← Quay lại trang sách

Chương 5 TIẾNG THÉT CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ-

(Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 2.30 p.m.)

Vance, sau khi nhìn sơ qua bức thông điệp kỳ lạ với chữ ký thậm chí còn kỳ lạ hơn, đưa tay lấy chiếc kính một mắt bằng sự đắn đo chậm chạp mà tôi biết đó là biểu hiện cho nỗi hứng thú đang bị đè nén. Điều chỉnh kính xong anh chăm chú săm soi mảnh giấy. Sau đó đưa nó cho Arnesson.

“Đây là hệ số đáng giá cho phương trình của anh.” Đôi mắt anh giễu cợt nhìn người đàn ông.

Arnesson nhìn chằm chằm vào bức thông điệp, và đặt nó lên bàn với vẻ mặt nhăn nhó.

“Tôi tin là giới tăng lữ không liên quan đến vấn đề này. Họ nổi tiếng là phi khoa học. Không thể tấn công họ bằng toán học được. ‘Giám Mục’…,” anh ta ngẫm nghĩ. “Tôi không quen biết với bất kỳ vị nào trong giới tăng lữ cả. - Tôi nghĩ tôi sẽ loại bỏ câu khó hiểu này khi tính toán.”

“Nếu anh làm vậy, anh Arnesson,” Vance nghiêm túc đáp lại, “phương trình của anh, tôi e rằng, sẽ vỡ ra thành từng mảnh. Bức thư bí ẩn kia đối với tôi lại khá ý nghĩa. Quả thực - nếu anh không ngại nghe ý kiến không chuyên - tôi tin nó chính là thứ mang tính toán học nhất từng xuất hiện cho đến tận bây giờ trong vụ án. Nó giải phóng tình hình ra khỏi tất cả sự may rủi hoặc ngẫu nhiên. Đó chính là g, có thể nói thế - hằng số hấp dẫn sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ phương trình của chúng ta.”

Heath đứng nhìn mảnh giấy đánh máy với vẻ cực kỳ phẫn nộ.

“Tên quái gở nào đó đã viết cái này, anh Vance à,” anh ta tuyên bố.

“Rõ ràng là một tên quái gở rồi, trung sĩ,” Vance đồng ý. “Nhưng đừng bỏ qua sự thật rằng tên quái gở đặc biệt này chắc hẳn biết nhiều chi tiết thú vị và riêng tư - cụ thể như, rằng tên đệm của anh Robin là Cochrane; rằng anh chàng bị giết bằng cung tên; và rằng anh Sperling cũng ở gần đó lúc Robin chết. Hơn nữa, tên quái gở biết nhiều thông tin này hẳn phải biết nhiều về án mạng này; bởi vì bức thông điệp rõ ràng được đánh máy và đặt vào hộp thư trước khi anh và người của mình đến hiện trường.”

“Trừ phi,” Heath kiên quyết phản đối, “hắn là một trong số những kẻ đẫu đường xó chợ, biết được chuyện đã xảy ra và nhét mảnh giấy này vào thùng thư khi cảnh sát không chú ý.”

“Sau khi chạy một mạch về nhà và cẩn thận đánh máy thông báo của hắn à?” Vance lắc đầu với nụ cười rầu rĩ. “Không đâu, trung sĩ à, tôi e là giả thuyết của anh không hợp lý.”

“Vậy thì nó có ý nghĩa quỷ quái gì chứ?” Heath hung hăng gặn hỏi.

“Tôi không biết.” Vance ngáp và đứng dậy. “Đi thôi, Markham, cùng đi nói chuyện một lát với anh Drukker mà Beedle ghét đi.”

“Drukker!” Arnesson thốt lên, với sự ngạc nhiên đáng kể. “Anh ta có liên quan gì?”

“Anh Drukker,” Markham giải thích, “đã đến đây sáng nay để gặp anh; và có khả năng anh ta đã gặp Robin và Sperling trước khi anh ta trở về nhà.” Anh ta lưỡng lự. “Anh có muốn đi cùng chúng tôi không?”

