← Quay lại trang sách

Chương 9 CÔNG THỨC TENSOR[*]-

(Thứ Hai, 11 tháng Tư; 11.30 a.m.)

Markham ngồi nhìn Vance giống như bị thôi miên. Heath đứng như trời trồng, miệng hé mở, điếu xì gà cách môi vài inch. Thái độ của viên trung sĩ trông khá hài hước, và tôi như muốn bật cười; nhưng lúc này máu huyết của tôi dường như đông lại, và tất cả cơ bắp trên người không thể hoạt động.

Markham là người đầu tiên lên tiếng. Ngửa đầu ra sau, anh ta đập mạnh tay xuống bàn.

“Trò điên rồ mới của anh là gì đây?” Anh ta đang tuyệt vọng chiến đấu chống lại lời gợi ý điếng người của Vance. “Tôi bắt đầu nghĩ vụ Robin đã ảnh hưởng đến đầu óc của anh rồi. Chẳng lẽ một người có cái tên phổ biến như Sprigg không thể bị bắn mà không bị anh cố biến thành trò lừa phỉnh lố bịch hay sao?”

“Tuy nhiên, anh vẫn phải công nhận, ông bạn già Markham ạ,” Vance ôn hòa đáp lại, “anh chàng Sprigg đặc biệt này đã bị bắn bằng ‘một khẩu súng nhỏ’, xuyên qua ‘giữa bộ tóc giả’, phải nói như thế.”

“Nếu vậy thì sao?” Một mảng xám xịt đã len lỏi trên gương mặt của Markham. “Đó có phải là lý do để anh lảm nhảm về bài đồng dao Mẹ Ngỗng?”

“Ồ, là tôi nói ra! Chứ tôi không hề lảm nhảm, anh biết đấy.”

Vance ngồi xuống chiếc ghế đối diện với bàn làm việc của vị công tố viên. “Có thể tôi không phải là một diễn giả thú vị; nhưng ngay lúc này thì tôi không lảm nhảm.” Anh cười lấy lòng Heath. “Đúng không, trung sĩ?”

Nhưng Heath không biểu lộ gì. Anh ta vẫn giữ vẻ kinh ngạc của mình, dù đôi mắt anh ta giờ chỉ như khe hở trên gương mặt to lớn, nóng nảy.

“Anh đang nghiêm túc cho rằng…?” Markham bắt đầu nói; nhưng Vance ngắt lời anh ta.

“Phải! Tôi đang nghiêm túc cho rằng kẻ đã giết Chim Cổ Đỏ bằng mũi tên đã trút sự hài hước tàn nhẫn của hắn lên anh chàng Sprigg xui xẻo. Không thể là trùng hợp ngẫu nhiên. Sự lặp lại tương tự như vậy sẽ ném toàn bộ căn cứ ra khỏi tất cả sự sáng suốt và lý lẽ. Ôi, cái thế giới này điên quá rồi; nhưng sự điên rồ như thế sẽ làm tiêu tan tất cả những suy nghĩ khoa học và hợp lý. Cái chết của Sprigg quá ghê gớm, nhưng ta phải đối mặt với nó. Và dù anh có ép buộc mình phản đối lại những ẩn ý không thể tin được của nó thì cuối cùng anh vẫn phải chấp nhận chúng.”

Markham đứng dậy và lo lắng đi qua đi lại.

“Tôi thừa nhận có những yếu tố không giải thích được trong tội ác mới này.” Tính hiếu chiến của anh ta đã biến mất, và giọng nói trở nên ôn hòa. “Nhưng nếu chúng ta giả định, thậm chí không quả quyết, rằng một kẻ điên nào đó đang dựng lại bài đồng dao từ thời bé của hắn, tôi vẫn không thấy được điều đó sẽ giúp chúng ta như thế nào. Nó hầu như sẽ đóng tất cả các hướng điều tra thông thường.”

“Tôi không nói thế, anh biết đấy.” Vance trầm ngâm hút thuốc. “Tôi lại nghĩ rằng một giả định như vậy sẽ cung cấp cho chúng ta một sơ sở rõ ràng để điều tra.”

“Phải rồi!” Heath ngắt lời với sự châm biếm nặng nề. “Tất cả những gì chúng ta phải làm là đi ra ngoài tìm một con bọ trong sáu triệu người. Một điều chắc chắn thật!”

