhà ga phía Tây, đoạn phố này thường ngày gần như đầy rẫy các loại xe chở khách, thế mà bây giờ không có một chiếc nào.

Một cách tự nhiên, giống như vua Richard III trước đây, có thể ông đã gào lên, “Tôi đổi cả gia tài lấy một chiếc xe!”

Chiếc xe ngựa màu xanh tách ra khỏi đám đông rồi chạy tới phố Tronchet. Ông lão chạy theo.

Ông vẫn duy trì được khoảng cách; chiếc xe ngựa không chạy quá nhanh.

Vừa chạy ở giữa đường, vừa đưa mắt tìm xe để nhảy lên, ông vừa tự nhủ, Ta phải đuổi theo con mồi, lão già ơi, hãy đuổi theo con mồi! Khi không phải nghĩ thì mình cần đôi chân. A lê hấp! Tại sao mình lại không nghĩ đến chuyện hỏi Clergeot địa chỉ của người phụ nữ đó nhỉ? Như thế có phải nhanh hơn thế này không, lão già ơi, như thế sẽ nhanh hơn! Khi người ta muốn trà trộn để làm mật thám, người ta phải có phẩm chất nghề nghiệp, mật thám phải có đôi chân hươu.

Ông chỉ nghĩ đến việc đuổi kịp người tình của Noël chứ không nghĩ đến việc gì khác. Nhưng ông thua rồi, rõ ràng là ông đã thua.

Ông không chạy được đến nửa phố Tronchet, và ông không thể chạy được nữa; ông có cảm giác đôi chân chỉ mang ông đi được một trăm mét nữa thôi, và chiếc xe chết tiệt đã chạy tới phố Madeleine.

Ôi, may quá! Có một chiếc xe mui trần cùng chiều chạy vượt qua ông.

Ông vẫy tay ra hiệu với vẻ tuyệt vọng hơn cả người sắp chết đuối. Người đánh xe đã nhìn thấy ông. Ông thu hết sức tàn nhảy một bước lên xe mà không cần giẫm vào bậc lên xuống.

- Chạy theo chiếc xe màu xanh. - Ông nói - 20 franc!

- Xong! - Người đánh xe nháy mắt đáp.

Rồi ông ta vừa quật mạnh một cú roi lên lưng con ngựa vừa lẩm nhẩm:

- Một lão trưởng giả ghen tuông đang đuổi theo vợ mình. Hẳn rồi! Tiến lên, chú ngựa thân yêu của ta!

Đối với lão Tabaret, bây giờ là lúc nghỉ ngơi, ông đã kiệt sức rồi. Mất một lúc mà ông vẫn chưa lấy lại được hơi thở. Họ đang chạy giữa đại lộ. Ông đứng lên, tì người vào thành ghế của người đánh xe.

- Tôi không nhìn thấy chiếc xe màu xanh nữa. - Ông nói.

- Ồ, tôi thì vẫn nhìn thấy rõ nó, thưa ông trưởng giả; đó là vì nó có một con ngựa tuyệt vời.

- Ngựa của ông sẽ phải khỏe hơn! Tôi đã nói 20 franc, nhưng sẽ thành 40.

Người đánh xe quất roi phũ phàng, vừa quất vừa làu bàu:

- Khỏi phải nói, ta cần đuổi kịp cô nàng. Với 20 franc thì chắc là tôi đã bỏ lỡ cô nàng; tôi yêu đàn bà, tôi đứng về phía họ. Nhưng có thế chứ! Với hai đồng louis… Ông già xấu thế này mà cũng biết ghen ư?

Lão Tabaret gắng hết sức giữ tinh thần dửng dưng.

Ông không muốn nghĩ gì trước khi gặp được người đàn bà kia, được nói chuyện với ả, được khôn khéo hỏi chuyện ả.

Ông tin chắc rằng chỉ cần một lời nói là ả sẽ đánh mất hoặc cứu được người tình.

Sao? Mất Noël ư? Đúng thế!

Ý nghĩ rằng Noël là kẻ giết người đang giày vò, quấy rối, kêu vo vo trong đầu ông như một con nhặng khó chịu cứ trở đi trở lại hàng nghìn lần, rồi va vào cánh cửa kính mà ở đó đang lóe lên một tia sáng.

Chiếc xe vừa vượt qua phố Chaussée-d’Antin, chiếc xe ngựa màu xanh chỉ còn cách ba mươi bước. Người xà ích quay đầu lại và nói:

- Thưa ngài trưởng giả, chiếc xe kia đã dừng lại rồi.

