Chương 3 LỜI TIÊN TRI ỨNG NGHIỆM-(Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 1.30 p.m.)
Khi chúng tôi đến sảnh chính, đại úy Dubois và thanh tra Bellamy, các chuyên gia về dấu vân tay của trụ sở cũng vừa mới đến. Thanh tra Snitkin, người đang chờ họ, lập tức dẫn họ đến cầu thang xuống tầng hầm, còn Markham, Vance và tôi thì đi lên tầng hai.
Thư viện là một căn phòng rộng và sang trọng, ít nhất cũng sâu 20 foot[*], chiếm hết bề rộng của ngôi nhà. Hai bên là những tủ sách lớn âm tường được xếp thành hàng cao đến trần nhà; và ở chính giữa bức tường phía tây nhô ra chiếc lò sưởi thời Napoleon I bằng đồng khổng lồ. Bên cạnh cửa là một cái tủ tinh tế thời Jacobean[*], và đối diện, gần những cửa sổ nhìn ra đường số 75, là một chiếc bàn làm việc lớn được chạm khắc, ngổn ngang giấy tờ và sách vở. Có nhiều objets - d’art[*] thú vị trong căn phòng; và hai bản vẽ của Dürer[*] nhìn xuống tấm thảm bên cạnh lò sưởi. Tất cả ghế đều rộng rãi và được bọc da màu tối.
Giáo sư Dillard ngồi trước bàn làm việc, một chân gác lên chiếc ghế nệm nhỏ; và ở bên góc gần cửa sổ, ngồi thu lu trên chiếc ghế bành, là cháu gái của ông ấy, một cô gái mạnh mẽ, trang phục nghiêm chỉnh với nét mặt nổi bật của một diễn viên cổ điển. Vị giáo sư già không đứng dậy chào chúng tôi, cũng không nói lời xin lỗi cho việc đó. Ông ấy có vẻ như đang lạm dụng sự hiểu biết của chúng tôi về căn bệnh của ông ấy. Màn giới thiệu cũng qua loa cho có lệ, dù Markham đã đưa ra lời giải thích ngắn gọn về sự có mặt của Vance và tôi ở đây.
“Tôi rất tiếc, Markham,” vị giáo sư nói, khi chúng tôi đã tự ngồi xuống, “rằng một thảm kịch lại trở thành nguyên nhân cho cuộc gặp gỡ này; nhưng rất vui khi được gặp anh. Tôi chắc là anh muốn thẩm vấn tôi và Belle. Vậy, cứ hỏi những gì anh thấy cần đi.”
Giáo sư Bertrand Dillard là một người đàn ông khoảng hơn sáu mươi tuổi, hơi khòm lưng vì cả đời dành cho nghiên cứu ít vận động: gương mặt nhẵn nhụi, có một cái đầu rộng và ngắn đặc trưng, điểm trên đó là mái tóc dày bạc trắng chải ngược. Đôi mắt ông ấy, tuy nhỏ, nhưng mãnh liệt và sắc sảo lạ thường; những nếp nhăn quanh miệng của ông ấy giữ lại biểu cảm nhăn nhó nghiêm trọng thường là do nhiều năm tập trung vào những vấn đề nan giải. Nét mặt ông là của người nghĩ ngợi xa xôi và nhà khoa học; và như thế giới đều biết, những giấc mơ điên rồ của người đàn ông này về không gian, thời gian và chuyển động đã được hiện thực hóa thành một nền tảng mới của giả thiết khoa học. Thậm chí bây giờ gương mặt của ông ấy vẫn phản chiếu lại sự trừu tượng nội tâm, cứ như cái chết của Robin chẳng khác gì một sự xâm phạm đến câu chuyện nội tâm của ông ấy.
Markham lưỡng lự một lúc trước khi đáp lại. Sau đó anh ta nói với vẻ tôn trọng:
“Có lẽ, thưa ông, ông cứ kể cho tôi những gì ông biết về thảm kịch này. Rồi tôi sẽ đặt ra những câu hỏi cần thiết.”