“Đừng để cơn nản chí chiến thắng anh, trung sĩ. Kẻ bày trò khó nắm bắt của chúng ta là một mẫu côn trùng khá đặc biệt. Vả lại, chúng ta có manh mối chắc chắn về nơi sống chính xác của hắn…”

Markham quay người lại. “Ý của anh là sao?”

“Chỉ là tội ác thứ hai này liên quan đến vụ thứ nhất không chỉ về tâm lý mà còn về địa lý. Cả hai vụ giết người được thực hiện cách nhau trong vòng vài dãy nhà, - con quỷ phá hoại của chúng ta ít nhất có một nhược điểm đó là vùng lân cận nơi nhà Dillard tọa lạc. Hơn nữa, chính những yếu tố của hai án mạng loại trừ khả năng hắn đến từ một nơi xa để thực hiện sự hài hước dị dạng của hắn trong môi trường xa lạ. Như tôi đã sáng suốt chỉ ra cho mọi người thấy, Robin đã bị đưa về thế giới bên kia bởi một người nào đó biết tất cả tình trạng hiện tại ở nhà Dillard vào chính xác thời điểm vở kịch rùng rợn đó được trình diễn; và chắc chắn hiển nhiên rằng tội ác thứ hai này cũng không thể được dựng lên gọn gàng như vậy nếu ông bầu của vở kịch không quen thuộc với ý định đi lại của Sprigg vào sáng nay. Thật vậy, toàn bộ cách thức của những vở kịch kỳ quái này chứng tỏ kẻ chủ mưu phải hiểu biết tường tận tất cả các tình huống xung quanh những nạn nhân của hắn.”

Heath phá tan bầu không khí im lặng nặng nề sau đó.

“Anh Vance, nếu anh nói đúng, vậy thì điều đó loại Sperling ra.” Viên trung sĩ dè dặt thú nhận một cách miễn cưỡng; nó cho thấy rằng lập luận của Vance không phải là không có ảnh hưởng đến anh ta. Anh ta tuyệt vọng quay sang vị công tố viên. “Anh nghĩ tốt hơn chúng ta nên làm gì, thưa anh?”

Markham vẫn đang đấu tranh chống lại việc chấp nhận giả thuyết của Vance, và anh ta không trả lời. Hiện giờ, anh ta ngồi ở bàn làm việc của mình và ngón tay gõ nhịp lên giấy thấm mực. Sau đó, anh ta hỏi mà không nhìn lên:

“Ai phụ trách vụ án Sprigg vậy, trung sĩ?”

“Đại úy Pitts. Lúc ban đầu, cảnh sát địa phương ở đồn cảnh sát trên đường số 68 phụ trách nó; nhưng khi tin tức chuyển đến Cục, Pitts và một vài người của chúng tôi ra đó để điều tra. Pitts mới về ngay trước khi tôi sang đây. Nói rằng vụ này bế tắc. Nhưng thanh tra Moran[*] bảo anh ta tiếp tục phụ trách.”

Markham nhấn nút bên dưới mép bàn làm việc của mình, và Swacker, trợ lý trẻ tuổi của anh ta, xuất hiện ở cánh cửa mở dẫn đến phòng văn thư nằm giữa phòng riêng của vị công tố viên và phòng chờ.

“Nối điện thoại với thanh tra Moran cho tôi,” anh ta ra lệnh.

Khi kết nối đã được thực hiện, anh ta kéo điện thoại về phía mình và nói chuyện trong vài phút.

Sau khi đặt ống nghe xuống, anh ta nở một nụ cười mệt mỏi với Heath.

“Giờ anh chính thức phụ trách vụ án Sprigg, trung sĩ à. Đại úy Pitts sẽ đích thân sang đây, và lúc đó chúng ta sẽ biết được mình đang ở đâu.” Anh ta bắt đầu xem xét đống giấy tờ trước mặt. “Tôi đã bị thuyết phục,” anh ta miễn cưỡng nói thêm, “rằng Sprigg và Robin bị giết bởi cùng một người.”

Pitts, một người đàn ông thấp, vạm vỡ với khuôn mặt gầy, cứng rắn và bộ ria mép màu đen, đến sau mười phút. Ông ta, sau này tôi được biết, là một trong những người giỏi nhất của Ban Điều tra. Công việc chính của ông ta là xử lý những việc liên quan đến các băng nhóm tội phạm. Ông ta bắt tay Markham và nhìn Heath một cách thân mật. Khi được giới thiệu với Vance và tôi, ông ta hướng ánh mắt nghi ngờ vào chúng tôi và miễn cưỡng cúi chào. Nhưng lúc ông ta chuẩn bị quay đi, biểu cảm của ông ta đột nhiên thay đổi.

