Chương 7 VANCE ĐI ĐẾN MỘT KẾT LUẬN.-(Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 3.30 p.m.)
Khi chỉ còn chúng tôi trong phòng khách, Vance đứng dậy, vươn người, đi đến bên cửa sổ. Vở tuồng vừa diễn ra, với đoạn cao trào gây sửng sốt, đã khiến tất cả chúng tôi choáng váng. Tâm trí của chúng tôi bận rộn, tôi nghĩ là, với cùng một ý tưởng; và khi Vance nói, cứ như anh đang nói ra những suy nghĩ của chúng tôi.
“Chúng ta quay lại với bài đồng dao rồi, có vẻ vậy…
#
“‘Chính ta,’ chim sẻ nói,
‘Bằng cung và tên thôi,
Ta giết Chim Cổ Đỏ.”’…
#
Này, Markham; chuyện này trở nên khó khăn rồi.”
Anh chầm chậm trở lại bàn trà và dập tắt điếu thuốc của mình. Anh nhìn Heath từ khóe mắt.
“Sao lại trầm tư thế, trung sĩ? Đáng lẽ anh nên hát bài hào hứng và vui sướng nhảy điệu tarantella[*] mới đúng chứ. Chẳng phải kẻ phản diện của anh đã thú nhận tội ác sao? Điều đó không làm anh vui khi biết thủ phạm sẽ sớm tàn lụi trong ngục tối à?”
“Thật ra mà nói, anh Vance,” Heath buồn rầu công nhận, “tôi không thỏa mãn. Lời thú tội đó đến quá dễ dàng, và - tôi đã từng thấy rất nhiều rồi, nhưng sao kẻ này lại không giống như hắn có tội cho lắm. Và đấy là sự thật, thưa anh.”
“Bất luận thế nào,” Markham hy vọng, “lời thú nhận phi lý của anh ta sẽ dập tắt sự tò mò của báo chí và rộng đường cho chúng ta tiếp tục cuộc điều tra. Vụ án này sẽ gây ra tiếng xấu; nhưng chừng nào các phóng viên còn nghĩ kẻ có tội đã bị giam giữ, thì họ sẽ không làm phiền chúng ta để lấy tin tức về ‘sự tiến triển.’”
“Tôi không nói là hắn không có tội,” Heath nóng nảy xác nhận, rõ ràng đang chống lại niềm tin của chính anh ta. “Chúng ta chắc chắn đã có được kết quả tốt ở hắn, và có thể hắn đã nhận ra và đầu thú, nghĩ rằng như vậy sẽ giảm nhẹ tội cho hắn ở phiên tòa. Có lẽ hắn không đến nỗi ngu lắm, sau những chuyện này.”
“Không phải thế đâu, trung sĩ,” Vance nói. “Đầu óc của anh chàng này cực kỳ đơn giản. Anh ta biết Robin đang đợi để gặp cô Dillard, và tối hôm qua anh ta cũng biết cô ấy sẽ không lấy anh kia. Rõ ràng Sperling không đánh giá cao Robin; và khi anh ta nghe được anh chàng kia chết dưới tay của ai đó đã dùng một cây cung ngắn và nhẹ, anh ta nhảy đến kết luận rằng Robin đã đi quá giới hạn cho phép trong chuyện tán tỉnh, và nhận một mũi tên thích đáng vào tim. Không còn gì để cho chú chim sẻ cao quý, ở giữa thời Nữ hoàng Victoria có thể làm ngoài việc vỗ bộ ngực nam tính của mình và tuyên bố rằng: ‘Ecce homo![*]… Đó là chuyện đau buồn nhất.”
“Dù thế nào đi nữa,” Heath càu nhàu, “tôi cũng sẽ không thả hắn. Nếu anh Markham không muốn khởi tố, thì tùy anh ta.”
Markham khoan dung nhìn viên trung sĩ. Anh ta nhận ra sự căng thẳng mà người đàn ông này phải chịu đựng, và chính vì thế mà anh ta không lấy làm tổn thương trước những lời của người kia.
“Tuy nhiên, có lẽ, trung sĩ à,” anh ta nói một cách tử tế, “anh sẽ không phản đối việc tiếp tục điều tra cùng tôi, ngay cả khi tôi quyết định không khởi tố Sperling.”
