← Quay lại trang sách

Chương 6 «‘CHÍNH TA,’ CHIM SẺ NÓI»-

(Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 3 p.m.)

Khi chúng tôi quay lại phòng khách nhà Dillard và cô Dillard để chúng tôi ở lại với bác của cô trong thư viện, Vance, không vòng vo, mà đi thẳng vào vấn đề.

“Tôi không muốn làm mẹ anh lo lắng, anh Drukker à, bằng cách đặt câu hỏi về anh ở trước mặt bà ấy, nhưng bởi vì anh đã đến đây vào sáng nay vài phút trước khi Robin bị sát hại, điều đó là cần thiết - chỉ là thủ tục thông thường thôi - thứ mà chúng tôi đang tìm chính là thông tin anh có thể cung cấp.”

Drukker ngồi gần lò sưởi. Bây giờ anh ta suy nghĩ một cách thận trọng, nhưng lại không trả lời.

“Anh đã tới đây,” Vance tiếp tục nói, “vào khoảng 9 giờ rưỡi, tôi cho là thế, để gặp anh Arnesson.”

“Đúng.”

“Bằng cách đi vào bãi tập bắn cung và cửa tầng hầm?”

“Tôi luôn tới đây bằng cách đó. Tại sao phải đi bộ vòng qua khu đất chứ?”

“Nhưng sáng nay anh Arnesson đã ra ngoài.”

Drukker gật đầu. “Anh ta ở trường đại học.”

“Và, để tìm Arnesson, anh đã ngồi chờ trong thư viện một lúc với giáo sư Dillard, theo tôi hiểu, và thảo luận về cuộc thám hiểm thiên văn đến Nam Mỹ.”

“Là cuộc thám hiểm của Hiệp hội thiên văn Hoàng gia tới Sobral để kiểm tra độ lệch về thuyết tương đối của Einstein[*],” Drukker nhấn mạnh.

“Anh ở thư viện được bao lâu?”

“Chưa đầy nửa tiếng.”

“Sau đó thì sao?”

“Tôi xuống phòng bắn cung, và xem lướt qua một vài tạp chí. Có một thế cờ vua trong đó - thế tàn cuộc Zugszwang[*] được đặt ra gần đây giữa Shapiro và Marshall - tôi ngồi xuống và giải quyết nó…”

“Chờ một chút, anh Drukker.” Giọng nói hưng phấn bị cắt ngang bởi giọng của Vance. “Anh có hứng thú với cờ vua sao?”

“Ở mức độ nào đó thôi. Tuy nhiên, tôi không dành nhiều thời gian cho nó. Trò chơi này không thuần túy toán học; và nó không đủ lý luận để thu hút một đầu óc hoàn toàn khoa học.”

“Anh có tìm ra được điểm khó khăn trong thế cờ Shapiro - Marshall không?”

“Không quá khó khăn.” Drukker nhìn Vance một cách khôn ngoan. “Ngay sau khi tôi phát hiện ra việc di chuyển một quân tốt có vẻ vô dụng là chìa khóa cho thế bế tắc này, lời giải thật đơn giản.”

“Nó làm anh mất bao lâu?”

“Nửa tiếng hoặc hơn.”

“Cho tới khoảng 10 giờ rưỡi, theo tôi đoán?”

“Có lẽ đúng như thế.” Drukker ngồi dựa sâu trên ghế, nhưng vẻ cảnh giác anh ta đang che đậy không hề giảm bớt.

“Sau đó chắc hẳn là anh ở trong phòng bắn cung khi Robin và Sperling tới đây.”

Người đàn ông im lặng một lúc, và Vance, giả vờ như không nhận ra sự do dự của anh ta, tiếp tục nói: “Giáo sư Dillard nói rằng họ ghé nhà khoảng 10 giờ, và sau một lúc chờ ở phòng khách, họ đi xuống tầng hầm.”

“Nhân tiện, Sperling bây giờ ở đâu?” Đôi mắt đầy nghi ngờ của Drukker chuyển từ người này sang người khác trong chúng tôi.