“Không, cám ơn.” Arnesson gõ tàn thuốc trong tẩu và đứng lên. “Tôi còn một núi bài nộp trong lớp phải xem qua. - Tuy nhiên, có lẽ nên để Belle đi cùng. Quý bà Mae hơi dị thường một chút…”

“Quý bà Mae?”

“Tôi nhầm. Quên mất là các anh không biết bà ấy. Tất cả chúng tôi đều gọi bà ấy là quý bà Mae. Tên gọi lịch sự thôi. Làm vui lòng linh hồn già cỗi tội nghiệp ấy. Tôi đang nói đến mẹ của Drukker. Tính cách kỳ quặc.” Anh ta liên tục vỗ trán mình. “Dễ xúc động. À, hoàn toàn vô hại. Vẫn còn minh mẫn lắm, nhưng mù quáng, như vốn dĩ. Nghĩ rằng Drukker là quan trọng nhất trên đời. Bảo bọc anh ta cứ như anh ta còn là một đứa bé sơ sinh. Tình cảnh đau buồn… Đúng, các anh nên dẫn Belle theo thì tốt hơn. Quý bà Mae thích Belle lắm.”

“Một lời đề xuất hay đấy, anh Arnesson,” Vance nói. “Anh sẽ đề nghị cô Dillard vui lòng đi cùng chúng tôi chứ?”

“Ồ, tất nhiên rồi.” Arnesson nở một nụ cười tạm biệt đầy hàm ý - nụ cười có vẻ như vừa trịch thượng vừa châm biếm - và đi lên lầu. Một lúc sau cô Dillard đến gặp chúng tôi.

“Sigurd nói với tôi là các anh muốn gặp Adolph. Anh ta dĩ nhiên sẽ không phiền; nhưng quý bà Mae tội nghiệp rất dễ xúc động ngay cả những việc cỏn con nhất…”

“Chúng tôi sẽ không làm bà ấy xúc động đâu, tôi hy vọng vậy.” Vance nói trấn an. “Nhưng anh Drukker đã ở đây sáng nay, cô thấy đó; và người đầu bếp nói cô ta nghĩ mình nghe thấy anh ta nói chuyện với anh Robin và anh Sperling ở phòng bắn cung. Anh ta có thể sẽ giúp được chúng tôi.”

“Tôi chắc là anh ta sẽ giúp nếu có thể,” cô gái trả lời với sự nhấn mạnh. “Nhưng xin hãy cẩn thận với quý bà Mae, được không?”

Có dấu hiệu của sự nài nỉ và che chở trong giọng nói của cô ấy, và Vance chú ý đến cô ấy một cách hiếu kỳ.

“Hãy kể cho chúng tôi điều gì đó về bà Drukker - hay quý bà Mae - trước khi chúng ta đến thăm bà ấy đi. Tại sao chúng tôi lại nên cẩn thận?”

“Bà ấy có một cuộc đời bi thảm lắm,” cô gái giải thích. “Bà ấy từng là một ca sĩ xuất sắc – à, không phải là nghệ sĩ hạng hai đâu, mà là một giọng ca nữ chính trong các vở opera với sự nghiệp kỳ diệu trải ra trước mắt[*]. Bà kết hôn với một nhà phê bình hàng đầu của Vienna - Otto Drucker[*] - và bốn năm sau Adolph ra đời. Sau đó vào một ngày ở công viên giải trí Wiener Prater, khi đứa bé được hai tuổi, bà đã đánh rơi đứa bé; và từ đó về sau cuộc đời của bà hoàn toàn thay đổi. Xương sống của Adolph bị thương, và cậu bé trở thành người tàn tật. Quý bà Mae rất đau khổ. Bà ấy tự trách bản thân đã gây ra chấn thương của con trai, và từ bỏ sự nghiệp để dốc tâm chăm sóc cho cậu bé. Khi chồng bà mất một năm sau đó, bà mang Adolph đến Mỹ, nơi bà đã từng sống vào thời con gái, và mua ngôi nhà hiện giờ bà đang sống. Suốt cuộc đời của bà xoay quanh Adolph, anh ta lớn lên thành một người lưng gù. Bà đã hy sinh tất cả cho anh ta, và chăm sóc cho anh ta cứ như anh ta là một đứa bé…”

