← Quay lại trang sách

Chương 8 MÀN HAI-

(Thứ Hai, 11 tháng Tư; 11 a.m.)

Không cần phải nhắc lại sự cảnh giác trên khắp cả nước do vụ ám sát Robin gây ra. Mọi người đều nhớ cách mà thảm kịch gây sửng sốt này đã được mô tả trên báo chí cả nước. Nó đã được nhắc đến bằng nhiều tên gọi khác nhau. Một vài tờ báo gọi nó là án mạng Chim Cổ Đỏ. Những tờ báo khác, cũng lặp lại nhiều hơn nhưng kém chính xác hơn[*], gọi nó là án mạng Mẹ Ngỗng. Nhưng chữ ký trên bức thông điệp được đánh máy lôi cuốn mạnh mẽ cảm giác bí ẩn của giới báo chí; và cuối cùng thì vụ ám sát Robin được biết đền dưới tên gọi là vụ án mạng Giám Mục. Sự kỳ dị và đáng sợ của nó được kết hợp bởi sự kinh dị và bài đông dao bí ẩn đã kích động trí tưởng tượng của công chúng; và những ẩn ý độc ác và điên rồ trong tình tiết của nó đã ảnh hưởng đến cả nước giống như bầu không khí của cơn ác mộng quái đản không thể giũ sạch.

Trong suốt tuần sau khi phát hiện ra thi thể của Robin, các thám tử của Cục Hình sự, cũng như các thám tử có quan hệ với Văn phòng Công tố quận, đều bận rộn ngày đêm để đẩy nhanh việc điều tra của họ.

Việc nhận được bản sao bức thông điệp Giám Mục của tờ New York buổi sáng đã làm tiêu tan bất kỳ ý nghĩ rằng Heath có thể giữ Sperling như là tội phạm; và mặc dù anh ta đã cự tuyệt sự phê chuẩn của đơn vị mình về sự vô tội của người thanh niên bị chính anh ta bắt, với sự khoái trá và cố chấp thường thấy, trong việc tìm kiếm thủ phạm hợp lý hơn. Cuộc điều tra mà anh ta tổ chức và giám sát đã hoàn thành là vụ án mạng Greene. Không sự việc nào giữ được vài tia hy vọng về kết quả bị bỏ sót; và báo cáo mà anh ta viết ra đã làm hài lòng ngay cả những nhà tội phạm học kỹ lưỡng của Đại học Lausanne.

Vào buổi trưa ngày xảy ra án mạng, anh ta và người của mình đã tìm kiếm những mảnh vải được sử dụng để lau sạch vết máu trong phòng bắn cung; nhưng không có dấu vết nào được tìm thấy. Ngoài ra, một cuộc kiểm tra cẩn thận trong tầng hầm nhà Dillard được thực hiện với hy vọng tìm ra thêm các manh mối khác; mặc dù Heath đã nhờ các chuyên gia tham gia vào vụ này, nhưng kết quả vẫn không có gì. Chỉ có một điểm được đưa ra ánh sáng là tấm thảm gần cửa bị di chuyển để che đậy vết lau chùi trên nền xi măng. Tuy nhiên, sự thật này chỉ chứng minh cho những quan sát trước đó của viên trung sĩ.

Báo cáo post-mortem[*] của bác sĩ Doremus cung cấp thêm bằng chứng chính thức cho đến giờ chấp nhận giả thiết rằng Robin đã bị giết trong phòng bắn cung và sau đó được đem ra bãi tập. Việc khám nghiệm tử thi cho thấy phía sau hộp sọ của anh ta bị đập rất mạnh bởi vật nặng tròn, kết quả là tạo ra các vết nứt sâu khác biệt với những vết nứt gây ra do bị đánh bởi vật có mặt phẳng. Một cuộc tìm kiếm hung khí gây án đã được tiến hành; nhưng không tìm ra được hung khí giống như vậy.

