Chương 4 THÔNG ĐIỆP BÍ ẨN-(Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 2 p.m.)
Markham ngồi xuống trước bàn trà.
“Cứ tin như thế đi, trung sĩ, bây giờ chúng ta kiểm tra hai người hầu.”
Heath bước vào sảnh và lệnh cho người của anh ta đi. Vài phút sau, một người đàn ông cao và ủ rũ bước vào trong tư thế kính cẩn.
“Đây là người quản gia, thưa anh”, viên trung sĩ giải thích. “Tên ông ấy là Pyne.”
Markham chú ý đến vẻ ngoài của người đàn ông này. Ông ta có lẽ khoảng sáu mươi. Nét mặt của ông ta rõ ràng là bị bệnh to cực[*] ; và sự biến dạng này ảnh hưởng tới toàn bộ hình thể của ông ta. Hai bàn tay to, và những ngón chân thì thô kệch và dị dạng. Quần áo của ông ta, mặc dù thẳng thớm nhưng lại không hợp với ông ta cho lắm; và chiếc cổ áo của ông ta thì lại quá khổ. Đôi mắt ông ta có màu xám đậm, hàng lông mày dày, trông nhợt nhạt và bạc thếch, và miệng của ông ta chỉ là một khe hở trong cả gương mặt bị phù đầy ốm yếu. Mặc dù vẻ ngoài khiếm khuyết, tuy nhiên, ông ta tạo ấn tượng là một người có khả năng sắc sảo.
“Vậy ông là quản gia của nhà Dillard,” Markham mơ màng. “Ông đã ở với gia đình này được bao lâu rồi, ông Pyne?”
“Trên mười năm, thưa anh.”
“Ông đã đến làm ở đây sau khi giáo sư Dillard xin thôi việc ở trường đại học?”
“Tôi nghĩ là thế, thưa anh.” Giọng của ông ta trầm và ồm ồm.
“Ông có biết gì về thảm kịch đã xảy ra vào sáng nay không?” Mặc dù Markham bất ngờ đặt câu hỏi, với hy vọng, theo tôi nghĩ, có nhiều thú nhận gây bất ngờ, nhưng Pyne đón nhận nó vô cùng thản nhiên.
“Không có bất cứ điều gì, thưa anh. Tôi không biết bất cứ điều gì đã xảy ra cho đến khi giáo sư Dillard gọi tôi từ thư viện và yêu cầu tôi tìm anh Sperling.”
“Sau đó ông ấy có nói với ông về thảm kịch đó?”
“Ông ấy nói: ‘Robin đã bị giết rồi, và tôi muốn ông tìm Sperling cho tôi.’ - Đó là tất cả, thưa anh.”
“Ông có chắc là ông ấy đã nói ‘bị giết’ chứ, ông Pyne?” Vance xen vào.
Lúc đầu thì ông quản gia do dự, và một sự sắc sảo len lỏi trong ánh mắt của ông ta.
“Có, thưa anh. Tôi chắc chắn ông ấy đã nói thế. ‘Bị giết’ là những gì ông ấy đã nói.”
“Và ông đã thấy xác của anh Robin khi ông tìm kiếm?” Vance truy vấn, mắt anh vẫn đang lần theo thiết kế trên bức tường.
Lại một khoảnh khắc do dự.
“Vâng, thưa anh. Tôi mở cửa tầng hầm để tìm kiếm trong bãi tập bắn cung, và ở đó tôi thấy quý ông trẻ tuổi tội nghiệp…”
“Một cú sốc lớn cho ông nhỉ, Pyne,” Vance lạnh nhạt quan sát. “Có phải ông, tình cờ thôi, đã chạm vào cái xác của quý ông trẻ tuổi tội nghiệp đó? - Hoặc vào mũi tên, có lẽ thế? - Hoặc cây cung?”
Đôi mắt bạc thếch của Pyne sáng lên trong một khoảnh khắc. “Không… dĩ nhiên là không, thưa anh… Tại sao tôi lại làm thế, thưa anh?”
“Tại sao ư?” Vance thở dài chán nản. “Nhưng ông thấy mũi tên chứ?”
Người đàn ông nheo mắt lại, như để hình dung một cái gì đó.
“Tôi không thể nói, thưa anh. Có lẽ có; có lẽ không. Tôi không nhớ.”
Vance dường như đã mất hết hứng thú; và Markham tiếp tục thẩm vấn.
“Tôi biết, ông Pyne, là anh Drukker đã ghé qua đây vào sáng nay lúc 9 giờ rưỡi. Ông có thấy anh ta không?”
“Có, thưa anh. Anh ta luôn dùng cửa tầng hầm; và anh ta đã chào tôi khi anh ta đi qua phòng để thức ăn ở đầu cầu thang.”