Giáo sư Dillard với lấy chiếc tẩu bằng đá bọt cũ nằm trên cái bàn bên cạnh. Khi ông ấy nhét thuốc và châm lửa xong, ông chỉnh lại ghế ngồi cho thoải mái hơn.
“Tôi đã kể cho anh nghe hầu như toàn bộ những gì tôi biết qua điện thoại rồi. Robin và Sperling đến đây vào khoảng 10 giờ sáng hôm nay để gặp Belle. Nhưng con bé đã đến sân chơi quần vợt, nên họ đợi ở phòng khách tầng dưới. Tôi nghe thấy họ nói chuyện với nhau ở đó gần nửa tiếng trước khi họ đến phòng câu lạc bộ dưới tầng hầm. Tôi ở lại đây đọc sách có lẽ được một tiếng, rồi sau đó, vì thấy ánh nắng có vẻ dễ chịu nên tôi quyết định ra ban công sau nhà. Tôi ở đó khoảng 5 phút, tôi nghĩ thế, lúc tôi vô tình nhìn xuống bãi tập bẳn cung; thì tôi cảm thấy kinh hoàng khi nhìn thấy Robin nằm ngửa mặt lên trời với phần thân của mũi tên nhô ra khỏi ngực anh ta. Tôi di chuyển xuống nhanh hết mức mà bệnh gout của tôi cho phép, nhưng ngay lúc đó tôi biết là chàng trai tội nghiệp ấy đã chết rồi; nên tôi lập tức gọi điện thoại cho anh. Lúc đó trong nhà không có ai ngoài lão Pyne - người quản gia - và tôi. Đầu bếp đã ra ngoài đi chợ; Arnesson đến trường đại học vào lúc 9 giờ sáng; và Belle vẫn còn ở sân quần vợt. Tôi bảo Pyne đi tìm Sperling, nhưng không thấy anh ta ở đâu cả; tôi quay lại thư viện để đợi anh đến. Khi người của anh đến thì Belle cũng vừa mới về, một lát sau đầu bếp cũng về đến. Arnesson sẽ về nhà sau 2 giờ chiều.”
“Không có người nào khác ở đây sáng nay - không có người lạ hay khách khứa sao?”
Vị giáo sư lắc đầu.
“Có mỗi Drukker, - tôi nghĩ là anh có gặp anh ta ở đây một lần. Anh ta sống trong ngôi nhà đằng sau chúng tôi. Anh ta cũng thường ghé qua, tuy nhiên - chủ yếu là để gặp Arnesson: bọn họ có nhiều điểm chung. Anh ta có viết một quyển sách là ‘Đường vũ trụ trong thể liên tục đa chiều.’ Con người này cũng là một thiên tài theo cách của anh ta; có một bộ óc khoa học thật sự… Nhưng khi anh ta biết Arnesson đã ra ngoài, anh ta ngồi lại thảo luận với tôi một lát về chuyến thám hiểm Brazil của Hội thiên văn học Hoàng gia. Sau đó anh ta về nhà.”
“Lúc đó là mấy giờ?”
“Khoảng 9 giờ rưỡi. Lúc Robin và Sperling đến Drukker đã đi rồi.”
“Có gì bất thường không, giáo sư Dillard,” Vance hỏi, “về việc anh Arnesson rời khỏi nhà vào sáng thứ Bảy?”
Vị giáo sư già bất ngờ nhìn lên, và có một chút lưỡng lự trước khi ông ấy trả lời.
“Cũng không hẳn bất thường; tuy nhiên nó thường ở nhà vào ngày thứ Bảy. Nhưng sáng nay nó có việc nghiên cứu quan trọng cần làm cho tôi ở thư viện khoa… Arnesson,” ông ấy nói thêm, “đang làm việc với tôi để cho ra một quyến sách sắp tới.”[*]
Mọi người im lặng trong chốc lát; sau đó Markham lên tiếng.
“Sáng nay ông có nói cả Robin và Sperling đều muốn cầu hôn cô Dillard…”
“Kìa bác!” Cô gái ngồi thẳng dậy trên chiếc ghế của mình và đưa ánh mắt giận dỗi, trách móc nhìn vị giáo sư già. “Không phải vậy đâu.”