Mặc dù Beedle và Pyne đều bị Heath hỏi cung vài lần, nhưng không có thêm thông tin gì từ họ cả. Pyne đã khẳng định là toàn bộ buổi sáng ông ta đều ở trong phòng của Arnesson, trừ lúc đi đến tủ đựng đồ vải và cửa trước, và từ chối hoàn toàn việc đã đụng chạm vào một trong hai thứ là cái xác và cây cung khi giáo sư Dillard kêu ông ta đi tìm Sperling. Tuy nhiên, trung sĩ lại không hoàn toàn hài lòng với lời khai của người đàn ông này.

“Ông lão già cả mắt mờ này đang che giấu một cái gì đó,” anh ta nói với Markham bằng giọng chán ghét. “Nhưng sẽ có cách nào đó buộc ông ta phải khai ra.”

Một cuộc vận động lấy lời khai đối với tất cả các ngôi nhà ở đường số 75 giữa đại lộ West End và đường Riverside Drive được thực hiện với hy vọng sẽ tìm được người có để ý đến những ai đã ra vào hay xuất hiện ở cổng rào nhà Dillard trong suốt buổi sáng đó. Nhưng không thu được gì cả từ cuộc vận động chán ngắt này. Có vẻ như Pardee là cư dân duy nhất trong khu phố có quan sát đến nhà Dillard vào sáng hôm đó. Sự thật là, sau nhiều ngày điều tra khó khăn gian khổ theo con đường này, viên trung sĩ nhận ra rằng anh ta sẽ phải tiến hành công việc này mà không có bất kỳ sự giúp đỡ ngẫu nhiên hay từ bên ngoài.

Các chứng cứ ngoại phạm khác nhau của bảy người mà Vance đã trình bày trong bản giải thích của anh gởi cho Markham, trong hoàn cảnh này đều đã được chấp nhận. Rõ ràng, không thể kiểm tra họ một cách toàn diện, vì cái chính là, chúng chỉ dựa trên lời khai của các cá nhân có liên quan. Hơn nữa, cuộc điều tra đã được thực hiện với sự thận trọng tối đa để không gây ra sự ngờ vực. Kết quả điều tra như sau:

1. Arnesson đã ở thư viện trường đại học với sự chứng kiến của nhiều người, gồm có người trợ lý thư viện và hai sinh viên. Nhưng thời điểm trong những bằng chứng của họ không liên tục và cũng không rõ ràng về thời gian.

2. Belle Dillard đã chơi được vài hiệp tennis ở sân công cộng nằm trên đường số nọ và đường Riverside Drive, nhưng vì có hơn bốn người trong nhóm nên cô ấy đã hai lần nhường vị trí của mình cho bạn; và không ai trong số những người chơi xác nhận được cô ấy có ở lại sân đấu trong suốt buổi chơi hay không.

3. Thời gian Drukker rời khỏi phòng bắn cung được xác nhận chắc chắn bởi Sperling; nhưng không ai nhìn thấy anh ta sau đó. Anh ta thừa nhận là không gặp người quen nào trong công viên, nhưng lại nhấn mạnh rằng anh ta đã dừng lại vài phút để chơi với một vài đứa trẻ xa lạ.

4. Pardee đã ở một mình trong phòng làm việc của ông ta. Người đầu bếp lớn tuổi và cô hầu người Nhật của ông ta ở phía sau căn nhà, và không nhìn thấy ông ta mãi cho tới giờ ăn trưa. Do vậy chứng cứ ngoại phạm của ông ta hoàn toàn không được xác thực.

5. Lời khai của bà Drukker xác nhận chỗ bà ấy đã ở vào sáng hôm đó, vì không ai thấy bà ấy từ 9 giờ 30, khi Drukker đi gặp Arnesson, đến 1 giờ, khi người đầu bếp mang bữa ăn trưa lên cho bà ấy.

6. Chứng cứ ngoại phạm của Beedle cũng đã được kiểm tra một cách đầy đủ và thỏa đáng. Pardee thấy cô ta rời nhà lúc 10.35; và vài người buôn bán nhớ ra cô ta đã ở chợ Jefferson giữa 11 và 12 giờ.