“Anh ta ra về như cách anh ta đến chứ?”
“Tôi cho là như thế, thưa anh… mặc dù tôi ở trên lầu khi anh ta đi khỏi. Anh ta sống trong ngôi nhà ở phía sau… ”
“Tôi biết.” Markham ngả người về phía trước. “Tôi đoán là ông đã gặp Robin và Sperling vào sáng nay.”
“Vâng, thưa anh. Khoảng 10 giờ.”
“Ông có thấy họ lần nữa, hoặc nghe được bất kỳ bình luận nào của họ khi họ ngồi chờ ở phòng khách không?”
“Không, thưa anh. Phần lớn buổi sáng tôi bận trong phòng anh Arnesson.”
“À!” Vance đưa mắt nhìn người đàn ông. “Nó ở cuối tầng hai, đúng chứ? - Căn phòng có ban công?”
“Đúng, thưa anh.”
“Thú vị thật… Và đó là ban công mà giáo sư Dillard lần đầu nhìn thấy thi thể của anh Robin. - Làm thế nào mà ông ấy vào phòng mà ông không biết chứ? Ông đã nói, tôi nghĩ, rằng lần đầu tiên ông biết về thảm kịch này là khi giáo sư gọi ông từ thư viện và bảo ông đi tìm anh Sperling.”
Gương mặt của ông quản gia bỗng trắng bệch, và tôi để ý thấy những ngón tay của ông ta co lại một cách lo lắng.
“Tôi có lẽ đã rời khỏi phòng anh Arnesson trong chốc lát,” ông ta nỗ lực giải thích. “Vâng… rất có thể là như thế. Thật vậy, thưa anh, tôi nhớ tôi đến phòng để đồ vải…”
“Ồ, chắc là vậy.” Vance thờ ơ.
Markham hút thuốc một lát, ánh mắt anh ta tập trung vào mặt bàn.
“Còn có ai ghé nhà sáng nay không, ông Pyne?” Anh ta hỏi ngay sau đó.
“Không ai cả, thưa anh.”
“Và ông có đưa ra giả thuyết gì giải thích cho những việc đã xảy ra ở đây không?”
Người đàn ông lắc đầu một cách nặng nề, đôi mắt ngấn nước nhìn xa xăm.
“Không, thưa anh. Anh Robin dường như là một người đàn ông trẻ tuổi vui tính, dễ mến. Anh ta không phải loại người mà người khác muốn giết… Nếu ông hiểu những gì tôi nói.”
Vance dò xét.
“Tôi không thể nói rằng tôi, với tư cách cá nhân, hiểu chính xác những gì ông nói, Pyne. Làm thế nào mà ông biết đó không phải là một tai nạn?”
“Tôi không biết, thưa anh,” ông ta bình thản trả lời. “Nhưng tôi biết một chút về bắn cung - nếu anh không phiền để tôi nói về nó - và tôi nhận ra ngay là anh Robin đã bị giết bằng một mũi tên dùng để đi săn.”
“Ông rất tinh ý, Pyne,” Vance gật đầu. “Và khá chính xác.”
Rõ ràng là không có thông tin gì từ ông quản gia cả, và Markham cho ông ấy rời khỏi ngay, đồng thời lệnh cho Heath đưa người đầu bếp đến.
Khi cô ta bước vào tôi nhận ra ngay sự tương đồng giữa người cha và cô con gái. Một người phụ nữ nhếch nhác khoảng bốn mươi tuổi, cũng cao và gầy nhom, với khuôn mặt thon nhỏ và tay chân to lớn. Rõ ràng là hội chứng cường chức năng tuyến yên đã di truyền trong gia đình ông Pyne.
Một vài câu hỏi thông tin sơ bộ cho thấy cô ta là một goá phụ, tên là Beedle, chồng cô ta chết 5 năm trước, và cô ta được ông Pyne giới thiệu với giáo sư Dillard.
“Cô rời khỏi nhà vào lúc mấy giờ sáng nay, Beedle?” Markham hỏi cô ta.
“Ngay sau 10 giờ rưỡi.” Cô ta có vẻ khó chịu và cảnh giác, và giọng nói thì như đang tự vệ.
“Và mấy giờ cô trở về nhà?”
“Khoảng 12 giờ rưỡi. Người đàn ông đó cho tôi vào” - cô ta nhìn Heath một cách ác cảm - “và đối xử với tôi giống như tôi là tội phạm vậy.”
Heath cười nhăn nhở. “Thời gian thì chính xác, anh Markham. Cô ta chỉ tức tối vì tôi không cho cô ta đi xuống lầu.”
Markham gật đầu không ý kiến.