“Chúng tôi mong anh ta ở đây từng giây từng phút,” Vance đáp. “Trung sĩ Heath đã cho hai cảnh sát đi tìm anh ta.”

Chân mày của anh gù dãn ra. “À! Vậy là Sperling bị buộc phải đến đây.” Anh ta xếp những ngón tay thành hình tam giác và đăm chiêu quan sát chúng. Sau đó anh ta từ từ ngước mắt nhìn Vance. “Anh đã hỏi là tôi có nhìn thấy Robin và Sperling trong phòng bắn cung không. - Có; họ đã xuống lầu ngay khi tôi rời khỏi.”

Vance ngả người ra sau và duỗi chân về phía trước.

“Anh có nhớ không, anh Drukker, rằng họ đã - theo cách nói hoa mỹ - có vài lời với nhau?”

Người đàn ông do dự với câu hỏi này.

“Giờ anh đề cập đến nó,” sau cùng anh ta nói, “tôi mới nhớ là hình như giữa họ có sự lạnh nhạt. Tuy nhiên, tôi không chắc lắm về điểm đó. Anh biết đấy, tôi rời khỏi phòng gần như ngay lập tức sau khi họ vào.”

“Anh đi ra cửa tầng hầm, tôi nghĩ anh đã nói thế, và từ đó qua cổng rào đường số 75. Đúng chứ?”

Trong một khắc Drukker dường như không muốn trả lời; nhưng anh ta vẫn trả lời với sự hờ hững.

“Đúng. Tôi nghĩ là tôi muốn đi dạo dọc theo con sông trước khi quay lại làm việc. Tôi đi đến đường Drive, rồi đi lên đường xe ngựa, và rẽ vào công viên ở đường số 79.”

Heath, với thói quen nghi ngờ được tôi luyện để trở thành một cảnh sát, đặt câu hỏi kế tiếp.

“Anh có gặp bất kỳ ai mà anh biết không?”

Drukker quay lại một cách giận dữ, nhưng Vance đã nhanh chóng xen vào.

“Điều đó không quan trọng đâu, trung sĩ. Nếu sau này cần thiết để xác định điểm đó, chúng ta sẽ bàn đến vấn đề này lần nữa.” Sau đó quay sang Drukker: “Anh trở về sau khi đi dạo trước 11 giờ một chút, như anh đã nói, và vào nhà mình bằng cửa trước.”

“Đúng vậy.”

“Nhân tiện, anh không thấy có chút gì khác thường khi anh ở đây sáng nay?”

“Tôi không thấy gì ngoại trừ những gì tôi đã nói với anh.”

“Và anh chắc rằng đã nghe thấy tiếng mẹ anh thét lên vào khoảng 11 giờ rưỡi?”

Vance không xê dịch khi anh hỏi câu hỏi này; nhưng có nét hơi khác lạ len lỏi trong giọng nói của anh, và nó làm Drukker sửng sốt. Anh ta nhấc cả người mình ra khỏi ghế, đứng dậy nhìn Vance trừng trừng với vẻ đe doạ. Đôi mắt ti hí của anh ta lóe lên, và môi run rẩy. Đôi bàn tay, đung đưa trước anh ta, gập lại và mở ra giống như của một người đang trong cơn giận dữ.

“Anh đang lái câu hỏi đi đâu vậy?” Anh ta hỏi, giọng the thé một cách chói tai. “Tôi đã nói là tôi nghe tiếng bà ấy thét lên. Tôi không quan tâm về chuyện quái quỷ đó dù bà ấy có thừa nhận hay không. Hơn nữa, tôi nghe tiếng bước chân của bà ẩy trong phòng. Bà ấy ở trong phòng của bà ấy, hiểu chứ, và tôi thì ở trong phòng của tôi, giữa 11 và 12 giờ. Và anh không thể chứng minh điều gì khác nữa đâu. Vả lại, anh và những kẻ khác không có quyền chất vấn tôi về những gì tôi đã làm hay tôi đã ở đâu. Đó không phải là việc của anh - rõ chưa?…”