7. Sự việc Sperling đi chuyến tàu lúc 11.40 để tới Scarsdale đã được xác minh; vì thể anh ta phải rời khỏi nhà Dillard vào thời điểm anh ta đã nói - là 11.15. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm này, chỉ đơn thuần là thủ tục thường lệ, vì thực tế anh ta đã được loại ra khỏi vụ này. Nhưng nếu, như Heath giải thích, phát hiện ra rằng anh ta không đi chuyển tàu 11.40, thì anh ta sẽ là thủ phạm tiềm năng quan trọng.

#

Để theo đuổi cuộc điều tra một cách tổng quát, viên trung sĩ bắt đầu từ những câu chuyện và những hội nhóm của những người có liên quan. Nhiệm vụ này cũng không khó khăn. Bọn họ đều nổi tiếng, và các thông tin liên quan đến họ đều có được dễ dàng; nhưng không tin tức tìm được nào có thể coi như tia sáng lóe lên trong vụ ám sát Robin. Không có thông tin nào tiết lộ chút gợi ý về động cơ của tội ác này; và sau một tuần tập trung điều tra và suy đoán thì vụ án này dường như vẫn bị che giấu một cách bí ẩn bất khả xâm phạm.

Sperling vẫn chưa được thả ra. Chứng,cứ prima facie[*] chống lại anh ta, kết hợp với lời thú tội vô lý của anh ta, đã gây khó khăn trong việc tiến thêm một bước tới kết luận chính xác. Tuy nhiên, Markham đã tổ chức một cuộc họp không chính thức với các luật sư được cha của Sperling thuê để giải quyết vụ án này, và một kiểu nào đó về “sự thỏa thuận của các quý ông”, tôi nghĩ, đã đạt được; mặc dù chính quyền không có động thái gì về việc truy tố (dù thực tế Bồi thẩm đoàn cũng tham gia khi đó), các luật sư bào chữa đã không yêu cầu thực hiện habeas corpus[*]. Tất cả các dấu hiệu này chỉ ra rằng cả Markham và luật sư của Sperling đều đang chờ thủ phạm thật sự bị bắt.

Markham đã có nhiều cuộc phỏng vấn những thành viên trong gia đình Dillard, trong một nỗ lực bền bỉ để tìm ra một vài đầu mối nhỏ có thể dẫn đến kết quả của cuộc điều tra; và Pardee đã được triệu tập đến Văn phòng Công tố quận để lấy lời khai về những gì ông ta quan sát được từ cửa sổ nhà mình vào buổi sáng xảy ra thảm kịch. Bà Drukker đã bị thẩm vấn lần nữa; nhưng bà ấy không chỉ dứt khoát phủ nhận việc đã nhìn ra cửa sổ phòng mình vào sáng hôm đó, mà bà ấy còn chế giễu ý kiến cho rằng bà ấy đã thét lên.

Drukker, khi bị hỏi cung một lần nữa, đã thay đổi phần nào lời khai trước đây của mình. Anh ta giải thích rằng mình có thể bị nhầm lẫn về nguồn gốc của tiếng thét, và ám chỉ rằng nó có thể xuất phát từ ngoài đường hoặc từ một trong các cửa sổ của tòa nhà chung cư. Thực tế, anh ta đã nói, rất khó xác nhận được mẹ anh ta đã phát ra tiếng thét đó, đến khi anh ta đi tới cửa phòng bà ấy sau đó thì nghe bà đang ngâm nga bài hát tiếng Đức dành cho trẻ con của Humperdinck[*] là “Hänsel và Gretel.” Markham, tin rằng không thể lấy được “bất kỳ thông tin gì từ Drukker và mẹ anh ta, cuối cùng đã tập trung vào nhà Dillard.