Một chút gợn lướt qua gương mặt cô ấy. “Đôi khi tôi nghĩ - tất cả chúng tôi đều nghĩ - rằng bà ấy vẫn nghĩ anh ta chỉ là một đứa trẻ. Bà ấy đã trở nên - à, bệnh hoạn về điều đó. Nhưng đấy là bệnh tật ngọt ngào, khủng khiếp của một tình mẫu tử vĩ đại - một loại điên rồ trìu mến, bác tôi đã gọi nó như vậy. Trong vài tháng qua bà ấy càng lúc càng rất kỳ lạ - và dị thường. Tôi hay bắt gặp bà ấy ngâm nga những bài hát ru tiếng Đức xưa và những bài hát mẫu giáo, với hai tay khoanh trước ngực, cứ như - ôi, nó trông linh thiêng và khủng khiếp lắm! - cứ như bà ấy đang ẵm một đứa bé vậy… Và bà ấy trở nên vô cùng lo lắng cho Adolph. Bà ấy hận tất cả những người đàn ông khác. Mới tuần trước thôi, tôi có dẫn anh Sperling đến gặp bà ấy - chúng tôi thường ghé qua để thăm bà ẩy: bà ấy có vẻ rất cô đơn và bất hạnh - bà nhìn anh ấy chằm chằm và nói: ‘Sao anh cũng không phải là một người tàn tật vậy?’…”

Cô gái dừng lại và tìm kiếm phản ứng trên gương mặt chúng tôi.

“Giờ các anh đã hiểu tại sao tôi nhờ các anh phải cẩn thận chưa?… Quý bà Mae có thể sẽ nghĩ chúng ta đến để làm hại Adolph.”

“Chúng tôi không cần thiết gây thêm khổ sở cho bà ấy đâu,” Vance bảo đảm với cô ấy bằng sự đồng cảm. Sau đó, khi chúng tôi di chuyển đến sảnh, anh hỏi cô ấy một câu khiến tôi nhớ ra việc xem xét nhiệt tình của anh về ngôi nhà của gia đình Drukker vào trưa nay. “Phòng của bà Drukker ở đâu?”

Cô gái ném cho anh cái nhìn ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng trả lời:

“Ở phía tây của ngôi nhà - cửa sổ lồi của căn phòng nhìn ra bãi tập bắn cung.”

“À!” Vance lấy hộp thuốc lá của mình ra, và cẩn thận chọn một điếu Régie. “Bà ấy có ngồi bên cửa sổ này nhiều không?”

“Nhiều lắm. Quý bà Mae luôn xem chúng tôi tập bắn cung - tại sao thì tôi không biết. Tôi chắc là nhìn thấy chúng tôi khiến bà đau lòng, bởi vì Adolph không đủ khỏe mạnh để bắn cung. Anh ấy đã thử vài lần, nhưng thấy mệt nên anh ấy đành phải từ bỏ.”

“Bà ấy có thể xem mọi người luyện tập chỉ với một lý do là để nó hành hạ bà ấy - một kiểu tự trừng phạt, cô biết đó. Những tình cảnh đó rất đáng buồn.” Vance nói gần như với sự trìu mến - điều đó, với những người không biết rõ bản chất thật của anh, nghe hơi là lạ. “Có lẽ,” anh nói thêm, khi chúng tôi tiến vào bãi tập bắn cung thông qua cánh cửa tầng hầm, “tốt nhất là đầu tiên chúng ta gặp bà Drukker một lát. Điều đó sẽ có khuynh hướng làm giảm bớt bất cứ mối lo sự nào mà cuộc viếng thăm của chúng ta có thể gây ra cho bà ấy. Chúng ta có thể đến phòng của bà ấy mà không để anh Drukker biết không?”

“Ồ, được chứ.” Cô gái hài lòng về ý tưởng này. “Chúng ta có thể đi vào bằng lối cửa sau. Phòng làm việc của Adolph, nơi anh ta viết lách, nằm ở mặt trước của ngôi nhà.”