“Cô có biết bất cứ điều gì đã xảy ra ở đây vào sáng nay không?” Anh ta tiếp tục đặt câu hỏi, vẫn quan sát người phụ nữ này một cách tỉ mỉ.
“Làm sao tôi biết được? Tôi đã ở chợ Jefferson.”
“Cô có thấy anh Robin hay anh Sperling không?”
“Họ đã xuống lầu tới phòng bắn cung qua khỏi nhà bếp một chút trước khi tôi ra ngoài.”
“Cô có nghe lỏm được họ đã nói gì không?”
“Tôi không nghe lén họ.”
Markham nghiến răng một cách giận dữ và chuẩn bị đáp trả thì Vance nói chuyện với người phụ nữ này một cách khéo léo.
“Ngài công tố viên đây nghĩ rằng có lẽ là do cửa đã để mở, và cô có thể đã nghe được cuộc trò chuyện của họ mặc dù cô không cố tình muốn nghe.”
“Cửa có thể đã để mở, nhưng tôi không nghe được bất kỳ điều gì cả,” cô ta trả lời.
“Vậy cô không thể cho chúng tôi biết nếu có bất kỳ ai khác nữa trong phòng bắn cung rồi.”
Beedle nheo mắt lại và nhìn Vance đầy toan tính.
“Có lẽ còn có ai khác nữa,” cô ta nói một cách chậm chạp. “Thật ra, tôi nghĩ tôi nghe có tiếng anh Drukker.” Giọng nói của cô ta pha lẫn sự cay độc, và nụ cười mỉa thoáng qua đôi môi mỏng của cô ta. “Anh ta ở đây để gặp anh Arnesson vào lúc sáng.”
“Ồ, là anh ta, lúc đó?” Vance có vẻ ngạc nhiên với tin này. “Có lẽ cô đã thấy anh ta?”.
“Tôi đã thấy anh ta vào nhà, nhưng tôi lại không thấy anh ta ra ngoài… dù sao thì, tôi không để ý lắm. Anh ta lẻn ra vào nhà bất cứ lúc nào có thể.”
“Lẻn ư? Lạ thật!… Nhân tiện, cô đi ra chợ bằng cửa nào?
“Cửa trước. Kể từ khi cô Belle làm phòng cho câu lạc bộ ở tầng hầm, tôi luôn sử dụng cửa trước.”
“Vậy cô không vào phòng bắn cung sáng nay?”
“Không.”
Vance ngồi xuống ghế.
“Cám ơn sự giúp đỡ của cô, Beedle. Hiện giờ, chúng tôi không còn gì để hỏi cô nữa.
Khi người phụ nữ đi khỏi, Vance đứng lên đi tới cửa sổ.
“Chúng ta quá để tâm vào những chi tiết không liên quan, Markham à,” anh nói. “Chúng ta sẽ không thể tìm ra được thông tin gì từ những người hầu ranh mãnh này và từ việc hỏi cung các thành viên trong gia đình. Có một bức tường tâm lý cần phải được dỡ bỏ trước khi chúng ta công kích chiến hào của kẻ địch. Mọi người trong gia đình có những riêng tư sợ lộ ra ngoài. Mỗi người trong bọn họ cho đến nay đã nói chuyện với chúng ta ít nhiều về những gì họ biết. Nản thật, nhưng đúng là thế. Không điều gì chúng ta biết được khớp với bất kỳ cái gì khác; và khi các sự kiện theo thời gian không ăn khớp với nhau, anh có thể chắc rằng các răng của các đầu mối đã bị bóp méo một cách cố tình. Tôi không tìm thấy một sự liên kết hợp lý nào trong toàn bộ câu chuyện mà chúng ta được nghe.”
“Nhiều khả năng là các đầu mối bị giấu đi,” Markham lập luận; “và chúng ta sẽ không tìm ra chúng nếu chúng ta không tiếp tục hỏi cung họ.”