Arnesson đã tham dự các cuộc họp riêng ở văn phòng của Markham; nhưng vì khả năng quan sát bao quát và đầy hoài nghi, anh ta dường như cũng có nhiều bối rối như những người còn lại trong chúng tôi. Vance giễu cợt anh ta một cách thân thiện về công thức toán học dùng để giải vụ án này, nhưng Arnesson nhấn mạnh rằng công thức không thể hoàn tất cho tới khi có được tất cả hệ số của định lý. Dường như anh ta quan tâm đến toàn bộ vụ việc như kiểu sự châm biếm của Juvenal[*] ; và Markham đã nhiều lần tỏ ra bực bội. Anh ta trách Vance vì đã để Arnesson trở thành một đồng nghiệp không chính thức trong cuộc điều tra này, nhưng Vance đã bảo vệ chính mình rằng chẳng sớm thì muộn Arnesson cũng sẽ cung cấp những thông tin tuy có vẻ không liên quan gì nhưng cũng có thể dùng như là một point de depart[*] thuận lợi.

“Lý thuyết tội phạm - toán học của anh ta thì hiển nhiên là nhảm nhí,” Vance nói. “Tâm lý học - không phải là khoa học trừu tượng - cuối cùng sẽ làm giảm các yếu tố hóc búa trong bài toán. Nhưng chúng ta cần thông tin để tiếp tục, và Arnesson biết nội tình của nhà Dillard tốt hơn những gì chúng ta có thể biết. Anh ta biết về nhà Drukker, và quen biết Pardee; và chính điều đó chứ không phải là một người có một đống bằng khen về khoa học, sở hữu một trí tuệ cực kỳ sắc sảo. Miễn là anh ta vẫn để tâm và chú ý vào vụ án, vẫn còn cơ hội để anh ta tìm ra thứ có tầm quan trọng sống còn đối với chúng ta.”

“Có thể anh đúng,” Markham càu nhàu. “Nhưng cái thái độ đầy nhạo báng của anh ta khiến tôi bực mình.”

“Hãy rộng lượng hơn,” Vance thuyết phục. “Hãy coi như sự mỉa mai của anh ta có liên quan đến những nghiên cứu khoa học của anh ta. Điều gì có thể tự nhiên hơn một người đàn ông tự lên kế hoạch cho bản thân một cách liên tục để vươn tới khoảng không của vũ trụ bao la, và có liên quan đến năm ánh sáng, vô cực và những chiều không gian khác thường, nên sẽ khụt khịt chế giễu đối với những vi phân của cuộc sống này?… Anh bạn kiên cường, Arnessson. Có lẽ không dễ gần và thoải mái, nhưng đầy thú vị.”

Bản thân Vance đã nhận ra vụ án này với sự nghiêm trọng khác thường. Bản dịch Menander của anh hoàn toàn bị gác sang một bên. Anh trở nên xấu tính và nóng nảy – dấu hiệu chắc chắn rằng tâm trí anh đang bận rộn với một vấn đề hấp dẫn. Sau bữa tối hằng đêm, anh vào thư phòng và đọc sách trong hàng giờ liền - không phải là những tác phẩm kinh điển và mỹ học mà anh thường dành thời gian cho chúng, mà là những cuốn sách như “Tâm lý học về sự điên rồ” của Bernard Hart[*], “Der Witz und seine Beziehung zum Unbewussten[*] ” của Freud[*], “Tâm lý học lệch chuẩn” và “Kiểm soát cảm xúc” của Coriat[*], “Komik und Humor[*] [*] ” của Lipps[*], “Vụ án mạng phức tạp” của Daniel A. Huebsch[*], “Les Obsessions et la Psychasthènie[*] ” của Janet[*], “Uber arithmomanie[*] ” của Donath[*], “Khát vọng thành tựu và những câu chuyện thần tiên” của Riklin[*], “Die forensische Bedeutung der Zwangsvorstellungen[*] ” của Leppman, “Uber den Witz[*] ” của Kuno Fischer[*], “Kriminalpsychologie[*] ” của Erich Wulffen[*], “Sự điên rồ của thiên tài” của Hollenden, và “Die Spiele des Menschen[*] ” của Groos[*].