“Nhưng đó là sự thật cháu ạ.” Giọng nói của ông ấy trở nên trìu mến rõ ràng.
“Thì đúng là thế - theo một cách nào đó,” cô ấy thừa nhận. “Nhưng không cần thiết phải nhắc đến điều đó. Bác biết đấy, cháu xem trọng họ, cũng như họ đối với cháu. Bọn cháu là bạn tốt của nhau - chỉ vậy thôi. Mới tối hôm qua, khi họ ở đây cùng nhau, cháu đã nói với họ - khá rõ ràng - rằng cháu sẽ không nghe bất cứ lời cầu hôn ngớ ngẩn nào từ miệng của họ nữa. Họ chỉ là bạn của cháu thôi… và giờ đây một trong hai người họ đã mất rồi… Tội nghiệp Chim Cổ Đỏ!” Cô ấy cố gắng đè nén cảm xúc.
Vance nhướng mày lên và nghiêng mình về phía trước.
“‘Chim Cổ Đỏ’?”
“À, tất cả chúng tôi đều gọi anh ấy như vậy. Chúng tôi làm vậy là để chọc ghẹo anh ấy, bởi vì anh ấy không thích biệt danh đó.”
“Cái biệt danh quen thuộc,” Vance nhận xét một cách đồng tình. “Và biệt danh đó cũng khá hay, phải không nào. Chú Chim Cổ Đỏ trong nguyên bản được ‘mọi loài chim bay lượn’ yêu mến, và tất cả chúng đều thương tiếc cho cái chết của chú.” Anh vừa nói vừa nhìn cô gái một cách chăm chú.
“Tôi biết chứ,” cô ấy gật đầu. “ Tôi có kể cho anh ấy nghe điều đó một lần. Và mọi người cũng quý mến Joseph nữa. Anh không thể nào không quý mến anh ấy. Anh ấy rất… rất tốt bụng và tử tế.”
Vance ngồi lại vào ghế của mình; và Markham tiếp tục việc điều tra.
“Thưa giáo sư, ông có nói rằng ông đã nghe Robin và Sperling nói chuyện trong phòng khách. Ông có nghe được điều gì trong cuộc đối thoại của họ không?”
Ông lão nhìn lướt sang cô cháu gái.
“Câu hỏi đó có quan trọng không, Markham?” Ông ấy hỏi, sau một lúc lưỡng lự.
“Có thể rất cần thiết, liên quan đến vụ án”
“Có lẽ vậy.” Giáo sư trầm tư hút tẩu thuốc. “Mặt khác, nếu tôi trả lời thì tôi có thể gây ra ấn tượng sai lệch và gây ra sự bất công nghiêm trọng với người sống.”
“Ông không thể tin tưởng tôi trong việc phán xét điều đó sao?” Giọng của Markham ngay lập tức trở nên nghiêm trọng và nài nỉ.
Không gian lại chìm vào im lặng, nhưng bị cô gái phá vỡ.
“Sao bác không nói cho anh Markham những gì đã nghe được? Nó có hại gì đâu?”
“Bác chỉ nghĩ cho cháu thôi, Belle,” giáo sư nhẹ nhàng trả lời. “Nhưng có lẽ cháu nói đúng.” Ông ấy miễn cưỡng nhìn lên. “Markham, sự thật là Robin và Sperling đã cãi nhau về Belle. Tôi chỉ nghe thấy vài câu, nhưng tôi đoán rằng người này nghĩ người kia cạnh tranh không công bằng - giở trò ngáng đường nhau…”
“Ôi! Họ không có ý đó đâu,” cô Dillard kịch liệt ngắt lời. “Họ lúc nào cũng chơi khăm nhau. Đúng là giữa họ có sự ganh tị; nhưng tôi không phải là nguyên nhân thật sự gây ra điều đó. Là thành tích bắn cung của họ mới đúng. Anh thấy đó, Raymond - anh Sperling - đã từng là một xạ thủ cừ hơn; nhưng đến năm ngoái Joseph đã đánh bại anh ấy ở vài buổi thi đấu, và vào giải đấu hàng năm mới đây của chúng tôi Joseph trở thành cung thủ vô địch của câu lạc bộ.”