- Ta cũng dừng lại và đừng rời mắt khỏi nó, rồi khi nào nó đi tiếp thì ta cũng đi.

Lão Tabaret nhoài người ra khỏi xe để nhìn.

Người phụ nữ trẻ xuống xe, bước qua vỉa hè vào một cửa hàng bán đồ len Kashmir và đăng ten.

Vậy là, - lão Tabaret nghĩ - đây là nơi những tờ 1.000 franc được ném vào! Nửa triệu đồng trong bốn năm! Cái hạng người này làm gì với những đồng tiền mà họ ném thẳng tay như vậy nhỉ? Họ đốt tiền cho những trò đỏng đảnh nào thế? Chắc chắn họ có những món thuốc độc quỷ quái để cho bọn ngu xuẩn uống và khiến chúng sạt nghiệp. Chắc họ có tài nghệ đặc biệt trong việc xào nấu và chế biến khoái cảm, bởi vì một khi họ đã tóm được một người đàn ông thì người đó sẽ phải hiến tế tất cả trước khi có thể từ bỏ họ.

Chiếc xe ngựa lại lên đường, nhưng chẳng mấy chốc nó lại phải dừng bánh trước một cửa hàng bán đồ lạ.

Ả này muốn mua cả Paris hay sao! - Ông lão tức giận tự nhủ - Phải rồi, chính ả đã thúc đẩy Noël, nếu như Noël có phạm tội ác. 15.000 franc của ta đang bị phung phí thế này đây. Chúng sẽ kéo dài được bao nhiêu ngày? Có thể để có tiền mà Noël đã giết bà Lerouge. Ôi, như thế thì hắn sẽ là kẻ bỉ ổi tột cùng. Thật là một con quái vật dối trá và đạo đức giả! Thế mà nếu mình chết vì tức giận ở đây thì hắn sẽ là kẻ thừa kế gia sản của mình, bởi mình đã viết trong tất cả các chứng thư, “Tôi để lại cho con trai Noël Gerdy của tôi…” Nếu hắn có tội thì sẽ không có nhục hình nào là đủ với hắn… Nhưng mà người đàn bà này có chịu về nhà không thế?

Người đàn bà chẳng có vẻ gì là tỏ ra vội vã, thời tiết đang đẹp, váy áo của ả thì lộng lẫy xa hoa, ả phải phô trương. Ả còn rẽ vào ba, bốn cửa hàng nữa, và đến chặng cuối ả dừng lại tại cửa hàng bánh ngọt và ở đó hơn mười lăm phút.

Trong tâm trạng lo lắng rối bời, lão già sốt ruột giậm chân trên xe.

Bị ngăn cách với lời giải cho câu đố khủng khiếp bởi sự đỏng đảnh của một ả đàn bà trơ trẽn đúng là một nhục hình! Ông muốn lao đến chỗ ả, nắm lấy cánh tay ả và quát lên, “Về nhà đi, đồ khốn nạn! Hãy về đi! Mi làm cái gì đây? Mi có biết là vào giờ này người tình của mi, kẻ mà mi đã làm sạt nghiệp, đang bị nghi ngờ vì tội giết người không? Hãy về nhà đi để ta còn hỏi mi, để ta còn biết liệu nó vô tội hay có tội! Bởi lẽ mi sẽ vô tình nói cho ta biết điều đó; ta đã chuẩn bị sẵn một cái bẫy để mi vướng vào. Vậy về đi, ta đang lo lắng muốn chết đây!”

Lần này ả về thật.

Chiếc xe ngựa màu xanh tiếp tục lăn bánh chạy lên phố Faubourg-Montmartre, rẽ vào phố Provence, thả người đàn bà xuống trước cổng nhà ả rồi phóng đi.

- Ả ở đó. - Lão Tabaret thở phào nói.

Ông xuống xe, đưa cho người xà ích hai đồng louis và bảo ông ta đợi mình, rồi lao theo người phụ nữ trẻ.

Ông trưởng giả này kiên trì thật, - người đánh xe nghĩ - nhưng mà cô bồ nhí tóc nâu kia cũng kiểu cách lắm.

Lúc này lão Tabaret đã đứng trước cửa căn chòi của người gác cổng.

- Xin hỏi tên của người phụ nữ vừa vào là gì? - Ông hỏi.