Anh dành hàng giờ cho báo cáo của cảnh sát. Anh đã hai lần ghé thăm nhà Dillard, và một lần đến thăm bà Drukker cùng với Belle Dillard. Anh đã có một đêm trò chuyện dài với Drukker và Arnesson về quan niệm của de Sitter[*] về không gian vật lý như một giả mặt cầu Lobatchewskian, mục đích của anh, theo tôi phỏng đoán, là để làm quen với tâm tính của Drukker. Anh đọc sách của Drukker, “Đường vũ trụ trong thể liên tục đa chiều”; và dành gần cả ngày để nghiên cứu những phân tích của Janowski và Tarrasch về thế cờ Pardee.

Vào Chủ nhật - tám ngày sau khi Robin bị giết - anh nói với tôi:

“Trời ơi, Van! Vấn đề này quỷ quyệt không thể tin nổi. Không sự điều tra thông thường nào có thể điều tra được. Nó nằm trong một vùng lạ của bộ não; và sự trẻ con hời hợt của nó là khía cạnh khủng khiếp và trở ngại nhất. Cũng không phải là thủ phạm sẽ thực hiện một việc táo bạo đơn lẻ. Cái chết của Chim Cổ Đỏ không phải là mục đích cuối cùng. Trí tưởng tượng bệnh hoạn đã dựng lên tội ác kinh dị này là vô độ; và trừ phi chúng ta có thể vạch trần động cơ tâm lý bất thường đằng sau nó thì dám chắc rằng sẽ còn nhiều trò đùa tàn nhẫn hơn…”

Sáng hôm sau, sự tiên đoán của anh đã trở thành hiện thực. Chúng tôi đi đến văn phòng của Markham lúc 11 giờ để nghe báo cáo của Heath và thảo luận những hành động tiếp theo. Mặc dù đã chín ngày trôi qua kể từ khi Robin bị sát hại, vẫn không có sự tiến triển nào trong vụ này, và báo chí trở nên gay gắt hơn trong việc chỉ trích cảnh sát và Văn phòng Công tố quận. Vì thế, Markham chào đón chúng tôi trong buổi sáng thứ Hai đó với vẻ vô cùng chán nản. Heath chưa đến; nhưng khi anh ta đến một vài phút sau đó thì rõ ràng anh ta cũng rất nản lòng.

“Chúng ta đã đụng phải bức tường gạch, thưa anh, cho dù chúng ta quay phía nào,” anh ta phàn nàn, khi tóm lược lại hoạt động mà những người của mình đã làm. “Không có dấu hiệu nào của động cơ, và ngoài Sperling thì không có ai trong trường hợp này mà chúng ta có thể bám vào. Tôi đi đến kết luận rằng có kẻ phá rối nào đó đã thong thả ở trong phòng bắn cung vào buổi sáng đó và phá hư mọi thứ.”

“Tỉnh táo lên đi, trung sĩ à,” Vance phản đối, “anh thật thiếu trí tưởng tượng; và họ không có óc hài hước; trong khi gã đã kéo Robin trên một đoạn đường dài có cả trí tưởng tượng và óc hài hước. Hắn không chỉ có ý định giết Robin: hắn còn biến chuyện này thành một trò đùa điên loạn. Sau đó, sợ rằng công chúng không hiểu được vấn đề, hắn ta viết những lá thư giải thích cho cánh nhà báo. - Điều đó nghe giống như cách thức của một kẻ sát nhân lang thang sao?”

Heath buồn bã hút thuốc trong vài phút và không nói lời nào, và cuối cùng nhìn Markham cực kỳ thất vọng.

“Không có nghĩa lý gì khi phá hoại xung quanh khu phố này trong thời gian gần đây,” anh ta than phiền. “Mới sáng nay một anh chàng tên Sprigg bị bắn tại công viên Riverside, ngay gần đường số 84. Tiền trong túi cậu ta - không hề bị lấy. Chỉ bị bắn. Anh bạn trẻ này - là sinh viên trường Columbia. Sống với cha mẹ; không có kẻ thù nào. Ra ngoài đi dạo như thường lệ trước khi đến lớp. Được tìm thấy đã chết nửa tiếng sau bởi một người thợ hồ.” Viên trung sĩ cắn mạnh điếu xì gà. “Bây giờ chúng ta đã có một vụ giết người cần lo lắng; và chúng ta chắc chắn sẽ gặp điều chết tiệt từ báo chí nếu chúng ta không xử lý ngay. Và không chuyện gì - tuyệt đối không chuyện gì - được tiếp tục.”