Chúng tôi thấy bà Drukker đang ngồi bên cửa sổ lồi trên một chiếc ghế dài kiểu xưa, dựa lên gối. Cô Dillard chào hỏi bà ấy một cách kính yêu và cúi xuống với sự quan tâm dịu dàng, hôn lên trán bà ấy.

“Có chuyện khá tồi tệ đã xảy ra tại nhà của chúng cháu vào sáng nay, quý bà Mae ạ,” cô ấy nói; “và những quý ông đây muốn gặp bà. Cháu tình nguyện đưa họ đến đây. Bà không phiền chứ?”

Gương mặt tái nhợt, bi thảm của bà Drukker quay ra cửa khi chúng tôi bước vào, nhưng giờ đây bà ấy nhìn chằm chằm chúng tôi với sự kinh hãi. Bà ấy là một người phụ nữ cao ráo, mảnh khảnh đến mức tiều tụy; và hai bàn tay của bà, đang để uốn cong hờ trên tay vịn của chiếc ghế, nổi gân và nhăn nheo như móng vuốt của người chim trong thần thoại. Gương mặt bà ấy, cũng gầy guộc và đầy vết hằn sâu; nhưng đó không phải là một gương mặt kém thu hút. Đôi mắt trong suốt và sống động, mũi thẳng và cao. Dù bà ấy chắc hẳn đã ngoài sáu mươi nhưng mái tóc thì vẫn còn dày và nâu.

Suốt vài phút bà ấy không hề động đậy hay nói năng gì cả. Rồi hai bàn tay của bà từ từ nắm lại và đôi môi hé mở.

“Các người muốn gì?” Bà ấy hỏi bằng giọng oang oang.

“Bà Drukker,” - chính Vance là người trả lời - “như cô Dillard đã nói với bà, một thảm kịch đã xảy ra ở nhà bên vào sáng nay, và vì cửa sổ của bà là cái duy nhất nhìn thấy được bãi tập bắn cung, chúng tôi nghĩ có thể bà đã nhìn thấy gì đó sẽ giúp được chúng tôi trong việc điều tra của mình.”

Sự cảnh giác của người phụ nữ giảm đi rõ rệt, nhưng một lúc lâu sau bà ấy mới lên tiếng.

“Và chuyện gì đã xảy ra?”

“Một anh tên Robin đã bị giết. - Có lẽ bà biết anh ta?”

“Anh chàng bắn cung - cung thủ vô địch của Belle ư?… Đúng, tôi biết cậu ta. Một chàng trai khỏe mạnh có thể kéo căng dây cung mà không thấy mệt. - Ai đã giết cậu ta?”

“Chúng tôi không biết.” Vance, mặc dù có vẻ lơ đãng, vẫn quan sát bà ấy một cách tinh tế. “Nhưng bởi vì anh ta bị giết ở bãi tập, trong tầm nhìn từ cửa sổ phòng bà, chúng tôi hy vọng bà có thể giúp được chúng tôi.”

Mí mắt của bà Drukker chùng xuống một cách mưu mẹo, và bà ấy siết chặt hai bàn tay của mình theo kiểu cố ý hài lòng.

“Các người chắc chắn rằng cậu ta bị giết ở bãi tập ư?”

“Chúng tôi phát hiện ra anh ta ở bãi tập,” Vance trả lời nước đôi.

“Tôi hiểu… Nhưng tôi có thể làm gì để giúp các người đây?” Bà ấy ngả lưng thư giãn.

“Bà có để ý đến người nào ở bãi tập sáng nay không?” Vance hỏi.

“Không!” Sự phủ nhận vừa nhanh vừa nhấn mạnh. “Tôi không thấy ai hết. Cả ngày hôm nay tôi không nhìn ra bãi tập.”

Vance bắt gặp cái nhìn chằm chằm của người phụ nữ, và thở dài.

“Đáng tiếc thật,” anh lẩm bẩm. “Nếu sáng nay bà có nhìn ra ngoài cửa sổ thì hoàn toàn có khả năng bà đã thấy thảm kịch rồi… Anh Robin bị giết bằng cung tên, và dường như không có động cơ nào cho hành động này cả.”

“Anh biết cậu ta bị giết bằng cung tên ư?” Bà ấy hỏi, chút khí sắc nổi lên trên đôi má tái nhợt của bà.