Vậy là vô tình cơn thịnh nộ của anh ta lại là điều tôi mong chờ khi thấy anh ta sấn vào Vance. Heath đứng dậy và bước tới, cảm thấy mối nguy hiểm tiềm tàng của người đàn ông này. Tuy nhiên, Vance lại không có phản ứng gì. Anh tiếp tục hút thuốc một cách uể oải, và khi cơn giận dữ của người đàn ông đã qua, anh tiếp tục nói mà không hề có một chút thái độ gì:

“Chúng tôi không có gì để hỏi anh nữa, anh Drukker. Và thật tình thì, anh biết đấy, không cần làm quá lên như thế đâu. Nó chỉ đơn thuần là tiếng thét của mẹ anh có thế xác nhận thời điểm chính xác của án mạng này.”

“Mẹ tôi thét thì có liên quan gì đến thời điểm Robin chết chứ? Chẳng phải bà ấy đã nói bà ấy không thấy gì sao?” Drukker có vẻ mệt mỏi, và dựa vào bàn một cách nặng nề.

Lúc này giáo sư Dillard xuất hiện ở lối đi. Phía sau ông ấy là Arnesson.

“Có vấn đề gì sao?” Vị giáo sư hỏi. “Tôi nghe có tiếng ồn ở đây, và đi vào.” Ông ấy lạnh lùng nhìn Drukker. “Không phải Belle đã chịu quá đủ cho ngày hôm nay bởi tính nóng nảy của anh rồi sao?”

Vance đứng dậy, nhưng trước khi anh nói thì Arnesson lại tiến đến và nhạo báng Drukker một cách mỉa mai.

“Anh nên học cách kiềm chế đi, Adolph. Anh làm như mọi thứ đều xấu xa nghiêm trọng vậy. Anh làm việc với các vì sao trong vũ trụ to lớn đủ lâu để hiểu biết thế nào là sự tương xứng rồi. Tại sao lại quan trọng hóa điều nhỏ nhặt trong cuộc sống trên trái đất này vậy?”

Drukker thở hổn hển.

“Những kẻ đáng ghét này…”, anh ta bắt đầu nói.

“Ôi, anh bạn Adolph thân mến!” Arnesson cắt ngang lời anh ta. “Toàn bộ nhân loại đều là những kẻ đáng ghét. Tại sao lại như vậy?… Đi thôi. Tôi sẽ đưa anh về nhà.” Và anh ta kiên quyết nắm lấy tay của Drukker và đưa xuống lầu.

“Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì đã làm phiền ông, thưa giáo sư,” Markham xin lỗi giáo sư Dillard. “Người đàn ông này nổi nóng vì những lý do không đâu. Những cuộc điều tra không bao giờ là thứ dễ chịu trên thế giới này; nhưng chúng tôi hy vọng nó sẽ kết thúc nhanh thôi.”

“Được rồi, kết thúc nó càng nhanh càng tốt, Markham à. Và hãy hạn chế làm phiền Belle. - Hãy gặp tôi trước khi anh đi.”

Khi giáo sư Dillard lên lầu, Markham xoay người đi xuống phòng, lông mày anh ta nhăn lại, hai tay chắp sau lưng.

“Anh đã làm gì với Drukker vậy?” Anh ta lưỡng lự hỏi Vance.

“Rõ ràng đây không phải là một người dễ chịu. Bệnh tật về thể chất và tinh thần. Một kẻ nói dối bẩm sinh. Nhưng khôn ngoan - ồ, khôn ngoan quá đỗi. Một bộ não khác thường - anh thường tìm thấy nó trong sự khiếm khuyết của kiểu người như anh ta. Đôi khi nó vận hành những suy nghĩ thiên tài, giống như Steinmetz[*] ; nhưng quá thường xuyên biến nó trở thành một suy nghĩ thâm thúy đi kèm với tính phi thực tế, Drukker là như thế. Tuy nhiên, vài lời trao đổi qua lại của chúng ta không phải là không có thành quả gì. Anh ta đang che giấu điều gì đó mà tuy muốn nói nhưng không dám.”