“Tuy nhiên, trung sĩ à,” Vance nói một cách chắc chắn, “việc bắn một người là một sự kiện bình thường. Có rất nhiều lý do phổ biến cho loại tội ác đó. Đạo cụ sân khấu của kẻ giết Robin đã phá hủy tất cả quá trình suy luận của chúng ta. Ước gì nó không phải là chuyện trẻ con…”

Đột nhiên anh ngừng nói, và mí mắt hơi rũ xuống. Nghiêng về phía trước, anh thong thả nhai điếu thuốc.

“Trung sĩ, có phải anh nói rằng anh chàng này là Sprigg?”

Heath ủ rũ gật đâu.

“Và cho tôi hỏi,” - mặc dù Vance đã cố gắng kìm chế, vẫn có sự háo hức trong giọng nói của anh - “tên của cậu ta là gì?”

Heath nhìn Vance một cách ngạc nhiên đầy bối rối; nhưng sau một khoảng lặng anh ta đưa về phía trước cuốn sổ tay méo mó và lật nhanh các trang.

“John Sprigg,” anh ta trả lời. “John E. Sprigg.”

Vance lấy ra một điếu thuốc khác, và cẩn thận châm lửa.

“Và hãy nói cho tôi: có phải cậu ta bị bắn bằng súng lục?”

“Hả?” Mắt Heath đảo quanh, và cằm của anh ta hướng về trước. “Đúng, một khẩu súng lục…”

“Và cậu ta bị bắn vào đỉnh đầu?”

Viên trung sĩ nhảy dựng lên, và nhìn Vance chằm chằm với sự hoang mang lố bịch. Anh ta chậm rãi ngước đầu lên xuống. “Đúng vậy. - Nhưng bằng cách ma quỷ gì vậy, thưa anh?”

Vance giơ tay lên ra dấu im lặng. Tuy nhiên, nét mặt anh, còn hơn những cử chỉ của anh, đã loại bỏ các nghi vấn.

“Ôi, trời đất ơi!” Anh đứng lên sửng sốt và nhìn chằm chằm phía trước. Nếu tôi không biết rõ anh thì tôi đã nghĩ rằng anh đang sợ hãi. Sau khi đi đến cửa sổ cao đằng sau bàn của Markham, anh đứng nhìn xuống những bức tường đá xám của Tombs[*].

“Tôi không thể tin điều đó,” anh thì thầm. “Nó quá rùng rợn… Nhưng tất nhiên nó là như thế!…”

Giọng nói sốt ruột của Markham vang lên.

“Tất cả những lời lầm bầm này là về cái gì vậy, Vance? Đừng có hết sức bí ẩn như vậy! Làm sao anh biết chuyện Sprigg bị bắn xuyên qua đỉnh đầu bằng súng lục? Dù thế nào đi nữa, vấn đề ở đây là gì vậy?”

Vance quay lại và bắt gặp ánh mắt của Markham.

“Anh không thấy sao?” Anh hỏi nhỏ. “Đây là màn hai của việc đạo ý tưởng độc ác này!… Anh đã quên ‘Mẹ Ngỗng’ rồi sao?” Và với một giọng trầm ấm mang lại một cảm giác kinh hoàng không thể tả trong văn phòng tối tăm cũ kỹ đó, anh đọc lại:

“’Người đàn ông nhỏ thó,

Có một khẩu súng nhỏ,

Với đạn làm bằng chì, chì, chì;

Hắn bắn Johnny Sprig

Qua giữa bộ tóc giả,

Và trúng ngay đỉnh đầu, đầu, đầu.’”

Chú Thích:

[*] Bài đồng dao cổ không rõ tác giả, “Cái chết và việc mai táng Chim cổ Đỏ”, không phải là, như thường được biết đến, một phần trong bản gốc “Đồng dao Mẹ Ngỗng”, mạc dù nó thường được in trong những phiên bản sau này của tác phẩm nổi tiếng đó.