“Anh quá tự tin rồi đấy.” Vance bước lại phía bàn trà. “Càng hỏi nhiều thì chúng ta càng đi xa điều chúng ta muốn hướng tới. Ngay cả giáo sư Dillard cũng không cung cấp cho chúng ta thông tin hoàn toàn trung thực. Ông ấy còn giữ lại một cái gì đó - điều mà ông ấy sẽ không nói. Tại sao ông ấy lại mang cây cung vào trong nhà? Arnesson đã thấy được điểm mấu chốt khi anh ta hỏi câu hỏi tương tự. Anh chàng khôn ngoan, Arnesson. - Kế đến là cô gái trẻ năng động của chúng ta. Cô ấy bị vướng vào một mớ lộn xộn, và đang nỗ lực để giải thoát chính mình và mọi người mà không làm tổn thương bất kỳ ai. Một mục đích đáng khen ngợi, nhưng không có lợi cho sự thật. - Ông Pyne cũng có ý như thế. Mặt nạ ủy mị của ông ta đã che khuất nhiều ý nghĩ. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ biết được đầu óc ông ta đang nghĩ gì bằng cách hỏi cung ông ta. Có những điều rất kỳ quặc, như về công việc buổi sáng của ông ta. Ông ta nói mình đã ở trong phòng của Arnesson cả buổi sáng; nhưng rõ ràng là ông ta không biết giáo sư đang phơi nắng ngoài ban công ở phòng của Arnesson. Và cái cớ về tủ đựng đồ vải - quá không hợp lý. - Hơn nữa, Markham à, hãy thả tâm trí của anh theo lời khai của goá phụ Beedle. Cô ta không thích anh Drukker quá thoải mái này; và khi cô ta nhìn thấy một khả năng khiến anh ta dính líu tới vụ án, cô ta đã làm thế. Cô ta ‘nghĩ’ mình đã nghe giọng nói của anh ta ở phòng bắn cung. Nhưng có đúng như thế không? Ai biết được? Thật ra, có lẽ anh ta đã gặp phải điều khó chịu trên đường về nhà vì gặp Robin và Sperling sau đó… Đúng thế, đó là điều chúng ta phải điều tra. Thực ra, một cuộc trò chuyện lịch sự với anh Drukker chắc chắn biết được…”
Có tiếng bước chân đi xuống cầu thang phía trước, và Arnesson xuất hiện ở lối đi của phòng khách.
“Vậy, ai đã giết Chim Cổ Đỏ?” Anh ta hỏi, với một nụ cười nhăn nhở.
Markham đứng dậy, bực mình, phản đối sự xâm phạm này; nhưng Arnesson giơ tay lên.
“Một chút thôi, làm ơn đi. Tôi ở đây là muốn giúp đỡ với thành ý của mình cho mục đích tốt đẹp vì công lý, công lý của thế gian, tôi muốn các anh hiểu điều đó. Theo triết học, dĩ nhiên, chẳng có thứ gọi là công lý. Nếu công lý có thật thì tất cả chúng ta chỉ như những viên đá cuội trong lúp lều vũ trụ khổng lồ.” Anh ta ngồi xuống đối diện với Markham và cười giễu cợt. “Thật ra là, sự ra đi buồn bã và vội vàng của anh Robin thu hút được bản chất khoa học trong tôi. Nó tạo ra một vấn đề thú vị, có trật tự. Nó rõ ràng phảng phất hương vị của toán học - không có giới hạn không phân phối, anh hiểu mà; các hệ số đã biết với những ẩn số cần xác định. - À, tôi là thiên tài trong việc giải quyết nó đấy.”
“Lời giải của anh là gì, Arnesson?” Markham biết và tôn trọng trí thông minh của người đàn ông này, và dường như đồng thời cảm nhận được mục đích nghiêm túc ẩn bên dưới thái độ giễu cợt khiếm nhã của anh ta.
“À! Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa giải được phương trình này.” Arnesson lấy ra một cái tẩu thuốc cũ và sờ nó một cách nhẹ nhàng. “Nhưng tôi luôn muốn làm một công việc điều tra nho nhỏ trong một chừng mực có thể - sự hiếu kỳ thái quá và tính tò mò tự nhiên của các nhà vật lý, anh biết đấy. Và từ lâu tôi đã có một giả thuyết rằng khoa học về toán có thể được ứng dụng vào những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống của chúng ta trên hành tinh không mấy quan trọng này. Không có gì là không có quy luật trong vũ trụ này - trừ phi Eddington[*] nói đúng và không có quy luật nào cả - và tôi thấy không đủ lý do để cá tính và thái độ của tội phạm không thể được xác định như cách Le Verrier[*] tính toán khối lượng và lịch thiên văn của sao Hải Vương từ việc quan sát độ lệch trong quỹ đạo của sao Thiên Vương. Anh hãy nhớ cách, sau khi tính toán, ông ấy đã nói với Galle[*], nhà thiên văn học Berlin, để tìm một hành tinh theo một kinh độ xác định trong hoàng đạo.”
Arnesson dừng lại và nhồi thuốc vào tẩu.