“Tất nhiên, có thể như vậy,” Markham nói một cách nghi ngờ. “Anh ta nhạy cảm về việc từ 11 giờ đến giữa trưa. Và anh ta quan sát anh từ đầu đến cuối như một con mèo vậy.”

“Một con chồn,” Vance chỉnh lại. “Đúng vậy, tôi đã nhận ra sự quan sát kỹ lưỡng của anh ta.”

“Dù sao, tôi thấy anh ta không giúp được gì nhiều.”

“Không giúp được gì,” Vance đồng ý. “Chúng ta không tiến thêm được chút nào. Nhưng ít ra chúng ta cũng nhận được một vài món hàng. Nhà toán học dễ bị kích động của chúng ta đã mở ra vài hướng suy đoán thú vị. Và bà Drukker đã thẳng thắn một cách thừa thãi. Nếu chúng ta biết được chuyện hai người họ biết, chúng ta có thể tìm ra chìa khóa cho vấn đề ngớ ngẩn này.”

Heath ủ rũ trong vài giờ qua, và theo dõi diễn biến với sự chán nản. Nhưng bây giờ thì anh ta hăng hái đứng thẳng lên.

“Tôi ở đây để nói vói anh, anh Markham à, rằng chúng ta đang lãng phí thời gian. Lợi ích của những cuộc nói chuyện này là gì? Sperling là gã chúng ta muốn, và khi người của tôi mang hắn đến và tra hỏi hắn một chút, chúng ta sẽ có đủ thứ cần thiết cho một bản cáo trạng. Hắn ta có tình ý với cô gái nhà Dillard và ghen tị với Robin - không chỉ vì sự đánh giá của cô gái, mà còn vì Robin có thể bắn mấy mục tiêu màu đỏ chính xác hơn anh ta. Anh ta đã cãi cọ với Robin ngay tại căn phòng này - giáo sư nghe được họ cãi nhau; và ông ấy xuống lầu với Robin, theo như chứng cứ, một vài phút trước án mạng…”

“Và,” Vance thêm vào mệt cách mỉa mai, “tên anh ta có nghĩa là ‘chim sẻ’. Quod erat demonstrandu[*]. Không đâu, trung sĩ; điều này quá dễ dàng. Nó hoạt động giống như một trò chơi Canfield với các lá bài được xếp chồng lên nhau; trong khi việc này đã được lên kế hoạch quá kỹ lưỡng để sự nghi ngờ chĩa thẳng vào người vô tội.”

“Tôi chẳng thấy có bất kỳ kế hoạch tỉ mỉ nào trong chuyện này cả,” Heath cố chấp. “Anh Sperling này tức giận, nhấc cây cung lên, chộp mũi tên trên tường, đi theo Robin ra ngoài, bắn xuyên tim anh chàng này và bỏ trốn.”

Vance thở dài.

“Anh quá ngay thẳng trong cái thế giới xấu xa này, trung sĩ à. Nếu chỉ xảy ra những điều quá ngây thơ như vậy, thì cuộc sống sẽ rất đơn giản - và buồn chán. Nhưng đó không phải là cách làm trong vụ sát hại Robin. Đầu tiên, không cung thủ nào có thể bắn một mục tiêu là con người đang di chuyển và trúng ngay giữa các xương sườn vào điểm trí mạng ở tim. Thứ hai, có vết nứt ở xương sọ của Robin. Anh ta có thể bị khi té ngã, nhưng không giống vậy. Thứ ba, nón của anh ta nằm ở chân, nó không thể ở đó nếu anh ta ngã theo một cách tự nhiên. Thứ tư, khấc tên khá méo mó nên tôi nghi ngờ là có phải nó được gắn trên một tấm bảng. Thứ năm, Robin đã đối mặt với mũi tên, và nhìn theo cách bay và hướng mũi tên thì anh ta sẽ có thời gian kêu lên và né nó. Thứ sáu…”

Vance dừng nói để châm một điếu thuốc.