“Và có lẽ Sperling nghĩ rằng,” Markham thêm vào, “sự đánh giá của cô dành cho anh ta đã thấp xuống.”
“Thật nực cười!” Cô gái vặn lại một cách nóng nảy.
“Cháu à, bác nghĩ chúng ta có thể tin tưởng giao lại vấn đề này cho Markham xử lý,” giáo sư Dillard xoa dịu. Rồi nói với Markham: “Anh còn muốn hỏi gì nữa không?”
“Tôi muốn biết tất cả những gì ông có thể nói cho tôi về Robin và Sperling - họ là ai; các mối quan hệ của họ; và ông quen biết họ đã bao lâu rồi.”
“Tôi nghĩ Belle có thể giải thích rõ ràng hơn tôi. Cả hai chàng trai quen thân với con bé. Tôi chỉ thỉnh thoảng gặp gỡ họ thôi.”
Markham quay sang nhìn cô gái mong đợi.
“Tôi quen biết họ nhiều năm rồi,” cô ấy trả lời ngay. “Joseph lớn hơn Raymond tám hoặc mười tuổi và sống ở Anh cho đến tận 5 năm trước, khi cha và mẹ của anh ấy đều qua đời. Anh ấy đến nước Mỹ và sống tại căn hộ riêng trên đường Drive. Anh ấy có một số tiền lớn và sống thảnh thơi, chú tâm vào sở thích câu cá, săn bắn và những hoạt động ngoài trời khác. Anh ấy có một vài mối giao thiệp và là một người bạn vui vẻ, thoải mái luôn luôn đến góp mặt vào các bữa tối hoặc làm tay chơi bài bridge[*] thứ tư. Không có điểm gì thật sự nổi trội ở anh ấy cả - về mặt học thuật, anh biết đấy…”
Cô ấy ngừng lại, như thể lời nhận xét của cô ấy không phải với người chết theo cách nào đó, và Markham, nhận ra cảm xúc của cô, chỉ hỏi đơn giản:
“Còn Sperling?”
“Anh ấy là con trai của một nhà sản xuất giàu có - hiện giờ đã về hưu. Họ sống ở Scarsdale trong một tòa dinh thự xinh đẹp, - câu lạc bộ bắn cung của chúng tôi có một bãi tập bắn thường xuyên ở đó, - và Raymond là kỹ sư tư vấn cho một vài công ty ở trung tâm thành phố; nhưng tôi nghĩ anh ấy đi làm chỉ là để làm cha mình hài lòng, vì một tuần anh ấy chỉ đến văn phòng hai hoặc ba ngày thôi. Anh ấy tốt nghiệp trường Đại học Kỹ thuật Boston, và tôi gặp anh ấy lần đầu khi anh ấy đang là sinh viên năm hai, về nhà trong kỳ nghỉ hè. Raymond sẽ không bao giờ gây ra chuyện động trời đâu, anh Markham; anh ấy đúng là tuýp thanh niên Mỹ trẻ tuổi tốt bụng - chân thành, vui nhộn, hơi nhút nhát và hoàn toàn thẳng thắn.”
Rất dễ dàng hình dung ra cả Robin và Sperling từ lời miêu tả ngắn gọn của cô gái; và cũng khó khăn như thế trong việc liên kết họ với thảm kịch xấu xa đã đưa chúng tôi đến với ngôi nhà này.
Markham ngồi nhíu mày suy nghĩ một lúc lâu. Cuối cùng anh ta ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào cô gái.
“Cô Dillard, hãy nói tôi nghe thử: cô có giả thuyết hoặc lời giải thích nào có thể, theo mọi mặt, lý giải cho cái chết của anh Robin không?”
“Không!” Một từ đơn giản bật ra khỏi miệng cô ấy. “Ai lại có thể muốn giết Chim Cổ Đỏ chứ? Anh ấy làm gì có kẻ thù. Toàn bộ chuyện này không thể tin được. Tôi không thể tin nó đã xảy ra cho đến khi tự tôi đến và… và tận mắt nhìn thấy. Thậm chí chuyện đó cũng không có vẻ là thật nữa.”