[*] Post-mortem (tiếng Latin): khám nghiệm tử thi.

[*] Prima facie (tiếng Latin): thoạt nhìn, nhìn qua.

[*] Habeas corpus (tiếng Latin): quyền bảo hộ nhân thân.

[*] Engelbert Humperdinck (1854 - 1921): nhà soạn nhạc người Đức, nổi tiếng với vở opera “Hänsel và Gretel”.

[*] Juvenal: nhà thơ châm biếm người La Mã. Một số tài liệu nói rằng ông sống trong giai đoạn cuối thế kỷ thứ 1 và đầu thế kỷ thứ 2.

[*] Point de depart (tiếng Pháp): điểm xuất phát.

[*] Bernard Hart (1879 - 1966): bác sĩ tâm thần người Anh.

[*] Der Witz und seine Beziehung zum Unbewussten (tiếng Đức): những trò đùa và mối quan hệ với vô thức.

[*] Sigmund Freud (1856 - 1939): bác sĩ và nhà thần kinh học người Áo. Ông được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học. Cho đến ngày nay mặc dù lý thuyết về phân tâm học của ông còn gây nhiều tranh cãi và người ta còn đang so sánh hiệu quả của các phương pháp phân tâm học của ông với các phương pháp điều trị khác, nhưng cũng phải thừa nhận rằng ông là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 20.

[*] Isador Henry Coriat (1875 - 1943): bác sĩ tâm thần và nhà thần kinh học người Mỹ.

[*] Komik und Humor (tiếng Đức): hài kịch và hài hước.

[*] Theodor Lipps (1851 -1914): nhà triết học người Đức.

[*] Daniel Adolph Huebsch (1871 - 1936): tác giả người Mỹ.

[*] Les Obsessions et la Psychasthènie (tiếng Pháp): ám ảnh và rối loạn tâm lý.

[*] Pierre Marie Felix Janet (1859 - 1947): nhà tâm lý học người Pháp.

[*] Uber arithmomanie (tiếng Đức): về sự ám ảnh.

[*] Julius Donath (1870 - 1950): bác sĩ người Áo.

[*] Franz Beda Riklin (1878 - 1938): bác sĩ tâm thần người Thụy Sĩ.

[*] Die forensische Bedeutung der Zwangsvorstellungen (tiếng Đức): tầm quan trọng của pháp y.

[*] Uber den Witz (tiếng Đức): về các trò đùa.

[*] Ernst Kuno Berthold Fischer (1824 - 1907): triết gia và nhà phê bình người Đức.

[*] Kriminalpsychologie (tiếng Đức): tâm lý học tội phạm.

[*] Wolf Hasso Erich Wulffen (1862 - 1936 ): nhà tội phạm học người Đức.

[*] Die Spiele des Menschen (tiếng Đức): các trò chơi dân gian.

[*] Kari Groos (1861 - 1946): nhà triết học và tâm lý học người Đức.

[*] Willem de Sitter (1872 - 1934): nhà toán học, vật lý học và thiên văn học người Hà Lan.

[*] Nhà từ ở thành phố New York.

[*] Tensor: đối tượng hình học miêu tả quan hệ tuyến tính giữa các đại lượng vector, vô hướng, và các tensor với nhau. Những ví dụ cơ bản về liên hệ này bao gồm tích vô hướng, tích vector, và ánh xạ tuyến tính. Đại lượng vector va vô hướng theo định nghĩa cũng là tensor, có nhiều cách biểu diễn tensor, như mảng giá trị số đa chiều. Bậc của một tensor bằng số chiều của mảng cần để biểu diễn nó, hay tương đương với số chỉ số cần để đánh dấu các thành phần của mảng, ví dụ, một ánh xạ tuyến tính biểu diễn dưới dạng ma trận 2 chiều, mảng 2 chiều, do đó nó là tensor bậc 2. Vector có thể coi là mảng 1 chiều và là tensor bậc 1. Đại lượng vô hướng là các giá trị số và là tensor bậc 0.