“Bây giờ, anh Markham à,” anh ta tiếp tục; và tôi cố gắng xem xét có đúng là người đàn ông này đang nghiêm túc, “tôi muốn nhân cơ hội này áp dụng vào mớ hỗn độn lố bịch này phương pháp trung bình cộng thuần túy được dùng bởi Le Verrier trong việc khám phá sao Hải Vương. Nhưng tôi phải có dữ liệu về sự xáo trộn trong quỹ đạo của sao Thiên Vương, có thể nói - đó là, tôi phải biết tất cả các thông số trong phương trình. Tiện thể tôi đến đây để hỏi xem các anh có tin tưởng tôi và cho tôi biết tất cả sự việc. Một kiểu hợp tác trí tuệ. Tôi sẽ tính bài toán này giúp anh theo hướng khoa học. Sẽ là một trò cừ khôi; và tình cờ tôi muốn chứng minh giả thuyết của mình rằng toán học là nền tảng cho mọi sự thật dù có xa khỏi sự trừu tượng trong sách vở.” Cuối cùng anh ta lấy tẩu thuốc và thả mình lên ghế. “Thỏa thuận như vậy chứ?”
“Tôi bằng lòng nói tất cả những gì mà chúng tôi biết, Arnesson,” Markham trả lời sau một khoảng im lặng ngắn ngủi. “Nhưng tôi không thể hứa sẽ tiết lộ mọi thứ có thể phát sinh từ bây giờ trở đi. Nó có thể đi ngược lại với công lý và cản trở cuộc điều tra.”
Vance đang ngồi với đôi mắt khép hờ, dường như chán ngán với lời yêu cầu lạ lùng của Arnesson; nhưng ngay lúc này anh quay sang Markham với sự hăng hái đáng kể.
“Theo tôi, anh biết đấy; không có lý do gì mà chúng ta không cho Arnesson một cơ hội để phiên dịch tội ác này sang ngôn ngữ của toán học ứng dụng. Tôi chắc rằng anh ta sẽ thận trọng và chỉ sử dụng thông tin của chúng ta cho mục đích khoa học. Và - không một ai biết được, đúng không nào? - có thể chúng ta cần đến sự giúp đỡ chuyên gia của anh ta trước khi xong vụ này.”
Markham hiểu Vance khá tỉnh táo để nhận ra rằng lời đề nghị của anh không hề thiếu suy nghĩ; và tôi không chút ngạc nhiên khi anh ta nhìn thẳng Arnesson và nói:
“Được thôi. Chúng tôi sẽ đưa cho anh dữ liệu mà anh cần để thực hành công thức toán học của mình. Có điều gì đặc biệt anh muốn biết ngay bây giờ không?”
“Ồ, không. Đến giờ tôi cũng đã biết những chi tiết giống như anh nói; và tôi sẽ ép Beedle và lão Pyne cộng tác khi các anh đi khỏi. Nhưng nếu tôi giải quyết vấn đề này và chỉ ra đúng kẻ phạm tội, đừng bỏ lơ sự phát hiện của tôi như Sir George Airy[*] đã làm với Adams[*] tội nghiệp khi Adams gởi những tính toán của mình về sao Hải Vương trước cả những công bố của Le Verrier…”
Ngay lúc này cửa trước mở ra, và viên cảnh sát mặc đồng phục canh ở hành lang đi vào với một người lạ mặt.
“Quý ông đây nói muốn gặp giáo sư,” anh ta thông báo với vẻ nghi ngờ; và quay lại người đàn ông, anh ta ra dấu về phía Markham bằng đầu. “Đó là công tố viên quận. Hãy trình bày với ông ấy vấn đề của ông.”
Người mới đến có vẻ ngại ngùng. Ông ta mảnh khảnh, ăn mặc bảnh bao với một khí chất tao nhã. Về tuổi, tôi dự đoán, khoảng năm mươi, mặc dù ông ta có khuôn mặt trẻ hơn thế. Tóc của ông ta mỏng và hoa râm, mũi cao, cằm nhỏ nhưng không hề yếu ớt. Đôi mắt, nổi bật hơn nhờ vầng trán cao, là điểm thu hút của ông ta. Chúng là đôi mắt của thất vọng và bị vỡ mộng - nửa buồn phiền, nửa phẫn uất, giống như cuộc đời này đã lừa dối ông ta và để lại cho ông ta sự bất hạnh và cay đắng.
Ông ta định nói với Markham thì bắt gặp ánh mắt của Arnesson.
“Ồ, chào anh, Arnesson,” ông ta nói, sau một chút im lặng, với giọng hạ thấp. “Tôi mong rằng không có gì quá nghiêm trọng.”
“Chỉ là một cái chết đơn thuần thôi, Pardee”, người đàn ông trả lời một cách lơ đãng. “Tục ngữ có câu ‘chuyện bé xé ra to’.”
Markham thấy khó chịu khi bị xen ngang.
“Tôi có thể giúp gì cho ông?” Anh ta hỏi.
“Tôi mong rằng tôi đã không làm phiền.” người đàn ông xin lỗi. “Tôi là một người bạn của gia đình này, - tôi sống ở bên kia đường; và tôi thấy có gì đó bất thường đã xảy ra ở đây. Tôi có thể làm gì đó để giúp mọi người.”