“Tuy nhiên, cháu à,” giáo sư Dillard lên tiếng, “anh ta đã bị giết; cho nên phải có một chuyện gì đó trong đời anh ta mà cháu không biết hoặc không ngờ đến. Con người liên tục tìm ra được những ngôi sao mới mà các nhà thiên văn học thời xa xưa còn không tin là có tồn tại kia mà.”
“Cháu không thể tin là Joseph có kẻ thù,” cô ấy đáp. “Cháu sẽ không tin đâu. Điều đó hoàn toàn vô lý.”
“Cô nghĩ rằng,” Markham hỏi, “không chắc Sperling là người đã gây ra cái chết của Robin ư?”
“Không chắc ư?” Ánh mắt của cô gái lóe lên. “Không thể nào mới đúng!”
“Ấy vậy mà, cô biết đấy, cô Dillard,” - Vance nói bằng một giọng bình thường - “Sperling có nghĩa là ‘chim sẻ’.”
Cô gái ngồi im bất động. Gương mặt cô chuyển sang tái nhợt và hai bàn tay siết chặt tay vịn ghế. Rồi từ từ, và như thể vô vùng khó khăn, cô ấy gật đầu, và ngực cô bắt đầu phập phồng cùng với nhịp thở gấp. Bỗng nhiên cô rùng mình và áp khăn tay lên mặt.
“Tôi sợ lắm!” Cô thì thầm.
Vance đứng dậy và đi đến chỗ cô ấy, chạm vào vai cô một cách an ủi.
“Tại sao cô lại sợ?”
Cô ấy ngước nhìn lên và bắt gặp ánh mắt anh. Chúng có vẻ như đang trấn an cô, và cô nở một nụ cười gượng ép đáng thương.
“Mới ngày hôm kia thôi,” cô ấy nói, bằng giọng căng thẳng, “tất cả chúng tôi đều ở bãi tập bắn cung dưới nhà; và Raymond vừa đang chuẩn bị bắn một lượt American Round[*], thì Joseph mở cửa tầng hầm và đi ra bãi tập. Không có gì nguy hiểm cả, nhưng Sigurd - anh Arnesson, mọi người biết đó - đang ngồi trên ban công nhỏ sau nhà xem chúng tôi; và khi tôi kêu ‘Hi! Hi!’ chọc Joseph, Sigurd nhoài người ra và nói: ‘Anh không biết anh đang mạo hiểm như thế nào đâu, chàng trai ạ. Anh là một con Chim Cổ Đỏ và tay cung thủ kia là một con chim sẻ; và anh có nhớ chuyện gì đã xảy ra với con chim có cùng tên với anh khi một anh Chim Sẻ dùng cung và tên’ - hoặc đại loại như vậy. Lúc đó không ai để ý nhiều đến chuyện ấy. Nhưng giờ!…” Giọng cô ấy bỏ lửng thành tiếng lẩm bẩm sợ hãi.
“Thôi nào, Belle; đừng như vậy.” Giáo sư Dillard an ủi, nhưng không phải là không khó chịu. “Đó chỉ đơn thuần là một trong những câu nói đùa không đúng lúc của Sigurd mà thôi. Cháu biết nó luôn luôn nhạo báng và giễu cợt sự thật mà: đó chỉ là cách giải tỏa sự chuyên tâm liên tục vào những thứ trừu tượng của nó.”
“Cháu cũng nghĩ vậy,” cô gái trả lời. “Dĩ nhiên, đó chỉ là nói đùa thôi. Nhưng bây giờ nó có vẻ giống như lời tiên tri khủng khiếp. - Chỉ là,” cô nhanh chóng bổ sung, “Raymond không thể gây ra chuyện này.”
Vừa lúc cô nói xong thì cánh cửa thư viện đột nhiên mở ra và một thân hình cao và hốc hác xuất hiện tại ngưỡng cửa.
“Sigurd!” Tiếng kêu giật mình của Belle Dillard chứa đựng một sự khuây khỏa không thể chối cãi.