“Ôi trời, trung sĩ! Tôi đã bỏ qua điều gì rồi. Khi một người bị đâm vào tim thì chắc chắn ngay lập tức phải có máu chảy ra, đặc biệt là khi đuôi của vũ khí lớn hơn thân mũi tên và không đủ để bịt kín lỗ hổng đó. Tôi nghĩ thế! Rất có thể anh sẽ tìm thấy một vài vết máu trên sàn phòng bắn cung - nhiều khả năng là ở đâu đó gần cửa sổ.”

Heath do dự, nhưng chỉ trong giây lát. Kinh nghiệm nhiều năm cho anh ta biết gợi ý của Vance không nên xem xét qua loa; và với một tiếng càu nhàu hiền lành anh ta đứng dậy và biến mất phía sau nhà.

“Tôi nghĩ, Vance à, tôi bắt đầu hiểu được điều anh nói” Markham quan sát, với ánh mắt bối rối. “Nhưng, trời ơi! Nếu cái chết của Robin rõ ràng là với một cây cung và mũi tên chỉ là một sân khấu được sắp đặt ex - post - facto[*], thì chúng ta đang đương đầu với một thứ gì đó hầu như quá hiểm ác so với dự tính.”

“Đây là việc làm của một gã điên,” Vance tuyên bố, với sự điềm tĩnh khác thường. “À, không phải gã điên nghĩ mình là Napoleon, mà là một gã điên với bộ não quá khổng lồ đến nỗi hắn ta vẫn cư xử đúng mực như một người ăn nói bình thường, qua reductio ad absurdum[*] - biến thành một điểm, đó là, nơi mà sự hài hước trở thành công thức trong không gian bốn chiều.”

Markham tiếp tục hút thuốc, chìm trong sự suy xét.

“Tôi mong là Heath không tìm ra bất kỳ cái gì,” cuối cùng anh ta nói.

“Tại sao?” Vance quay lại. “Nếu không có chứng cứ nào chứng tỏ Robin chết ở phòng bắn cung, nó chỉ khiến vấn đề trở nên khó khăn hơn về mặt pháp lý.”

Nhưng chứng cứ sắp được hé lộ. Trung sĩ quay lại sau vài phút, bỡ ngỡ nhưng hứng khởi.

“Chết tiệt thật, anh Vance à!” Anh ta thốt lên. “Anh đã đúng hoàn toàn.” Anh ta không cố che giấu sự khâm phục lộ rõ. “Không hề có vết máu thực sự nào trên sàn nhà; nhưng có chỗ sẫm màu trên nền xi măng được ai đó lau chùi bằng miếng giẻ ướt vài lần ngày hôm nay. Nó vẫn chưa khô; và vị trí gần ngay cửa, nơi mà anh nói. Và điều khiến nó đáng ngờ là một trong những tấm thảm đã trải lên trên đó. - Nhưng đừng để hở Sperling.” Anh ta sừng sộ. “Hắn ta có thể bắn Robin từ bên trong.”

“Và sau đó lau sạch vết máu, chùi sạch cây cung và mũi tên, đặt cái xác và cây cung trên bãi tập, trước khi anh ta đi khỏi?… Tại sao?… Bắn cung, từ khi bắt đầu, không phải là môn thể thao trong nhà, trung sĩ à. Và Sperling thừa biết điều này khi cố gắng giết người bằng cung tên. Một đòn như thế để chấm dứt cuộc sống yên ổn của Robin là thuần túy may rủi. Teucer cũng không thể tự mình làm được nó một cách chắc chắn - và, theo Homer[*], Teucer là nhà vô địch bắn cung của Hy Lạp.”

Khi anh nói thì Pardee đi xuống sảnh trên đường ra ngoài. Ông ta gần đến cửa trước thì Vance đột ngột đứng dậy và đi qua cổng vòm.

“Ô, này, ông Pardee. Làm ơn đợi một chút.” Người đàn ông quay lại với dáng vẻ lịch lãm.