Người gác cổng có vẻ không sẵn sàng trả lời.

- Tên cô ta? - Ông thám tử già gặng hỏi. Giọng ông gãy gọn và hách dịch đến nỗi ông gác cổng phải lung lay.

- Cô Juliette Chaffour. - Ông ta đáp.

- Ở tầng mấy?

- Tầng hai, cửa đối diện.

Một phút sau, ông lão đã có mặt trong phòng khách của cô Juliette. Chị hầu phòng trả lời ông là cô chủ đang thay quần áo và sẽ ra ngay.

Lão Tabaret sửng sốt trước sự xa hoa của phòng khách. Dù vậy, nó không có gì bất nhã, không thô thiển, cũng chẳng kệch cỡm. Không bao giờ người ta có thể tin đây là phòng khách của một cô gái bao. Nhưng ông già, người sành sỏi mọi việc, thấy rõ rằng mọi thứ trong căn phòng này đều thuộc loại đắt tiền. Chỉ riêng những đồ trang trí bày biện trên mặt lò sưởi, nói rẻ, cũng đáng giá 20.000 franc.

Clergeot, - ông nghĩ - đã không phóng đại.

Juliette bước ra và cắt đứt luồng suy nghĩ của ông. Ả đã cởi bỏ chiếc váy dài và mặc vội chiếc áo choàng đen rộng thùng thình, với đồ trang sức bằng xa tanh màu anh đào. Mái tóc tuyệt vời hơi rối vì đội mũ của ả xoã bồng bềnh xuống cổ và lượn sóng sau đôi tai thanh mảnh. Cô khiến lão Tabaret lóa mắt. Ông hiểu vì sao người ta lại phát điên vì ả.

- Thưa ông, ông muốn nói chuyện với tôi à? - Ả nghiêng đầu duyên dáng hỏi.

- Thưa cô, - lão Tabaret đáp - tôi là một người bạn của Noël, có thể nói là bạn thân nhất của anh ấy, và…

- Vậy mời ông ngồi, thưa ông. - Người phụ nữ trẻ ngắt lời.

Bản thân ả cũng ngồi xuống một chiếc đi văng, mũi chân xỏ vào đôi dép đi trong nhà cũng đẹp giống như tấm áo choàng của mình, trong khi ông lão ngồi xuống một chiếc ghế bành.

- Thưa cô, - ông nói tiếp - tôi đến vì một vụ việc nghiêm trọng. Sự có mặt của cô ở nhà anh Gerdy…

- Sao? - Juliette kêu lên - Anh ấy đã biết là tôi đến à? Lạ thật! Anh ấy đúng là một trinh sát tài giỏi.

- Cô bé ơi, - Tabaret bắt đầu nói bằng giọng của người cha…

- Được rồi! Thưa ông, tôi biết ông định nói gì rồi. Ông được Noël cử đến để quở trách tôi. Anh ấy đã cấm tôi đến nhà mình, nhưng tôi không chịu nghe lời. Rốt cuộc thì thật bực mình khi có một người tình giống như là một câu đố chữ, một người mà ta chẳng biết gì, một nhân vật bí hiểm mặc đồ đen, thắt cà vạt trắng, một kẻ sầu thảm có nhiều ẩn số…

- Cô đã làm một việc khinh suất.

- Vì sao chứ? Có phải vì anh ấy sắp lấy vợ? Thế thì tại sao anh ấy không thú nhận đi?

- Nếu không phải thì sao?

- Sao lại không phải? Anh ấy đã nói với lão già bất lương Clergeot, và lão đã nhắc lại cho tôi biết. Dù sao, anh ấy cũng đã phải thêu dệt nên một chuyện liều lĩnh; từ một tháng nay anh ấy có vẻ mệt mỏi, anh ấy đã thay đổi đến mức tôi không còn nhận ra nữa.

Hơn tất cả, lão Tabaret muốn biết liệu Noël có sắp đặt một chứng cứ ngoại phạm cho buổi tối hôm thứ Ba khi xảy ra án mạng không. Đối với ông đây là một câu hỏi quan trọng. Nếu có, chắc chắn cậu ta là thủ phạm; nếu không, cậu ta vẫn có thể vô tội. Không nghi ngờ gì nữa, cô nàng Juliette chắc chắn sẽ làm sáng tỏ được điểm quyết định này.

Ông đã đến đây với kế hoạch đã được chuẩn bị từ trước, với cái bẫy nhỏ đã được giăng ra.