Sigurd Arnesson, người được giáo sư Dillard bảo trợ và nhận làm con nuôi, là một người đàn ông có vẻ ngoài nổi bật - cao hơn 6 foot[*], tóc dày và thẳng, với cái đầu, mới nhìn vào, có vẻ quá khổ so với thân hình. Mái tóc gần như màu vàng của anh ta bù xù, như của một cậu học sinh; anh có mũi khoằm; hàm thì gầy và khỏe. Dù anh ta chưa ở độ tuổi trên bốn mươi, nhưng trên mặt anh ta lại có nhiều nếp nhăn. Biểu cảm của anh ta nhăn nhó một cách mỉa mai; nhưng niềm say mê tri thức dữ dội thắp sáng đôi mắt xanh xám của anh ta đối chọi lại với bất cứ sự nông cạn nào của tạo hóa. Phản ứng ban đầu của tôi về nhân cách của anh ta là vừa thích vừa tôn trọng. Một người đàn ông có chiều sâu - những tiềm năng mạnh mẽ và những khả năng to lớn.
Lúc anh ta tiến vào căn phòng chiều hôm đó, ánh mắt tìm kiếm của anh ta ghi nhận tất cả chúng tôi bằng một cái liếc nhanh và dò hỏi. Anh ta gật đầu nhát gừng với cô Dillard và rồi nhìn thẳng vị giáo sư già bằng dáng vẻ thích thú.
“Làm ơn, chuyện gì đã xảy ra trong ngôi nhà ba chiều này vậy? Xe và người ở bên ngoài: một tên hộ vệ đứng ở cửa… và khi tôi cuối cùng cũng vượt qua được Cerberus[*] và được ông Pyne cho vào, hai người đàn ông mặc thường phục đẩy tôi đến đây mà không có chút lễ độ hoặc lời giải thích nào. Rất thú vị nhưng hỗn loạn… A! Có vẻ như tôi nhận ra ngài công tố viên đây. Chào buổi sáng - hay đúng hơn là, buổi chiều - anh Markham.”
Trước khi Markham kịp đáp lại lời chào muộn màng này thì Belle Dillard đã lên tiếng.
“Sigurd, làm ơn nghiêm túc đi. - Anh Robin đã bị giết rồi.”
“Ý cô là ‘Chim Cổ Đỏ’. Chà, chà! Với cái tên như vậy thì anh chàng này còn trông đợi gì nữa?” Anh ta có vẻ hoàn toàn thản nhiên trước tin này. “Ai, hoặc cái gì, đã đưa anh ta trở về với cát bụi vậy?”
“Về phần ai đã làm thì chúng tôi không biết.” Chính Markham là người trả lời, với giọng điệu trách móc sự không nghiêm túc của người kia. “Nhưng anh Robin đã bị giết bằng một mũi tên xuyên tim.”
“Quá phù hợp.” Arnesson ngồi xuống tay vịn của một chiếc ghế và duỗi thẳng cặp chân dài ra. “Còn gì thích hợp hơn việc Chim Cổ Đỏ phải chết dưới mũi tên bắn ra từ cây cung của…”
“Sigurd!” Belle Dillard cắt ngang lời anh ta. “Chẳng lẽ anh đùa chưa đủ về chuyện đó sao? Anh biết rõ rằng Raymond không làm điều đó.”
“Dĩ nhiên rồi, em gái.” Người đàn ông nhìn sang cô một cách bâng khuâng. “Tôi vừa nghĩ đến vị tổ tiên nghiên cứu về loài chim của anh Rọbin.” Anh ta chầm chậm quay sang Markham. “Vậy đây là một vụ giết người bí ẩn thật rồi, có phải là - có một xác chết, những manh mối và tất cả là những cái bẫy? Tôi có thể nghe câu chuyện được chứ?”
Markham kể sơ qua cho anh ta về tình hình, và anh ta lắng nghe với sự quan tâm chăm chú. Khi sự việc được kể xong, anh ta hỏi:
“Không một cây cung nào được tìm thấy ở bãi tập à?
“A!” Vance, lần đầu tiên kể từ lúc người đàn ông bước vào, thoát khỏi tình trạng thờ ơ của bản thân, và trả lời thay cho Markham. “Một câu hỏi thích hợp nhất đấy anh Arnesson. - Phải, một cây cung được tìm thấy ngay bên ngoài cửa sổ tầng hầm, cách cái xác chỉ 10 foot[*].”