“Có một câu hỏi khác chúng tôi muốn hỏi ông,” Vance nói. “Ông nói là đã nhìn thấy Sperling và Beedle rời khỏi đây sáng nay bằng cổng tường rào. Ông có chắc rằng không còn ai khác dùng cái cổng ấy chứ?”

“Khá chắc. Tôi không nhớ là còn ai khác nữa.”

“Tôi đang nghĩ đến anh Drukker.”

“Ồ, Drukker?” Pardee lắc đầu nhấn mạnh. “Không, tôi không nhớ là có anh ta. Nhưng anh cũng nhận thấy là có hàng tá người ra vào căn nhà này mà tôi thì không để ý lắm.”

“Đúng - đúng,” Vance thì thầm một cách thờ ơ. “Nhân tiện, anh Drukker có phải là người chơi cờ vua giỏi không?”

Pardee thoáng tỏ vẻ ngạc nhiên.

“Anh ta không thực sự là một người chơi đúng nghĩa,” ông ta giải thích kỹ lưỡng. “Tuy nhiên, anh ta là một nhà phân tích xuất sắc, và hiểu lý thuyết của trò chơi này một cách đáng kinh ngạc. Nhung anh ta chỉ thực hành chút ít trên bàn cờ thực.”

Khi Pardee rời khỏi, Heath hoan hỉ nhướng mắt về phía Vance.

“Tôi để ý thấy,” anh ta nhận xét một cách tử tế, “rằng tôi không phải là người duy nhất muốn kiểm tra chứng cứ ngoại phạm của anh gù.”

“À, nhưng có sự khác biệt giữa việc kiểm tra chứng cứ ngoại phạm và yêu cầu người đó tự chứng minh nó.”

Đúng lúc đó cửa trước mở ra. Có tiếng chân nặng nề ở hành lang, và ba người đàn ông xuất hiện ở cổng vòm. Hai người rõ ràng là thám tử, và ở giữa họ là một người thanh niên cao ráo, sáng sủa chưa tới ba mươi tuổi.

“Chúng tôi đã bắt được anh ta, thưa trung sĩ,” một trong hai thám tử thông báo, với một nụ cười trông cực kỳ thỏa mãn. “Anh ta đi thẳng từ đây về nhà, và đang đóng gói mọi thứ khi chúng tôi bước vào.”

Đôi mắt của Sperling đảo quanh phòng với sự tức giận. Heath đứng như trời trồng trước người thanh niên, và nhìn lên nhìn xuống vẻ đắc thắng.

“Chà, anh bạn trẻ, anh nghĩ mình thoát khỏi chuyện này rồi, đúng không?” Điếu thuốc của viên trung sĩ nhấp lên nhấp xuống trên môi khi anh ta nói.

Đôi má của Sperling đỏ lên, và anh ta ngậm miệng một cách bướng bỉnh.

“Vậy! Anh không có gì để nói?” Heath bước đến, bóp hàm của anh ta một cách hung tợn.

“Anh không muốn nói, đúng không? Vậy thì chúng tôi sẽ khiến anh phải nói.” Anh ta quay về phía Markham. “Làm thế nào đây, thưa anh? Tôi có nên đưa anh ta về trụ sở không?”

“Có lẽ anh Sperling sẽ không từ chối trả lời vài câu hỏi ở đây đâu,” Markham nói một cách nhẹ nhàng.

Sperling chú ý đến vị công tố viên một lát; sau đó ánh mắt của anh ta chuyển về phía Vance, người gật đầu khích lệ anh ta.

“Trả lời về chuyện gì chứ?” Anh ta hỏi, với sự nỗ lực hết sức trong việc tự kiềm chế. “Tôi đang chuẩn bị chuyến đi cuối tuần khi những gã côn đồ này xông vào phòng tôi; và tôi bị đưa tới đây mà không được một lời giải thích hay thậm chí một cơ hội đế nói với gia đình mình. Bây giờ anh nói đưa tôi đến trụ sở Cảnh sát.” Anh ta nhìn Heath thách thức. “Được thôi, cứ đưa tôi đến trụ sở Cảnh sát… thật là chết tiệt!”