Thái độ sôi nổi của người phụ nữ trẻ đã khiến ông hoang mang đôi chút. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục và phó mặc cho sự may rủi của cuộc nói chuyện.

- Vậy là cô sẽ ngăn cản đám cưới của Noël?

- Đám cưới của anh ấy ư? - Juliette bật cười nói to - Ồ, khốn khổ cho chàng trai! Nếu không có sự cản trở nào khác ngoài tôi thì việc của anh ấy đã xong rồi. Cứ lấy vợ đi, hỡi anh chàng Noël, càng nhanh càng tốt, để tôi không phải nghe nói đến anh nữa.

- Vậy cô không yêu anh ấy à? - Ông lão hỏi với vẻ hơi ngạc nhiên về sự thật thà đáng yêu của ả.

- Nghe đây, thưa ông, tôi đã rất yêu anh ấy, nhưng giờ thì tất cả đang tiêu tan rồi. Từ bốn năm nay, tôi, một kẻ ham chơi, đã phải sống một cuộc sống không thể chịu nổi. Nếu Noël không bỏ tôi thì chính tôi sẽ là người bỏ anh ấy. Tôi đã rất bực bội khi có một người tình luôn xấu hổ và khinh ghét mình.

- Nếu nói anh ấy khinh ghét cô, cô nàng xinh đẹp ơi, thì có vẻ không đúng. - Lão Tabaret đáp và nhìn lướt căn phòng với ánh mắt đầy ý nghĩa.

- Ông muốn nói, - cô nàng đứng lên đáp trả - rằng anh ấy chi tiêu nhiều cho tôi phải không? Đúng thế. Anh ấy khẳng định rằng đã sạt nghiệp vì tôi, rất có thể là như vậy. Nhưng những cái đó làm được gì cho tôi? Tôi không phải là một con đàn bà vụ lợi, xin ông biết cho. Tôi muốn có ít tiền mà được tôn trọng nhiều hơn. Tôi ăn chơi điên rồ cũng chính là do giận dữ và vô công rồi nghề. Anh chàng Gerdy đã coi tôi là gái thì tôi sẽ hành động như gái. Thế là sòng phẳng.

- Cô biết rõ là anh ấy say mê cô…

- Có thật không? Vì tôi sẽ nói cho ông biết rằng anh ấy xấu hổ vì tôi. Anh ấy giấu tôi như giấu bệnh lậu. Ông là người bạn đầu tiên của anh ấy mà tôi được tiếp chuyện. Ông thử hỏi anh ấy xem đã bao giờ anh ấy dẫn tôi ra ngoài chưa? Cứ như thể mối quan hệ này khiến anh ấy mất thanh danh vậy. Đây này, tối thứ Ba vừa rồi, lúc còn chưa muộn, chúng tôi đã cùng nhau đi nhà hát. Anh ấy đã thuê cả một khoang. Ông tưởng anh ấy đã ở bên tôi cả buổi xem hát hả? Sai rồi, anh ấy đã chuồn đi và suốt cả buổi tối tôi chẳng thấy anh đâu.

- Sao! Cậu ấy để cô phải về một mình à?

- Không. Đến cuối buổi diễn, vào khoảng nửa đêm, anh chàng đã hạ cố xuất hiện. Thế là chúng tôi đến vũ hội ở nhà hát lớn và từ chỗ đó chúng tôi đi ăn khuya. Ôi! Vui thật! Ở vũ hội, anh chàng không dám bỏ mũ trùm đầu, cũng chẳng dám lột bỏ mặt nạ. Đến lúc ăn khuya, vì có bạn bè của anh ấy, tôi đã phải coi anh ấy như người lạ.

Thế là chứng cứ ngoại phạm đề phòng trường hợp rủi ro đã xuất hiện.

Nếu ít bị kích động hơn thì hẳn Juliette đã để ý thấy thái độ của lão Tabaret và chắc chắn sẽ câm lặng, vì lúc đó mặt ông tái đi và cả người run như tàu lá.

- Thôi kệ nó! - Ông cố hết sức để nói ra lời - Bữa ăn khuya không vì thế mà kém vui.