“Điều đó đương nhiên đơn giản hóa được vấn đề,” Arnesson nói, có hơi thất vọng. “Bây giờ chỉ còn là chuyện lấy dấu vân tay thôi.”
“Đáng tiếc là cây cung đã bị chạm qua,” Markham giải thích. “Giáo sư Dillard đã nhặt nó lên và đem vào trong nhà.”
Arnesson tò mò quay sang ông lão.
“Thưa thầy, động lực nào khiến thầy làm điều đó?”
“Động lực thúc đẩy ư? Sigurd yêu quý à, ta không giải thích được cảm xúc của mình. Nhưng lúc đó ta chỉ biết rằng cây cung là một vật chứng quan trọng, và ta đã đặt nó dưới tầng hầm để giữ nó chờ cảnh sát đến.”
Arnesson làm vẻ mặt nhăn nhó và nhướng một bên mắt lên một cách hài hước.
“Nghe có vẻ giống như những người bạn phân tâm học của chúng ta gọi là một lời giải thích được che đậy. Con tự hỏi rằng thầy đang nghĩ gì trong đầu…”
Có tiếng gõ cửa, và Burke ló đầu vào.
“Bác sĩ Doremus đang đợi anh ở dưới lầu, thưa sếp. Ông ta đã kiểm tra xong rồi.”
Markham đứng dậy và xin phép ra ngoài.
“Ngay bây giờ tôi không làm phiền mọi người thêm nữa. Có một vài việc thủ tục cần phải làm. Nhưng tôi đề nghị mọi người tạm thời ở yên trên lầu. Tôi sẽ gặp lại mọi người trước khi tôi đi.”
Doremus đang sốt ruột đung đưa trên những ngón chân của mình khi chúng tôi đến gặp ông ta trong phòng khách.
“Không có gì phức tạp về ca này cả,” ông ta lên tiếng trước cả khi Markham kịp nói điều gì. “Anh bạn yêu thích thể thao của chúng ta bị giết bởi một mũi tên cực kỳ sắc nhọn đâm thẳng vào tim, xuyên qua khe giữa xương sườn thứ tư. Lực đâm rất mạnh. Bên ngoài lẫn bên trong đều bị xuất huyết nhiều. Anh ta chết được khoảng hai tiếng đồng hồ, tôi cho là vậy, có nghĩa là thời gian tử vong vào khoảng 11 giờ rưỡi. Tuy nhiên đấy mới chỉ là phỏng đoán thôi. Không có dấu hiệu nào của sự chống trả - không có dấu vết nào trên quần áo hoặc vết trầy trên hai bàn tay của anh ta; Cái chết xảy đến bất thình lình mà anh ta không hề hay biết gì hết. Nhưng đầu anh ta bị u lên vì bị đập vào sàn xi măng gồ ghề khi ngã…”
“Cái này thú vị lắm đây.” Giọng kéo dài của Vance làm gián đoạn phần báo cáo nửa chừng của vị giám định pháp y. “Đụng mạnh đến cỡ nào vậy bác sĩ?”
Doremus chớp mắt và nhìn Vance với sự ngạc nhiên.
“Mạnh đến mức làm nứt cả hộp sọ. Tất nhiên tôi không thể cảm nhận được; nhưng có một điểm tụ máu lớn ở vùng chẩm, máu khô nằm trong mũi và hai tai, độ mở đồng tử không bằng nhau, cho thấy hộp sọ bị nứt. Tôi sẽ biết rõ hơn sau khi mổ khám nghiệm tử thi.” Ông ta quay sang vị công tố viên. “Còn gì nữa không?”
“Tôi nghĩ là hết rồi, bác sĩ. Chỉ là hãy đưa cho chúng tôi bản báo cáo khám nghiệm tử thi càng sớm càng tốt.”
“Tối nay tôi sẽ đưa. Trung sĩ đã gọi xe rồi.” Bắt tay với tất cả chúng tôi xong, ông ta vội vã ra về.
Heath bực bội đứng ở phía sau.