“Sáng nay anh rời khỏi đây lúc mấy giờ, anh Sperling?” Giọng của Vance nhẹ nhàng và khéo léo, và làm yên lòng anh ta.

“Khoảng 11 giờ 15,” người thanh niên trả lời. “Vừa kịp lúc đón chuyến tàu 11 giờ 40 đi Scarsdale từ Grand Central.”

“Và Robin?”

“Tôi không biết mấy giờ Robin đi. Anh ta nói là anh ta đợi Belle - cô Dillard. Tôi để anh ta chờ ở phòng bắn cung.”

“Anh có thấy anh Drukker?”

“Có. Một lát. Anh ta ở phòng bắn cung khi Robin và tôi ở cuối cầu thang; nhưng anh ta rời khỏi ngay lập tức.”

“Qua cổng tường rào? Hay anh ta đi xuống bãi tập?”

“Tôi không nhớ… thực ra, tôi không để ý… Mà, xem này: tất cả chuyện này là sao?”

“Anh Robin bị giết sáng nay,” Vance nói, “- khoảng gần 11 giờ.”

Mắt Sperling dường như trợn ngược lên.

“Robin bị giết? Chúa ơi!… Ai… ai đã giết anh ta?” Môi của người thanh niên khô khốc, và anh ta liếm môi.

“Chúng tôi vẫn chưa biết,” Vance trả lời. “Anh ta bị bắn xuyên tim bởi mũi tên.”

Tin tức này khiến Sperling choáng váng. Anh ta đảo mắt một cách mơ hồ từ bên này sang bên kia, và mò mẫm điếu thuốc trong túi mình.

Heath đến gần anh ta, và kéo cằm anh ta ra.

“Có thể anh nói được ai là thủ phạm - bằng cung tên!”

“Tại sao… tại sao anh… nghĩ là tôi biết?” Sperling lắp bắp xoay xở.

“Thôi nào,” viên trung sĩ quay sang một cách tàn nhẫn, “anh ghen tị với Robin, đúng không? Anh tranh cãi gay gắt với anh ta về cô gái, ngay trong căn phòng này, đúng không? Và anh đã ở một mình với anh ta ngay trước khi anh ta chết, đúng không? Và anh cũng khá giỏi về bắn cung, đúng không? - Đó là lý do tôi nghĩ rằng anh biết điều gì đó.” Anh ta híp mắt và bặm môi. “Nói đi! Để rửa sạch nỗi oan. Không ai ngoài anh có thể làm chuyện đó. Anh đã mâu thuẫn với anh ta vì cô gái đó, và anh là người cuối cùng được nhìn thấy đã ở cùng anh ta - chỉ vài phút trước khi anh ta bị giết. Và còn ai khác có thể bắn anh ta bằng cung tên trừ cung thủ từng đoạt giải - hả?… Hãy làm nó dễ dàng cho chính anh, và phun hết mọi chuyện ra đi. Chúng tôi biết trò của anh rồi.”

Một tia sáng lạ thường hiện lên trong mắt Sperling, và cơ thể anh ta trở nên cứng đơ.

“Hãy cho tôi biết,” anh ta nói bằng giọng căng thẳng, không tự nhiên - “các người tìm thấy cây cung chưa?”

“Tất nhiên chúng tôi tìm thấy.” Heath cười khó ưa. “Ngay chỗ anh để nó - ở đường hẻm.”

“Đó là loại cung gì?” Ánh mắt Sperling cứ nhìn đăm đăm xa xôi.

“Đó là loại cung gì?” Heath nhắc lại. “Loại cung thông thường…”

Vance ngắt lời khi đã quan sát kỹ người thanh niên.

“Tôi nghĩ tôi hiểu câu hỏi, trung sĩ à. Đó là cung dành cho nữ, anh Sperling. Dài khoảng 5 foot 6 inch[*] và khá nhẹ - dưới 30 pound[*], tôi có thể nói vậy.”