Heath ngay lập tức tỏ ra hối lỗi. Anh ta nhanh nhẹn đứng dậy, bước về phía Markham và chìa tay ra.
“Anh biết mà, thưa anh!”
Markham bắt lấy bàn tay đó và đứng dậy với một nụ cười nhã nhặn.
“Vậy thì tạm thời tôi sẽ giao việc lại cho anh. Tôi còn việc phải làm ở văn phòng, và tôi đã bảo Swacker đợi tôi.”[*] Anh ta chán nản đi đến sảnh. “Tội sẽ giải thích tình hình cho cô Dillard và giáo sư trước khi tôi đi. - Có chuyện gì đặc biệt không, trung sĩ?”
“À, thưa anh, tôi nghĩ tôi sẽ tìm kiếm thật kỹ mảnh giẻ được dùng để lau sàn dưới lầu. Và nhân tiện tôi sẽ xem xét tỉ mỉ phòng bắn cung. Ngoài ra, tôi sẽ vặn hỏi người đầu bếp và người quản gia một lần nữa - đặc biệt là người đầu bếp. Cô ta nhất định đã ở gần đó khi việc xấu xa này diễn ra… Tiếp đó là những việc thủ tục thông thường - dò hỏi hàng xóm và chuyện đại loại thế”
“Hãy cho tôi biết kết quả. Tôi sẽ ở câu lạc bộ Stuyvesant vào ngày hôm nay và chiều mai.”
Vance đi cùng Markham đến cổng vòm.
“Này, ông bạn già,” anh nói, khi chúng tôi hướng đến cầu thang; “đừng giảm thiểu tầm quan trọng của bức thư bí ẩn trong hộp thư đó. Tôi có một sự nghi ngờ tâm linh rằng có thể chìa khóa là bài đồng dao đó. Tốt hơn là anh nên hỏi giáo sư Dillard và cháu gái của ông ấy xem ‘Giám mục’ có gây sự chú ý gì với họ không. Chữ ký liên quan đến tôn giáo đó có ý nghĩa đấy.”
“Tôi không chắc đâu,” Markham trả lời ngờ vực. “Nó có vẻ hoàn toàn vô nghĩa với tôi. Nhưng tôi sẽ làm theo lời đề nghị của anh.”
Tuy nhiên, cả vị giáo sư lẫn cô Dillard không nhớ có mối liên hệ cá nhân nào với từ Giám mục; và vị giáo sư buộc phải đồng ý với Markham rằng bức thông điệp không mang bất kỳ ý nghĩa gì trong vụ án này.
“Tôi thấy,” ông ấy nói, “nó chỉ như một vở kịch tâm lý xã hội dành cho giới trẻ. Không có khả năng về chuyện kẻ giết Robin sẽ dùng một bí danh mơ hồ và viết thông điệp về tội ác của hắn. Tôi không rành về tội phạm, nhưng cách cư xử như thế theo tôi là không hợp lý.”
“Nhưng chính tội ác này đã phi lý rồi,” Vance thân thiện đưa ra ý kiến.
“Người ta không thể nói về điều phi lý, anh à,” vị giáo sư chua chát đáp lại, “khi người ta không biết về tiền đề tam đoạn luận.”
“Chính xác.” Giọng nói của Vance thật nhã nhặn. “Cho nên bản thân bức thông điệp có thể không phi lý.”
Markham khôn khéo chuyển đề tài.
“Chuyện tôi đặc biệt đến nói cho ông biết, thưa giáo sư, đó là anh Sperling vừa rồi đã đến đây không lâu và, sau khi được thông báo về cái chết của anh Robin, thú nhận rằng chính anh ta đã ra tay…”
“Raymond nhận tội!” Cô Dillard há hốc miệng.
Markham thương cảm nhìn cô gái.
“Xin nói thẳng, tôi không tin anh Sperling làm. Ý tưởng nhầm lẫn nào đó về lòng nghĩa hiệp chắc chắn đã khiến anh ta thừa nhận tộc ác.”
“‘Nghĩa hiệp’?” Cô ấy lặp lại, nghiêng về phía trước một cách căng thẳng. “Ý của anh là gì, anh Markham?”