“Điều đó chẳng giúp ích được gì cho chúng ta cả, thưa anh,” anh ta phàn nàn, nhai điếu xì gà một cách hằn học.
“Đừng nản lòng, trung sĩ,” Vance quở trách. “Cú va đập sau đầu cũng đáng giá cho sự quan tâm sâu sắc nhất của anh đấy. Theo quan điểm của tôi nó không hoàn toàn do việc té ngã đâu.”
Viên trung sĩ không hề bị ấn tượng bởi nhận xét này.
“Hơn nữa, anh Markham à,” anh ta tiếp tục, “không hề có bất cứ dấu vân tay nào trên cây cung hoặc mũi tên cả. Dubois nói chúng trông cứ như đã bị lau chùi sạch sẽ. Cỏ một vài vết ở cuối cây cung, chỗ quý ông cao tuổi nhặt nó lên; nhưng không có dấu vân tay nào khác.”
Markham hút thuốc một lúc lâu trong sự im lặng ảm đạm.
“Thế còn tay cầm trên cánh cổng dẫn ra ngoài đường thì sao? Và cả trên tay nắm cửa đường hẻm giữa những tòa nhà chung cư nữa?”
“Không có gì hết!” Heath khịt mũi tỏ vẻ chán nản. “Cả hai đều bằng sắt xù xì bị hoen gỉ không dính được dấu vân tay.”
“Này, Markham à,” Vance nhận xét, “anh điều tra sai hướng rồi. Theo lẽ tự nhiên phải không có dấu vân tay mới đúng. Thật ra, anh biết đấy, một người không thế cẩn thận dàn dựng ra một vở kịch để rồi sau đó bỏ hết tất cả đạo cụ sân khấu lên trước mặt cho khán giả xem. Điều chúng ta cần phải tìm hiểu chính là tại sao ông bầu đặc biệt này lại quyết định theo đuổi những buổi diễn vớ vẩn như vậy.”
“Không dễ như anh nói đâu, anh Vance,” Heath cay đắng cam chịu.
“Tôi có nói là dễ sao? Không đâu, trung sĩ; nó cực kỳ khó khăn. Và nó còn tệ hơn cả khó khăn nữa: nó xảo quyệt, mờ mịt và… tàn ác.”
Chú Thích:
[*] 6 m.
[*] Jacobean: giai đoạn của lịch sử nước Anh (1603 - 1625) thời vua James I của Anh, còn được gọi là James VI của Scotland.
[*] Objets - d’art (tiếng Pháp): đồ mỹ nghệ hoặc trang trí nhỏ.
[*] Albrecht Dürer (1471 - 1528): họa sĩ người Đức, nhà đồ họa và lý thuyết gia về nghệ thuật nổi tiếng ở châu Âu. Dürer là một nhà nghệ thuật lớn trong thời kỳ của Chủ nghĩa nhân văn và Phong trào cải cách.
[*] Quyển sách mà Giáo sư Dillard nhắc đến là một tác phẩm vĩ đại được xuất bản hai năm sau đó, “Cấu trúc nguyên tử của năng lượng phóng xạ”, một bản hiệu đính về thuyết lượng tử của Planck, bác bỏ định lý cổ điển về sự liên tiếp của tất cả tiến trình vật chất như được nêu bởi Maximus Tyrius.
[*] Trò chơi gồm 4 người, 2 người ngồi chéo nhau là một cặp, được xem là bắc cầu (bridge) cùng phe. Mỗi người sử dụng 13 lá bài để đánh và đấu giá nhau nhằm giành điểm thưởng và cũng có thể bị phạt điểm nếu để cặp bên kia thắng.
[*] Thể thức thi đấu trong bắn cung gồm việc bắn 30 mũi tên cách 60 yard (55 m), 30 mũi tên cách 50 yard (46 m), và 30 mũì tên cách 40 yard (37 m).
[*] 1,8m.
[*] Trong thần thoại Hy Lạp, Cerberus là con chó săn ba đầu với cái đuôi rắn, là con vật canh giữ ở cổng địa ngục. Cerberus giữ cổng, chỉ cho linh hồn người đã chết được vào, ngăn không cho bất kỳ ai ra.
[*] 3m.