Arnesson cười khoái trá. “Pardee thân mến! Tại sao ngụy trang sự tò mò bẩm sinh của ông trong lễ phục hoa mỹ như vậy?”
Pardee đỏ mặt.
“Tôi bảo đảm với anh, Arnesson…” ông ta bắt đầu; nhưng Vance ngắt lời.
“Ông Pardee, ông nói rằng mình sống ở đối diện. Có phải ông đã quan sát ngôi nhà này trong cả buổi sáng?
“Hầu như không phải vậy, thưa anh. Tuy nhiên, tôi làm việc và hướng xuống đường số 75, và đúng thực là tôi ngồi ở cửa sổ gần cả buổi sáng. Nhưng tôi lại bận viết lách. Khi tôi trở lại làm việc sau bữa trưa thì tôi chú ý đến đám đông và nhiều xe cảnh sát cũng như những cảnh sát mặc đồng phục đứng trước cửa.”
Vance nhìn vào khóe mắt ông ta.
“Vậy ông có tình cờ nhìn thấy ai ra vào ngôi nhà này sáng nay không, ông Pardee?” Anh hỏi.
Người đàn ông chậm rãi lắc đâu.
“Không ai đặc biệt. Tôi để ý thấy hai chàng trai trẻ - những người bạn của cô Dillard - ghé thăm lúc 10 giờ; và tôi thấy Beedle ra ngoài với giỏ đi chợ. Nhưng đó là tất cả những gì tôi nhớ được.”
“Ông có nhìn thấy ai trong số họ rời khỏi không?”
“Tôi không nhớ.” Pardee cau mày. “Và dường như có một người trong số họ ra về bằng cổng ở bãi tập. Nhưng chỉ có cảm giác vậy thôi.”
“Lúc đó là mấy giờ?”
“Thực sự thì tôi cũng không chắc nữa. Có thế là một tiếng hoặc hơn kể từ khi anh ta đến. Tôi không thể nhớ cụ thể hơn.”
“Ông nhớ rằng không có ai khác ra vào ngôi nhà này sáng nay sao?”
“Tôi thấy cô Dillard quay về từ sân quần vợt khoảng 12 giờ rưỡi, lúc tôi mới gọi bữa trưa. Thực ra, cô ta đã vẫy cái vợt với tôi.”
“Và không ai khác nữa?”
“Tôi e là như vậy.” Có một sự tiếc nuối rõ ràng trong câu trả lời của ông ta.
“Một trong những người thanh niên mà ông nhìn thấy đi vào đây đã bị sát hại,” Vance nói với ông ta.
“Anh Robin - biệt danh Chim Cổ Đỏ,” Arnesson bổ sung, với cái nhăn mặt hài hước khiến tôi khó chịu.
“Trời ơi! Thật là đáng buồn!” Pardee thực sự bị sốc. “Robin? Không phải anh ta là nhà vô địch bắn cung trong câu lạc bộ của Belle chứ?”
“Thành tích của anh ta sẽ được ghi nhớ. - Đó là một người bạn.”
“Tội nghiệp Belle!” Có gì đó trong tính cách của người đàn ông này khiến Vance để ý. “Tôi mong rằng cô ấy sẽ không suy sụp trước bi kịch này.”
“Cô ấy bi kịch hóa nó, cũng tự nhiên thôi,” Arnesson quay lại. “Cảnh sát cũng vậy, đối với chuyện đó. Nghiêm trọng hóa vấn đề lên. Trái đất này được bao phủ bởi ‘carbohydrate hỗn tạp nhỏ bay lơ lửng’ - giống như Robin trong toàn thể loài người vậy.”
Pardee cười với sự cảm thông buồn bã, - ông ta rõ ràng đã quá quen thuộc với những lời giễu cợt của Arnesson. Sau đó ông ta khẩn khoản hỏi Markham.
“Tôi có được phép gặp cô Dillard và bác của cô ấỳ không?”
“Tất nhiên là được rồi.” Vance đã trả lời trước khi Markham có thể đưa ra quyết định. “Ông sẽ tìm được họ ở thư viện, ông Pardee.” Người đàn ông rời khỏi phòng với tiếng thì thầm cảm ơn lịch sự.
“Một người bạn lạ lùng,” Arnesson nhận xét, khi mà Pardee không còn nghe thấy nữa. “Không phải lo chuyện tiền bạc. Sống một cuộc đời nhàn hạ. Niềm đam mê duy nhất của ông ta là tìm ra lời giải trong các ván cờ vua…”
“Cờ vua?” Vance ngước lên với vẻ hào hứng. “Liệu có phải ông ta là John Pardee, người phát minh ra thế cờ Pardee nổi tiếng?”