- Vui ư? - Cô nàng trẻ đẹp nhún vai nhắc lại - Thế là ông không hiểu bạn mình rồi. Nếu có lúc nào ông mời anh ấy đến ăn tối thì cố giữ đừng để anh ấy uống. Anh ấy uống rượu như hũ chìm. Đến chai thứ hai thì anh ấy đã say bí tỉ, say đến nỗi đánh mất tất cả đồ của mình: áo choàng, ô, ví tiền, hộp xì gà…

Lão Tabaret không còn sức để nghe thêm nữa; ông đứng thẳng lên với cử chỉ của một kẻ điên dại.

- Khốn nạn! - Ông kêu lên - Đồ gian ác bỉ ổi… Đúng là hắn, và ta tóm được hắn rồi!

Rồi ông bỏ chạy, để mặc Juliette ở lại hoảng hốt đến nỗi phải gọi cô hầu gái.

- Em ơi, - nàng nói - chị vừa phạm một sai lầm khủng khiếp, đã làm hỏng một chuyện gì đó rồi. Chắc chắn là chị đã gây ra một tai họa, chị đoán thế, chị cảm thấy thế. Lão già kỳ cục này chẳng phải bạn của anh Noël đâu, lão đến để dắt mũi chị, và lão đã moi được điều gì đó… Chị đã làm hại Noël mà không biết. Không biết chị đã nói gì nhỉ? Chị nghĩ mãi mà không ra. Nhưng thôi kệ, cần phải báo cho anh ấy biết. Chị sẽ viết cho anh ấy mấy câu; còn em, hãy chạy đi tìm người đưa thư.

Trèo lên xe ngựa, lão Tabaret chạy thẳng về Sở Cảnh sát. Noël là kẻ giết người! Tình bạn tin cậy trước đây của ông vô hạn bao nhiêu thì giờ đây nỗi căm ghét cũng vô hạn bấy nhiêu.

Ông đã bị chơi xỏ thật nhẫn tâm, bị lừa dối thật tàn nhẫn bởi một tên tội phạm độc ác nhất! Giờ ông đang khát khao muốn trả thù. Ông tự hỏi có hình phạt nào là quá mức với tội ác này không?

Bởi vì hắn không chỉ giết Claudine, - ông nghĩ - mà hắn còn bố trí để khiến người ta kết án một người vô tội. Và ai mà biết được liệu có phải hắn đã giết chính mẹ đẻ của mình không…!

Ông cảm thấy hối tiếc cho việc bãi bỏ nhục hình, những ngón nghề tinh tế của các đao phủ thời trung cổ như phanh thây, thiêu sống, cực hình bánh xe… Máy chém hành động nhanh đến mức kẻ tử tù hầu như không cảm nhận được cái lạnh của lưỡi thép cắt vào da thịt, nó chỉ như một cái búng nhẹ xuống cổ.

Muốn giảm nhẹ tội tử hình, người ta đã biến nó thành một trò đùa, vì thế nó không còn lý do tồn tại.

Chỉ có niềm tin chắc chắn vào việc sẽ khiến Noël phải chịu khuất phục, vào việc giao nộp hắn cho tòa án và để trả thù mới giữ vững được tinh thần cho lão Tabaret.

- Rõ ràng, - ông lẩm nhẩm - rằng lúc ở trên tàu, vì vội quay về cho kịp gặp người tình ở nhà hát mà hắn đã bỏ quên đồ của mình. Liệu ta có tìm thấy những thứ đó không? Nếu hắn thận trọng đánh liều đến xin lại đồ bỏ quên dưới một cái tên giả thì ta sẽ không tìm ra được thêm bằng chứng nữa. Vì thế, đối với ta, lời chứng của cô Chaffour sẽ không có giá trị. Khi thấy tình nhân gặp nguy hại, con ả trơ trẽn kia sẽ thay đổi ý kiến; ả sẽ khẳng định rằng Noël đã bỏ đi sau lúc mười giờ tối. Nhưng hắn sẽ không dám ra ga đường sắt để lấy lại đồ đâu!

Đến giữa phố Richelieu, lão Tabaret thấy hoa mắt.

Ta sẽ đột quỵ mất. - Ông nghĩ bụng - Nếu ta chết ở đây thì Noël sẽ thoát tội và sẽ là người thừa kế gia sản của ta… Đáng ra, khi người ta đã làm một di chúc thì lúc nào cũng phải đem nó theo bên mình để khi cần thì có thể xé đi.

Đi tiếp thêm mấy chục bước, khi nhìn thấy tấm biển của một phòng khám, ông cho xe dừng lại rồi lao vọt vào.