Vance chính là người trả lời.
“Cây cung được tìm thấy ở bãi tập là cây cung của phụ nữ.”
“Ôi!” Cô gái lấy hai bàn tay che mặt mình lại, và người cô run lên nức nở.
Giáo sư Dillard nhìn cô ấy một cách bất lực; và sự bất lực của ông ấy chuyển thành sự bực bội.
“Chuyện vớ vẩn gì đây, Markham?” Ông ấy hỏi. “Cung thủ nào cũng có thể bắn bằng một cây cung của phụ nữ… Chàng trai trẻ thật quá ngớ ngẩn! Sao cậu ta lại làm Belle khốn khổ vì lời thú tội vô lý của cậu ta vậy!… Markham, hãy làm những gì anh có thể cho chàng trai đó đi.”
Markham trấn an ông ấy và đứng dậy chuẩn bị đi.
“Nhân tiện, giáo sư Dillard,” Vance nói, dừng chân ngay trước cửa; “tôi tin là ông sẽ không hiểu lầm tôi, nhưng có một khả năng nhỏ rằng chính ai đó đến gần được ngôi nhà này, thích thú với trò đùa bằng việc đánh máy bức thông điệp đó. Liệu có một chiếc máy đánh chữ nào trong nhà này không?”
Rõ ràng vị giáo sư tức giận với câu hỏi của Vance, nhưng vẫn đủ lịch sự để trả lời.
“Không, - chưa bao giờ có cái nào cả theo tôi biết. Tôi vứt máy của mình mười năm trước khi tôi rời trường đại học. Một cơ sở nhận đánh máy những gì tôi cần.”
“Còn anh Arnesson?”
“Nó không bao giờ dùng máy đánh chữ.”
Khi chúng tôi đi xuống cầu thang, chúng tôi gặp Arnesson từ nhà của Drukker về.
“Tôi đã xoa dịu ngài Leipnitz[*] của chúng ta,” anh ta thông báo, sau đó thở dài thườn thượt. “Adolph tội nghiệp! Thế giới này là quá sức đối với anh ta. Khi anh ta đắm mình trong các công thức thuyết tương đối của Lorentz[*] và Einstein thì anh ta rất thanh thản. Nhưng khi anh ta bị kéo về thực tại thì anh ta liền tan rã.”
“Có thể anh sẽ thích thú khi biết,” Vance thờ ơ nói, “rằng Sperling vừa nhận tội giết người.”
“Ha!” Arnesson cười khoái trá. “Khá phù hợp. ‘Chính ta,’ chim sẻ nói… Rất rõ ràng. Nhưng, tôi vẫn không biết điều đó sẽ giải như thế nào trong toán học.”
“Và, vì chúng tôi đã đồng ý sẽ cập nhật thông tin cho anh,” Vance nói tiếp, “điều đó có thể giúp cho tính toán của anh nếu biết chúng tôi có lý do để tin rằng Robin bị giết trong phòng bắn cung và được đặt ở bãi tập sau đó.”
“Rất tốt khi biết được điều đó.” Arnesson trở nên nghiêm túc trong chốc lát. “Đúng, điều đó có thể ảnh hưởng đến bài toán của tôi.” Anh ta đi cùng chúng tôi ra cửa trước. “Nếu có cách nào đó tôi có thể giúp được các anh, cứ đến tìm tôi.”
Vance dừng chân lại để châm điếu thuốc, nhưng tôi biết, qua ánh mắt uể oải của anh, rằng anh đang đưa ra một quyết định. Anh chậm rãi quay về phía Arnesson.
“Anh có biết anh Drukker hoặc ông Pardee có máy đánh chữ không?”
Arnesson hơi giật mình, và đôi mắt anh ta lấp lánh một cách thông minh.
“A ha! Bức thông điệp Giám Mục đó… Tôi hiểu rồi. Chỉ là vấn đề cẩn thận. Cũng đúng.” Anh ta gật đầu với sự hài lòng. “Có, cả hai đều có máy đánh chữ. Drukker đánh máy không ngừng nghỉ - anh ta bảo là suy nghĩ với bàn phím. Và đống thư từ về cờ vua của Pardee thì to tướng như người hùng trong các bộ phim. Ông ấy cũng tự mình đánh ra cả.”