“Đúng là thế.” Mặt Arnesson nhăn lại một cách khôi hài. “Tốn hai mươi năm để phát triển một thế tấn công mà nó chỉ là một phần nhỏ trong trò chơi. Viết một cuốn sách về nó. Sau đó đi truyền bá nó như tham gia một cuộc thập tự chính trước cổng Damascus[*]. Ông ta luôn là người bảo trợ lớn cho các giải cờ vua, góp mặt trong các giải đấu, và chạy hối hả vòng quanh thế giới để tham dự các giải đấu cờ vua khác nhau. Làm như vậy ông ta có thể thử thế cờ mới của mình. Nó đã khuấy động ở câu lạc bộ cờ vua Manhattan. Sau đó Pardee tội nghiệp đã tổ chức hàng loạt những trận đấu đỉnh cao. Tự trả tất cả các chi phí đắt đỏ. Nó tốn nhiều tiền bạc của ông ta. Và dĩ nhiên ông ta quy định rằng thế cờ Pardee được chơi độc quyền. Chà, chà, nó khá là buồn. Khi những người như tiến sĩ Lasker[*], Capablanca[*], Rubinstein[*] và Finn[*] tham gia để đánh bại nó, khiến nó đổ vỡ. Hầu như những người chơi sử dụng thế cờ đó đều thua. Nó bị loại bỏ - còn tệ hơn thế cờ Rice[*] xấu số. Đòn nặng nề cho Pardee. Điều này làm ông ta mất đi nhuệ khí. Khiến ông ta trở nên già nua. Ông ta trở nên tuyệt vọng.”
“Tôi biết về lịch sử thế cờ này,” Vance lẩm bẩm, mắt anh trầm tư nhìn lên trần nhà. “Tôi đã từng chơi. Edward Lasker[*] đã dạy cho tôi…”
Một cảnh sát mặc đồng phục lại xuất hiện ở cổng lối đi và vẫy tay ra hiệu với Heath. Viên trung sĩ đứng dậy với vẻ nhanh nhẹn - sự rẽ hướng sang cờ vua rõ ràng đã làm anh ta cảm thấy nhàm chán - và bước vào sảnh. Một lúc sau khi quay lại anh ta mang theo một tờ giấy nhỏ.
“Có một chuyện hài hước, thưa anh,” anh ta nói, đưa nó cho Markham. “Mới đây, viên cảnh sát bên ngoài tình cờ thấy nó ló ra khỏi hộp thư, và có lẽ anh ta đã nhìn qua nó. Anh sẽ làm gì với nó, thưa anh?”
Markham xem xét nó với vẻ sửng sốt khó hiểu, không nói một lời nào và đưa nó cho Vance. Tôi đứng dậy và nhìn qua vai anh. Tờ giấy có kích thước thông thường dùng cho máy đánh chữ, và được xếp cho vừa với hộp thư. Nó gồm vài dòng được đánh bằng máy đánh chữ với những kỷ tự kiểu élite[*] và ruy băng màu lam nhạt.
Hàng đầu tiên viết:
Joseph Cochrane Robin đã chết.
Dòng thứ hai hỏi:.
Ai giết Chim Cổ Đỏ?
Bên dưới đánh máy:
Sperling có nghĩa là chim sẻ.
Và ở góc dưới bên phải - chỗ chữ ký - là hai từ, được viết hoa:
GIÁM MỤC.
Chú Thích:
[*] Bệnh to cực là một bệnh trạng hiếm gặp do tuyến yên sản xuất quá nhiều hormone tăng trưởng, sự sản xuất quá mức này làm cho một số xương, đặc biệt là ở mặt, bàn tay và bàn chân lớn ra.
[*] Arthur Stanley Eddington (1882 - 1944): nhà thiên văn, nhà vật lý, nhà toán học người Anh. Một cuộc quan sát nhật thực toàn phần vào ngày 29/05/1919 do ông tiến hành đã chứng minh rằng thuyết tương đối của Einstein là hoàn toàn chính xác.
[*] Urbain Jean Joseph Le Verrier (1811 - 1877): nhà thiên văn học người Pháp. Tên của ông được ghi trên tháp Eiffel, ông là một trong hai người, độc lập với nhau, phát hiện ra sao Hải vương (người còn lại là John Couch Adams), ông đã nghiên cứu để giải thích việc sao Thiên vương không tuân theo những định luật về chuyển động của các hành tinh của Johannes Kepler và không chuyển động theo quy luật vạn vật hấp dẫn của Isaac Newton. Le Verrier đã đưa ra một giả thuyết rất táo bạo rằng phải có một thiên thể nào đó chưa được biết tới ở gần sao Thiên vương tác động vào nó. Cuối cùng chỉ với các phép toán thuần túy, ông đã tính toán được sự hiện diện của một hành tinh chưa từng được biết đến trước đó, sao Hải vương.