“Đó là báo cáo của bên giám định pháp y. Có một mũi tên đâm xuyên tim anh ta khi chúng tôi tìm thấy anh ta.”

“Tất nhiên. Điều đó có vẻ hoàn toàn tự nhiên, phải không?… Một mũi tên xuyên qua tim Robin!” Bà ấy nói với thái độ mơ hồ, ánh mắt chứa đựng vẻ xa xăm, như bị thôi miên.

Một sự im lặng căng thẳng, và Vance đi đến cửa sổ.

“Bà có phiền nếu tôi nhìn ra ngoài không?”

Bằng sự khó nhọc, người phụ nữ kéo bản thân mình trở lại từ suy tư xa vời nào đó.

“Ồ, không đâu. Tuy nhiên, nó không nhìn được cảnh gì nhiều. Tôi có thế thấy hàng cây của đường số 76 về hướng bắc, và một phần sân nhà Dillard theo hướng nam. Nhưng bức tường gạch phía đối diện thật đáng chán. Trước khi tòa nhà chung cư này được xây lên thì tôi nhìn được cảnh đẹp của dòng sông.”

Vance nhìn xuống bãi tập bắn cung một lúc.

“Phải,” anh quan sát; “giá như bà ngồi ở cửa sổ vào sáng nay thì có lẽ bà đã thấy chuyện gì xảy ra rồi. Góc nhìn của bà xuống bãi tập và cửa tầng hầm nhà Dillard rất rõ ràng… Đáng tiêc quá.” Anh liếc nhìn đồng hồ của mình. “Con trai của bà có ở nhà không, bà Drukker?”

“Con trai tôi! Đứa con yêu dấu của tôi! Các người muốn gì ở nó hả?” Giọng nói của bà ấy lên cao một cách đáng thương, và đôi mắt bà siết chặt lấy Vance với sự hận thù độc địa.

“Không có gì quan trọng đâu,” anh nói trấn an. “Chỉ là, anh ta có thể đã nhìn thấy người nào đó ở bãi tập…”

“Nó không nhìn thấy ai hết! Nó không thể thấy người nào được, bởi vì nó không có ở đây. Sáng sớm hôm nay nó đã đi ra ngoài và giờ vẫn chưa về.”

Vance nhìn người phụ nữ với sự thươmg hại.

“Anh ta ra ngoài cả buổi sáng? - Bà có biết anh ta ở đâu không?”

“Tôi luôn luôn biết nó ở đâu.” Bà Drukker tự hào trả lời. “Chuyện gì nó cũng nói cho tôi biết.”

“Và anh ta có nói cho bà biết sáng nay anh ta đi đâu chứ?” Vance nhẹ nhàng truy hỏi.

“Tất nhiên. Nhưng giờ tôi quên mất rồi. Để tôi nghĩ xem…” Những ngón tay thon dài của bà ấy gõ trên tay vịn của chiếc ghế, và cặp mắt của bà liếc ngang liếc dọc một cách bất an. “Tôi nhớ không ra. Nhưng tôi sẽ hỏi nó ngay khi nó về nhà.”

Cô Dillard càng lúc càng bối rối đứng nhìn người phụ nữ.

“Nhưng quý bà Mae à, Adolph đã ở nhà của chúng cháu sáng nay. Anh ấy đến tìm Sigurd…”

Bà Drukker nhổm dậy.

“Không có chuyện đó!” Bà ấy ngắt lòi, gần như hằn học nhìn cô gái. “Adolph phải đi - xuống phố đâu đó. Nó không ở gần nhà của các người - tôi biết là không mà.” Đôi mắt bà ấy lóe lên và bà khiêu khích liếc nhìn Vance.

Đó là một khoảnh khẳc lúng túng; nhưng chuyện xảy đến tiếp theo thậm chí còn khó khăn hơn.

Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra, và đột nhiên hai cánh tay của bà Drukker vươn ra.

“Con trai bé nhỏ của mẹ - con yêu!” Bà ấy kêu lên. “Đến đây nào, con yêu.”