“Anh có thấy phiền không,” Vance hỏi, “nếu đi lấy một mẫu chữ đánh máy của mỗi cái máy, và cả mẫu giấy hai quý ông này dùng?”
“Không phiền gì hết.” Arnesson có vẻ hân hoan với công việc được nhờ vả. “Chiều nay sẽ có cho các anh. Các anh sẽ ở đâu?”
“Anh Markham sẽ ở câu lạc bộ Stuyvesant. Anh có thể gọi cho anh ta ở đấy và anh ta sẽ sắp xếp…”
“Tại sao phải phiền phức sắp xếp làm gì? Tôi sẽ tự mình đem kết quả đến cho anh Markham. Chỉ là vui quá thôi. Trò chơi làm thám tử này hấp dẫn quá.”
Vance và tôi về nhà bằng xe của vị công tố viên, và Markham tiếp tục đến văn phòng. Vào 7 giờ tối hôm đó; cả ba chúng tôi gặp nhau tại câu lạc bộ Stuyvesant để ăn tối; và lúc 8 giờ rưỡi, chúng tôi ngồi ở góc yêu thích của Markham trong phòng chờ, hút thuốc và nhâm nhi cà phê.
Trong lúc dùng bữa, không một ai nhắc đến vụ án. Các ấn phẩm mới của những tờ báo chiều có viết ngắn gọn chuyện liên quan đến cái chết của Robin. Heath rõ ràng đã thành công trong việc hạn chế sự tò mò của cánh phóng viên và giảm bớt trí tưởng tượng của họ. Văn phòng Công tố quận đang đóng cửa, các nhà báo không thể tấn công Markham bằng những câu hỏi, vì vậy giới báo chí chậm chân không được cung cấp nhiều thông tin. Trung sĩ đã canh giữ nhà Dillard rất tốt, nên các phóng viên không thành công trong việc tiếp cận bất cứ thành viên nào trong gia đình họ.
Markham cầm tờ báo Sun mới trên đường đi từ phòng ăn, và vừa cẩn thận đọc qua nó vừa nhấp một ngụm cà phê.
“Đây là âm thanh yếu ớt đầu tiên,” anh ta buồn bã bình luận. “Tôi rùng mình khi nghĩ đến những bài báo buổi sáng sẽ chứa cái gì.”
“Không có cách nào khác ngoài chịu đựng nó,” Vance cười vô cảm. “Khi một tay nhà báo lanh lợi nào đó thức tỉnh trước tổ hợp chim cổ đỏ - chim sẻ - mũi tên thì những chủ bút của thành phố này sẽ hóa điên vì vui sướng, và mọi trang nhất của cả nước sẽ trông giống như những trang quảng cáo cho Mẹ Ngỗng.”
Markham chìm trong sự chán nản. Cuối cùng anh ta giận dữ đập lên tay vịn của chiếc ghế bằng nắm đấm của mình.
“Chết tiệt thật, Vance à! Tôi sẽ không để anh thổi bùng trí tường tượng của tôi với sự ngốc ngếch về bài đồng dao đâu.” Tiếp đó anh ta nói thêm, với sự hung tợn về điều không chắc chắn: “Chỉ là một sự trùng hợp, tôi nói cho anh biết. Đơn giản là không thể có bất kỳ cái gì trong đó cả.”
Vance thở dài. “Thuyết phục chính anh chống lại ý chí của anh đi; anh vẫn còn đồng tình - với giải thích của người quản gia.” Anh thò tay vào túi và móc ra một mảnh giấy. “Bỏ tất cả tác phẩm non nớt sang một bên pro tempore[*] đi, đây là bảng sự kiện làm sáng tỏ mà tôi đã soạn ra trước bữa tối… ‘Làm sáng tỏ’ ư? Đúng, có thể như thế nếu ta biết cách giải nghĩa nó.”
Markham nghiên cứu mảnh giấy trong vài phút. Những gì Vance đã viết ra là thế này:
#
9.00 a.m. Arnesson ra khỏi nhà đến thư viện trường đại học.