Sperling hít một hơi chậm và sâu, giống như một người đang cố chịu đựng một kết cục cay đắng. Sau đó môi anh ta nở một nụ cười mờ nhạt và dữ tợn.

“Có tác dụng gì chứ?” Anh ta hỏi một cách thờ ơ. “Tôi nghĩ mình đã có đủ thời gian để trốn… Phải, tôi đã giết anh ta.”

Heath càu nhàu với vẻ thỏa mãn, và thái độ hiếu chiến của anh ta biến mất ngay lập tức.

“Anh có ý thức tốt hơn là tôi nghĩ,” anh ta nói, trong một tông giọng trầm, gật đầu ra hiệu với hai thám tử. “Mang anh ta đi đi, các cậu. Dùng xe của tôi ấy - nó đang ở bên ngoài. Và nhốt anh ta lại mà không cần chờ. Tôi sẽ chịu trách nhiệm khi tôi đến văn phòng.”

“Đi cùng nào, anh bạn,” một thám tử đang quay về phía sảnh ra lệnh.

Nhưng Sperling không hề nghe lời ngay. Thay vào đó anh ta nhìn Vance một cách khẩn thiệt.

“Có thể tôi… có lẽ tôi…” anh ta bắt đầu.

Vance lắc đầu.

“Không, anh Sperling. Điều tốt nhất là anh không nên gặp cô Dillard. Không có tác dụng gì đối với nỗi đau của cô ấy hiện giờ. Chào anh.”

Người thanh niên quay đi mà không nói thêm lời nào và đi giữa hai kẻ bắt giữ.

Chú Thích:

[*] Albert Einstein (1879 - 1955): nhà vật lý lý thuyết người Đức, người đã phát triển thuyết tương đối tổng quát, một trong hai trụ cột của vật lý hiện đại (trụ cột kia là cơ học lượng tử). Mặc dù được biết đến nhiều nhất qua phương trình về sự tương đương khối lượng-năng lượng E = mc2 (được xem là “phương trình nổi tiếng nhất thế giới”), ông lại được trao giải Nobel vật lý năm 1921 “cho những cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện”. Công trình về hiệu ứng quang điện của ông có tính chất bước ngoặt khai sinh ra lý thuyết lượng tử.

[*] Zugszwang (tiếng Đức): có nghĩa là “bắt buộc phải di chuyển.” Ở đây là thuật ngữ chỉ việc đến lượt một người đi nhưng bất kỳ nước đi nào cũng đều là nước đi yếu và gây bất lợi cho chính người đó, trong tình huống đó tốt nhất là bỏ qua lượt đi, tuy nhiên điều đó không được luật cờ vua cho phép.

[*] Charles Steinmetz Proteus (1865 - 1923) được sinh ra ở Breslau, Phổ (một phần của Đức vào thời điểm đó, nay là Wroclaw thuộc Ba Lan). Ông là nhà toán học và kỹ sư điện. Steinmetz được biết đến với những đóng góp của ông trong những lĩnh vực chính của lý thuyết dòng điện xoay chiều (AC).

[*] Quod erat demonstrandum (tiếng Latin, viết tắt là Q.E.D hay QED): điều phải chứng minh. Cụm từ này thường được ghi dưới dạng viết tắt ở phần cuối của một chứng minh toán học.

[*] Ex - post - facto (tiếng Latin): (có hiệu lực) về trước.

[*] Reductio ad absurdum (tiếng Latin): phương pháp phản chứng.

[*] Homer: một trong những nhà thơ Hy Lạp cổ đại xuất sắc nhất. Theo truyền thuyết thì ông bị mù và là một người hát rong tài năng. Không có thông tin chính xác về ông nhưng nhiều học giả sau này cho rằng Homer sống vào thế kỷ 8 hoặc 7 trước công Nguyên. Hai tác phẩm Iliad và Odyssey của ông đã có ảnh hưởng lớn đến văn chương hiện đại phương Tây.

[*] 1,7 m.

[*] 14 kg.