Nhưng người đàn ông ở cửa không hề tiến về phía trước. Anh ta đứng chớp cặp mắt nhỏ xíu nhìn chúng tôi, như một người thức dậy ở nơi xa lạ. Adolph Drukker cao khoảng 5 foot[*]. Anh ta có vẻ ngoài cục mịch điển hình của người gù. Hai chân anh ta mảnh khảnh, và thân mình lồi lên, biến dạng của anh ta có vẻ như bị phóng đại bởi cái đầu to lớn, giống như mái vòm. Nhưng có vẻ trí thức hiện trên gương mặt của người đàn ông này - một sức mạnh đam mê khủng khiếp gây chú ý đối với người khác. Giáo sư Dillard đã gọi anh ta là một thiên tài toán học; và không ai có thể nghi ngờ sự uyên bác đó[*].

“Tất cả mọi chuyện này là sao đây?” Anh ta hỏi bằng một giọng the thé run rẩy, nhìn sang phía cô Dillard. “Đây là những người bạn của cô à, Belle?”

Cô gái định nói, nhưng Vance ra hiệu cho cô dừng lại.

“Sự thật là, thưa anh Drukker,” anh buồn bã giải thích, “ở nhà bên đã xảy ra một thảm kịch. Đây là anh Markham, công tố viên quận, và trung sĩ Heath của Sở Cảnh sát; và theo lời thỉnh cầu của chúng tôi, cô Dillard đã dẫn chúng tôi đến đây, để chúng tôi có thể hỏi mẹ của anh rằng bà ấy có để ý thấy điều gì bất thường ở bãi tập bắn cung sáng nay hay không. Thảm kịch xảy ra ở ngay bên ngoài cánh cửa tầng hầm của nhà Dillard.”

Drukker hất cằm về phía trước và nheo mắt lại.

“Một thảm kịch à? Là thảm kịch gì?”

“Một anh tên Robin đã bị giết - bằng cung tên.”

Gương mặt của người đàn ông bắt đầu co giật ngắt quãng.

“Robin đã bị giết? Bị giết ư?… Mấy giờ?”

“Đâu đó giữa 11 và 12 giờ.”

“Giữa 11 và 12 giờ?” Ánh mắt của Drukker nhanh chóng chuyển sang mẹ anh ta. Anh ta có vẻ như càng lúc càng bị kích động, và những ngón tay to bè khổng lồ của anh ta vò lấy lai chiếc áo khoác màu khói của mình. “Mẹ đã nhìn thấy gì?” Mắt anh ta lóe lên lúc anh ta nhìn người phụ nữ.

“Ý con là gì hả con trai?” Câu đáp trả là một lời thì thầm hoang mang.

Gương mặt Drukker trở nên đanh lại, và vẻ méo mó trên môi anh ta.

“Ý con là vào khoảng giờ đó con có nghe một tiếng thét trong phòng này.”

“Không phải! Không… không!” Bà ấy hít một hơi, và lắc đầu một cách nhát gừng. “Con nhầm rồi con trai. Sáng nay mẹ đâu có thét.”

“Vậy thì ai đó đã thét.” Có một sự gay gắt lạnh lùng trong giọng nói của người đàn ông. Tiếp đó, sau một lúc dừng lại, anh ta nói thêm: “Sự thật là, con đã lên lầu sau khi nghe thấy tiếng thét, và lắng nghe ở cánh cửa này. Nhưng mẹ vừa đi vừa ngâm bài ‘Eia Popeia,’ nên con quay trở lại làm việc.”

Bà Drukker đưa khăn tay lên mặt mình, và đôi mắt của bà ấy nhắm lại trong chốc lát.

“Từ 11 đến 12 giờ con đang làm việc sao?” Giọng nói của bà ấy bây giờ reo lên với sự háo hức dịu dàng. “Nhưng mẹ đã gọi con mấy lần…”

“Con có nghe. Nhưng con không trả lời. Con bận quá.”

“Thì ra là vậy.” Bà ấy từ từ quay lại hướng cửa sổ. “Mẹ tưởng con đã đi ra ngoài. Không phải con đã nói vậy sao?”

“Con đã nói là con sẽ sang nhà Dillard. Nhưng Sigurd không có ở đó, và con về đây không lâu trước 11 giờ.”