9.15 a.m. Belle Dillard ra khỏi nhà để đến sân quần vợt.
9.30 a.m. Drukker ghé nhà để tìm Arnesson.
9.50 a.m. Drukker đi xuống dưới vào phòng bắn cung.
10.00 a.m. Robin và Sperling ghé nhà và ở lại trong phòng khách khoảng nửa tiếng.
10.30 a.m. Robin và Sperling đi xuống phòng bắn cung.
10.32 a.m. Drukker nói anh ta đi dạo, qua cổng tường rào.
10.35 a.m Beedle đi chợ.
10.55 a.m Drukker nói anh ta trở về nhà mình.
11.15 a.m Sperling ra về bằng cổng tường rào.
11.30 a.m. Drukker nói anh ta nghe có tiếng thét trong phòng của mẹ anh ta.
11.35 a.m Giáo sư Dillard đi ra ban công phòng Arnesson.
11.40 a.m. Giáo sư Dillard nhìn thấy xác của Robin ở bãi tập bắn cung.
11.45 a.m Giáo sư Dillard gọi điện thoại đến Văn phòng Công tố quận.
12.25 p.m. Belle Dillard đi chơi quần vợt về.
12.30 p.m. Cảnh sát đến nhà Dillard.
12.35 p.m Beedle đi chợ về.
2.00 p.m. Arnesson từ trường đại học về.
#
Do đó: Robin đã bị giết vào lúc nào đó giữa 11.15 (khi Sperling ra về) và 11.40 (khi giáo sư Dillard phát hiện ra thi thể).
#
Những người duy nhất được biết là đã ở nhà trong khoảng thời gian này là ông Pyne và giáo sư Dillard.
#
Cách sắp xếp của tất cả những người có liên quan theo cách nào đó đến vụ giết người như sau (theo lời khai và bằng chứng hiện có trong tay):
1. Arnesson ở thư viện trường đại học từ 9 a.m. đến 2 p.m.
2. Belle Dillard ở sân quần vợt từ 9.15 a.m. đến 12.25 p.m.
3. Drukker đi dạo trong công viên từ 10.32 a.m. đến 10.55 a.m.; và ở trong phòng làm việc từ 10.55 a.m trở đi.
4. Pardee ở trong nhà mình suốt buổi sáng.
5. Bà Drukker ở trong phòng mình suốt buổi sáng.
6. Beedle đi chợ từ 10.35 a.m. đến 12.35 p.m.
7. Sperling trên đường đi đến nhà ga Grand Central từ 11.15 a.m. đến 11.40 a.m., lúc đó anh ta đón tàu đi Scarsdale.
#
Kết luận: Trừ phi có ít nhất một trong bảy bằng chứng ngoại phạm này bị lung lay, toàn bộ gánh nặng nghi ngờ, và dĩ nhiên tội trạng thật sự, chắc hẳn đè lên ông Pyne hoặc giáo sư Dillard.
#
Khi Markham đọc xong mảnh giấy, anh ta tỏ vẻ bực tức.
“Toàn bộ lời ám chỉ của anh thật vô lý,” anh ta cáu gắt; “và kết luận của anh là một non – sequitur[*]. Trình tự thời gian giúp xác định thời điểm tử vong của Robin, nhưng giả định của anh rằng một trong những người chúng ta đã gặp hôm nay nhất thiết có tội, là hoàn toàn vô lý. Anh hoàn toàn bỏ qua khả năng rằng bất kỳ người ngoài nào cũng có thể gây ra tội ác này. Có ba cách để đi đến bãi tập và phòng bắn cung mà không cần phải đi vào trong nhà - cánh cổng rào ở đường số 75, cánh cổng rào khác ở đường số 76, và đường hẻm nằm giữa hai tòa nhà chung cư, dẫn ra đường Riverside Drive.”
“Ồ, rất có khả năng là một trong ba lối ra vào này đã được sử dụng,” Vance đáp. “Nhưng đừng bỏ qua sự thật rằng lối vắng vẻ nhất, và vì thế thích hợp nhất trong ba cách thức ra vào - là đường hẻm, được bảo vệ bởi một cánh cửa khóa mà không ai có thể có chìa khóa ngoại trừ một thành viên nào đó trong gia đình Dillard. Tôi không thể tưởng tượng một kẻ giết người bước vào bãi tập từ hai cổng rào trên đường: hắn sẽ có quá nhiều nguy cơ bị bắt gặp.”