Ông cảm thấy quá mệt mỏi, quá nổi xung, hai mắt nhớn nhác đến nỗi ông bác sĩ gần như thấy sợ người khách đặc biệt này khi ông khản giọng nói:

- Chích máu cho tôi!

Ông bác sĩ định phản đối, nhưng ông già đã cởi bỏ chiếc áo đuôi tôm và vén một ống tay áo sơ mi lên.

- Chích máu cho tôi đi! - Ông nhắc lại - Ông muốn tôi chết à…?

Trước sự nài nỉ này, ông bác sĩ đành nghe theo. Ít phút sau, lão Tabaret đi ra với tâm trạng thanh thản và nhẹ nhõm.

Một giờ sau, được bổ sung sức lực cần thiết và được một sĩ quan cảnh sát hộ tống, ông đã có thể tiến hành cuộc điều tra đã định tại phòng giữ đồ thất lạc của nhà ga.

Việc tìm kiếm đã giành được kết quả đúng như ông đã dự kiến.

Chẳng mấy chốc ông đã được biết rằng vào buổi tối ngày Thứ Ba Ăn Mặn, người ta đã tìm thấy trong khoang hạng hai của con tàu số 45 một chiếc áo khoác và một chiếc ô bị bỏ quên.

Người ta đem chúng ra cho ông xem, và ông nhận ra ngay đó là của Noël.

Trong một túi áo khoác có một đôi găng tay màu ngọc trai bị rách xước và một tấm vé khứ hồi đi từ ga Chatou về Paris chưa được dùng.

Khi lao vào tìm kiếm sự thật, lão Tabaret đã biết thừa nó là như thế nào rồi.

Niềm tin của ông, vô tình được tạo ra khi Clergeot tiết lộ những trò ăn chơi điên rồ của Noël, từ lúc đó đã được củng cố bởi hàng nghìn tình tiết; khi đến nhà Juliette thì ông đã tin chắc, thế nhưng đến thời điểm cuối cùng này, khi đã hoàn toàn không thể nghi ngờ gì nữa trước những bằng chứng hiển nhiên, thì ông mới rụng rời.

- Nào! - Cuối cùng ông kêu lên - Giờ là lúc phải bắt hắn!

Rồi, không bỏ phí một giây, ông lên xe phi thẳng đến tòa án với hy vọng sẽ được gặp ông Thẩm phán điều tra ở đó.

Quả thực, mặc dù đã muộn nhưng ông Daburon vẫn chưa rời văn phòng.

Ông đang nói chuyện với Bá tước Commarin; ông vừa thông báo về những lời khai của Pierre Lerouge, người mà ông Bá tước tưởng là đã chết từ nhiều năm nay.

Lão Tabaret lao vào phòng như một cơn lốc, quá cuống cuồng đến nỗi không để ý đến sự có mặt của người khách lạ.

- Thưa ngài Thẩm phán, - ông kêu lên, miệng lắp bắp vì giận dữ - thưa ngài, chúng ta đã nắm được tên giết người thực sự rồi! Chính là hắn, con trai nuôi của tôi, kẻ thừa tự của tôi, chính là thằng Noël!

- Noël ư…! - Ông Daburon đứng lên nhắc lại.

Rồi ông hạ giọng nói thêm:

- Tôi cũng đã đoán là hắn.

- Ôi! Cần phải nhanh chóng ra lệnh bắt giam ngay, - lão già nói tiếp - nếu chúng ta bỏ phí dù chỉ một giây thì hắn sẽ chuồn mất! Hắn sẽ biết mình đã bị lộ nếu tình nhân của hắn thông báo về cuộc viếng thăm nhà ả của tôi. Khẩn trương lên, thưa ngài Thẩm phán, chúng ta phải khẩn trương lên!

Daburon mở miệng định yêu cầu một lời giải thích, nhưng lão thám tử già đã nói tiếp:

- Và không chỉ có thế, còn một người vô tội là Albert vẫn đang phải ở trong tù…

- Trong vòng một giờ đồng hồ, anh ấy sẽ không còn trong tù nữa. - Vị quan tòa đáp - Ít phút trước khi ông đến đây, tôi đã làm xong mọi thủ tục để thả anh ấy; chúng ta hãy quan tâm đến kẻ kia đi.

Cả lão Tabaret lẫn ông Daburon đều không để ý đến việc ông Bá tước Commarin đã biến khỏi phòng.

Nghe nhắc đến cái tên Noël, ông Bá tước khẽ khàng đi ra cửa rồi lao ra khỏi hành lang.