“Mẹ không thấy con đi vào.” Sức lực của người phụ nữ đã cạn kiệt, và bà ấy bơ phờ nằm xuống, đôi mắt nhìn vào bức tường gạch trước mặt. “Và khi mẹ gọi mà con không trả lời nên mẹ tưởng con vẫn còn ở ngoài.”

“Con rời nhà Dillard bằng cánh cổng trước, và đi dạo một vòng trong công viên.” Giọng của Drukker cáu kỉnh. “Sau đó con vào nhà bằng cửa trước.”

“Và con nói là con đã nghe thấy mẹ thét… Nhưng sao mẹ lại thét hả con trai? Sáng nay lưng của mẹ đâu có đau.”

Drukker cau mày, và đôi mắt nhỏ bé của anh ta hết nhìn Vance lại nhìn sang Markham.

“Tôi nghe thấy ai đó thét - một người phụ nữ - trong căn phòng này,” anh ta cương quyết nhắc lại. “Khoảng 11 giờ rưỡi.” Sau đó anh ta ngồi thụp xuống ghế và đăm chiêu nhìn xuống sàn nhà.

Cuộc trao đổi bằng lời khó hiểu giữa người mẹ và con trai đã làm mê hoặc tất cả chúng tôi. Dù Vance đứng trước một ấn phẩm xưa từ thế kỷ 18 ở gần cánh cửa, xem xét nó với vẻ chăm chú, nhưng tôi biết rằng không một lời nói hoặc sự thay đổi tông giọng nào anh bỏ sót. Bây giờ anh quay người và ra hiệu cho Markham đừng can thiệp, rồi tiến lại gần bà Drukker.

“Chúng tôi rất xin lỗi, thưa bà, rằng chúng tôi đã làm phiền đến bà. Nếu được, mong bà hãy bỏ qua cho.”

Anh cúi chào và quay sang cô Dillard.

“Cô có phiền nếu dẫn chúng tôi về không? Hay chúng tôi tự tìm đường đi xuống?”

“Để tôi đi cùng mọi người,” cô gái nói; và đến chỗ bà Drukker, cô vòng hai tay mình quanh bà ấy. “Cháu thật sự xin lỗi, quý bà Mae.”

Lúc chúng tôi đi qua sảnh, Vance, cứ như mới đổi ý, dừng lại và ngoái đầu nhìn Drukker.

“Tốt hơn là anh nên đi cùng chúng tôi, thưa anh,” anh nói, bằng giọng bình thường nhưng có vẻ nài nỉ. “Anh biết anh Robin, và có thể anh nảy ra ý gì đó.”

“Đừng đi với họ, con ơi!” Bà Drukker kêu lên. Lúc này bà ấy đang nhổm dậy, gương mặt bà méo mó với nỗi thống khổ và sợ hãi. “Đừng đi! Họ là kẻ thù đấy. Họ muốn làm hại con…”

Drukker đứng lên.

“Sao con không nên đi với họ chứ?” Anh ta nóng nảy đáp lại. “Con muốn tìm ra vụ việc này. Có lẽ - như họ nói - con có thể giúp họ.” Và bằng cử chỉ nôn nóng, anh ta đi cùng chúng tôi.

Chú Thích:

[*] Mae Brenner vẫn sẽ được những người yêu nhạc khắp nơi nhớ đến. Vai diễn ra mắt của bà ở độ tuổi 23 là Sulamith trong vở “Die Königin von Saba” tại nhà hát opera Hoàng gia ở Vienna (Áo); tuy nhiên vai diễn thành công nhất của bà có lẽ là Desdemona trong vở “Otello” - vai cuối cùng mà bà hát trước khi giải nghệ.

[*] Dĩ nhiên cái tên gốc được viết là Drucker. Sự thay đổi - có thể là một nỗ lực mơ hồ trong việc Mỹ hóa - là do bà Drukker làm khi bà định cư ở đất nước này.

[*] 1,52 m.

[*] Anh ta cũng gây cho tôi ấn tượng giống như đại tướng Homer Lee khi tôi đến thăm ông ta ở Santa Monica không lâu trước khi ông ta qua đời.