Vance nghiêm túc nghiêng người về phía trước.
“Và, Markham à, có những lý do khác giải thích tại sao chúng ta có thể loại bỏ người lạ hay kẻ vãng lai thông thường. Người đã đưa Robin đến cái chết nhất định phải biết được chính xác tình trạng trong nhà Dillard sáng nay từ 11 giờ 15 đến 12 giờ kém 20. Hắn biết ông Pyne và vị giáo sư già ở một mình trong nhà. Hắn biết rằng Belle Dillard không đi lang thang quanh ngôi nhà. Hắn biết rằng Beedle đã ra ngoài và cũng không thể nghe thấy hắn hoặc làm hắn bất ngờ. Hắn biết rằng Robin - nạn nhân của hắn - ở đó, và Sperling đã rời khỏi. Hơn nữa, hắn biết chút gì đó về địa thế của mảnh đất - vị trí của phòng bắn cung, chẳng hạn; quá rõ ràng là Robin bị giết trong căn phòng đó. Không ai không quen thuộc với tất cả những chi tiết này lại dám tiến vào trong và dựng ra một vụ giết người ngoạn mục. Tôi nói cho anh biết, Markham à, chính ai đó rất thân thiết với những người nhà Dillard - ai đó có thể biết được chính xác tình hình trong gia đình đó sáng nay.”
“Thế còn tiếng thét của bà Drukker thì sao?”
“À, thật ra đó là gì? Cửa sổ phòng bà Drukker có thế là một yếu tố mà hung thủ đã không để ý đến. Hoặc có lẽ hắn biết chuyện đó và quyết định chấp nhận nguy cơ bị bắt gặp. Mặt khác, chúng ta không biết bà ấy có thét hay không. Bà ấy nói không; Drukker nói có. Cả hai đều có mục đích phía sau những gì họ đã rót vào đôi tai cả tin của chúng ta. Drukker có thể đã kể về tiếng thét để chứng minh anh ta ở nhà từ 11 đến 12 giờ; và bà Drukker có thể chối bỏ điều đó vì sợ rằng anh ta không có ở nhà. Cũng giống như olla podrida[*]. Nhưng chuyện đó không quan trọng. Điểm mấu chốt tôi đang cố làm sáng tỏ chính là chỉ có một người thân quen với nhà Dillard mới có thể gây ra chuyện độc ác này.”
“Chúng ta có quá ít giả thiết để bảo đảm kết luận đó,” Markham xác nhận. “Ngẫu nhiên có thể góp phần vào…”
“Ô, này, ông bạn già! Ngẫu nhiên có thể có tác dụng với một số ít sự hoán vị, nhưng không đến hai mươi. - Và cả bức thông điệp bỏ trong hộp thư. Kẻ giết người còn biết cả tên đệm của Robin;”
“Giả sử, cứ cho là kẻ giết người đã viết bức thông điệp đi.”
“Có phải anh cho rằng kẻ đùa cợt gàn dở nào đó phát hiện ra vụ giết người bằng thần giao cách cảm hoặc xem bói bằng quả cầu pha lê, lật đật đi tìm máy đánh chữ, soạn ra một bài thơ, vội vã trở lại căn nhà, không có lý do chính đáng, cực kỳ mạo hiểm nếu bị bắt gặp để nhét mảnh giấy vào hộp thư?”
Trước khi Markham kịp trả lời, Heath bước vào phòng và hấp tấp đi đến chỗ chúng tôi. Có thể thấy rõ là anh ta đang lo lắng và bất an. Nói vài lời chào hỏi xong anh ta đưa một bao thư đánh máy cho Markham.
“Báo World nhận được nó trong hộp thư vào chiều tối. Quinan, phóng viên cảnh sát của tờ World, đã đem nó đến chỗ tôi mới đây; và anh ta nói rằng báo Times và báo Herald cũng nhận được một bức. Thư được đóng dấu vào lúc 1 giờ ngày hôm nay, nên có lẽ chúng được gởi đi giữa 11 và 12 giờ. Hơn nữa, anh Markham, chúng được gởi từ khu phố nhà Dillard, vì chúng được đóng dấu Trạm Bưu Điện ‘N’ trên đường số 69 Tây.”