[*] Johann Gottfried Galle (1812 - 1910): nhà thiên văn học người Đức. Ông là người đầu tiên quan sát được sao Hải vương. Ngày 23/09/1846, tại Đài quan sát Berlin, Heinrich Louis d’Arrest đã làm trợ lý cho Galle trong buổi quan sát thiên văn xác nhận vị trí của sao Hải vương dựa trên những tính toán của Le Verrier (chỉ lệch 1 độ so với tiên đoán của Le Verrier). Việc phát hiện ra sao Hải vương được coi là một xác nhận mạnh mẽ của cơ học thiên thể, và là một trong những khoảnh khắc đáng chú y nhất của khoa học thế kỷ 19.
[*] George Biddell Airy (1801 - 1892): nhà toán học và thiên văn học người Anh. Năm 1851, khi làm cho Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich (ở Greenwich, Luân Đôn, Anh), George Airy đã thiết kế ra dụng cụ đo thời gian các ngôi sao đi qua kinh tuyến của địa phương, từ đó xác định vị trí của kinh tuyến gốc (kinh tuyến Greenwich). Kinh tuyến gốc chạy băng ngang Greenwich và Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich là nơi quy ước bắt đầu giờ GMT, viết tắt của “Greenwich Mean Time” (giờ trung bình tại Greenwich), va tất cả giờ trên thế giới được tính dựa theo đó.
[*] John Couch Adams (1819 - 1892): nhà toán học và thiên văn học người Anh. Thành tựu nổi tiếng nhất của ông là dự đoán sự tồn tại và vị trí của sao Hải vương, chỉ sử dụng phương pháp toán học, một cách độc lập với Le Verrier. Các tính toán đã được ông thực hiện để giải thích sự khác biệt trong quỹ đạo của sao Thiên vương với định luật của Kepler và Newton.
[*] Cổng Damascus là cổng lớn nhất trong 8 cổng nằm trên khu tường thành dẫn vào thành cổ Jerusalem.
[*] Emanuel Lasker (1868 - 1941): kỳ thủ cờ vua, nhà toán học, nhà triết học người Đức. Ông là nhà vô địch cờ vua thế giới trong vòng 27 năm (từ năm 1894 tới năm 1921).
[*] José Raúl Capablanca y Graupera (1888 - 1942): kỳ thủ cờ vua người Cuba và là nhà vô địch cờ vua thế giới từ năm 1921 đến 1927.
[*] Akiba Kiwelowicz Rubinstein (1880 - 1961): đại kiện tướng cờ vua người Ba Lan vào đầu thế kỷ 20. Trong thời niên thiếu của mình, ông đã đánh bại hàng loạt kỳ thủ bao gồm José Capablanca và Carl Schlechter. Tuy nhiên cuộc sống cuối đời của ông bị ám ảnh bởi căn bệnh tâm thần.
[*] Julius Finn (1871 - 1931): kỳ thủ cờ vua người Mỹ. Ông đã 3 lần giành được chức vô địch cờ vua bang New York (1901, 1907, 1908). Ông là một trong những kỳ thủ cờ vua hàng đầu của Mỹ về nội dung blindfold chess (cờ tưởng hay cờ mù), ông đã làm trọng tài trong trận đấu tranh chức vô địch cờ vua thế giới năm 1921 diễn ra giữa Emanuel Lasker và José Raúl Capablanca ở Havana.
[*] Isaac Leopold Rice (1850 - 1915): doanh nhân người Mỹ, nhà nghiên cứu âm nhạc, tác giả, và là người bảo trợ cờ vua. Ông từng là chủ tịch của câu lạc bộ cờ vua Manhattan. Năm 1895, ông khám phá ra thế cờ Rice, một biến thể của thế cờ Kieseritzky. Ông là một nhân vật nổi bật trong giới cờ vua Mỹ và tài trợ cho nhiều giải đấu cờ vua. Nhân vật Pardee trong tiểu thuyết này được tác giả S. S. Van Dine viết dựa trên Isaac Leopold Rice.
[*] Edward Lasker (1885 - 1981): môt người Mỹ gốc Đức. Ông được sinh ra tại Đức, di cư sang Mỹ vào năm 1914. Ông đã viết nhiều sách về cờ vua và cờ vây.
Edward Lasker: bậc thầy về cờ vua Mỹ, đôi khi bị nhầm lẫn với tiến sĩ Emanuel Lasker, cựu vô địch thế giới.
[*] Élite: cỡ chữ đánh máy, trong mỗi inch (tương đương 2,5 cm) chứa được 12 ký tự.