Markham rút lá thư ra khỏi bao thư. Đột nhiên hai mắt anh ta mở to, và các cơ miệng của anh ta căng cứng. Không ngước nhìn, anh ta đưa lá thư cho Vance. Nó gồm một tờ giấy đánh máy duy nhất, và từ ngữ được in trên đó giống như của bức thông điệp được bỏ trong hộp thư nhà Dillard. Thật vậy, nội dung là bản sao y nguyên của cái kia: - “Joseph Cochrane Robin đã chết. Ai giết Chim Cổ Đỏ? Sperling có nghĩa là chim sẻ. - GIÁM MỤC.”
Vance nhìn thoáng qua mảnh giấy.
“Đúng là giống nhau, các anh thấy đó,” anh lạnh lùng nói. “Giám Mục sợ rằng công chúng sẽ bỏ lỡ điểm quan trọng trong trò đùa của hắn; nên hắn đã giải thích nó với báo chí.”
“Anh nói là trò đùa sao, anh Vanee?” Heath chua chát hỏi. “Đây không phải loại trò đùa mà tôi quen. Vụ này ngày càng điên rồ hơn…”
“Chính xác, trung sĩ à. Một trò đùa điên rồ.”
Một anh chàng mặc đồng phục bước đến bên vị công tố viên và cúi xuống vai anh ta một cách kín đáo, thì thầm điều gì đó.
“Lập tức dẫn anh ta đến đây,” Markham ra lệnh. Sau đó nói với chúng tôi: “Là Arnesson. Có lẽ anh ta có những mẫu đánh máy.” Một vết gợn trên gương mặt anh ta; và anh ta lại liếc nhìn bức thông điệp Heath đã mang đến. “Vance,” anh ta nói khẽ, “tôi bắt đầu tin vụ án này có thể trở nên tồi tệ như anh nghĩ. Tôi tự hỏi nếu các bản đánh máy là phù hợp…”
Nhưng khi bức thư được đối chiếu với những mẫu đánh máy Arnesson mang đến, không có sự tương đồng rõ ràng nào. Không chỉ kiểu chữ đánh máy và mực in khác hẳn máy của Pardee và Drukker, mà cả loại giấy cũng không giống với bất kỳ mẫu giấy nào mà Arnesson đã lấy được.
Chú Thích:
[*] Điệu nhảy dân gian của Ý, đặc trưng bởi ánh sáng, nhịp nhanh, vui tươi.
[*] ‘Ecce homo!’ (tiếng Latin): tạm dịch ‘Này, Người đây!’, là những lời mà tổng trấn Pontius Pilatus đã nói khi đưa Chúa Jesus bị trói, bị đội mão gai ra trước đám đông quá khích.
[*] Thứ Bảy là ngày làm việc nửa ngày ở văn phòng công tố quận. Swacker là trợ lý của Markham.
[*] Gottfried Wilhelm Leibniz (1646 - 1716): nhà bác học và triết gia người Đức. Ông chiếm giữ một vị trí đáng kể trong lịch sử toán học và triết học sau khi đã phát triển cách tính tích phân và vi phân một cách độc lập với Isaac Newton.
[*] Hendrik Antoon Lorentz (1853 - 1928): nhà vật lý Hà Lan nhận chung giải Nobel Vật lý năm 1902 với Pieter Zeeman vì đã phát hiện ra cách giãi thích lý thuyết hiệu ứng Zeeman. Lorentz đã phát triển các công cụ nhận thức và toán học làm trung tâm của thuyết tương đối hẹp mà sau này nhà bác học Albert Einstein đã hoàn thiện.
[*] Pro tempore (tiếng Latin): tạm thời.
[*] Non – sequitur (tiếng Latin): sự không nhất quán.
[*] Olla podrida: món hầm thập cẩm của Tây Ban Nha, gồm có thịt, đậu và rau củ khác tùy thuộc vào công thức chế biến.