“Anh Philo Vance phải không?” Ông ta hỏi.

“Ồ! Đúng rồi, đại úy,” Vance thở dài.

Pitts toét miệng cười, bước lên phía trước và chìa bàn tay ra.

“Rất vui được gặp anh. Thường nghe trung sĩ kể về anh.”

“Anh Vance đang giúp đỡ chúng tôi một cách không chính thức trong vụ án Robin, đại úy à,” Markham giải thích; “và vì anh chàng Sprigg này đã bị giết trong cùng khu phố, nên chúng tôi muốn nghe bản báo cáo sơ bộ của ông về vụ việc.” Anh ta lấy một hộp Corona Perfectos[*], và đẩy nó qua chiếc bàn.

“Anh không cần phải đưa ra lời yêu cầu như vậy đâu, thưa anh.” Viên đại úy mỉm cười và chọn một điếu xì gà, đưa nó lên mũi với sự hài lòng đầy thích thú. “Viên thanh tra đã nói cho tôi biết anh có vài ý tưởng về vụ án mới này, và muốn đảm nhiệm nó. Nói thật với anh, tôi rất mừng tống khứ được nó đi.” Ông ta ung dung ngồi xuống và châm lửa điếu xì gà. “Anh muốn biết gì, thưa anh?”

“Kể cho chúng tôi toàn bộ câu chuyện đi,” Markham nói.

Pitts ngồi xuống một cách thoải mái.

“À, tôi tình cờ có mặt khi vụ án được trình báo - sau 8 giờ sáng nay một chút - và tôi mang vài anh em đến đó. Cảnh sát địa phương đang làm việc, và một trợ lý giám định pháp y đến cùng lúc với tôi…”

“Ông có nghe qua bản báo cáo chưa, đại úy?” Vance hỏi.

“Rồi. Sprigg bị bắn xuyên qua đỉnh đầu bằng một khẩu súng lục. Không có dấu hiệu giằng co - không có vết bầm hay gì khác. Không có gì đặc biệt. Chỉ là vụ giết người bằng súng.”

“Có phải cậu ta nằm ngửa khi được tìm thấy không?”

“Đúng vậy. Nằm duỗi người ra rất đẹp đẽ, ngay giữa đường đi.”

“Và không phải hộp sọ của cậu ta bị nứt lúc ngã xuống lòng đường chứ?” Câu hỏi được đặt ra một cách lơ đãng.

Pitts rút điếu xì gà ra khỏi miệng và nhìn Vance bằng ánh mắt ranh mãnh.

“Tôi đoán có lẽ mấy người các anh đây đã biết được gì đó về vụ này.” Ông ta lanh lợi gật đầu. “Đúng, phía sau xương sọ của anh chàng bị va đập mạnh. Cậu ta chắc đã ngã rất nặng. Nhưng tôi đoán cậu ta không cảm nhận được – nhất là khi với viên đạn đó nằm trong óc…”

“Nhân tiện nói về phát đạn, đại úy à, không có điều gì về nó khiến ông thấy lạ sao?”

“À… có,” Pitts công nhận, lăn điếu xì gà giữa ngón cái và ngón trỏ một cách trầm ngâm. “Đỉnh đầu của một người không phải là nơi tôi thường tìm lỗ đạn. Và cái nón của cậu ta vẫn còn nguyên, - nhất định đã bị rơi trước khi cậu ta bị bắn chết. Anh có thể gọi những sự kiện đó là kỳ lạ, anh Vance.”

“Đúng vậy, đại úy, chúng thật kỳ lạ… Và tôi đoán là khẩu súng được đặt từ cự ly gần.”

“Không xa hơn vài inch. Phần tóc quanh lỗ đạn bị cháy sém.” Ông ta làm một cử chỉ thờ ơ như không có gì hệ trọng. “Dù là vậy, anh chàng có thể đã thấy tên kia rút súng ra, và né về phía trước, làm rơi cái nón. Vậy mới lý giải cho việc cậu ta bị bắn vào đỉnh đầu ở cự ly gần.”

“Cũng đúng. Có điều, trong trường hợp đó, cậu ta sẽ không ngã ra đằng sau, mà ngã đập mặt về phía trước… Nhưng tiếp tục câu chuyện đi, đại úy.”

Pitts nhìn Vance với vẻ tán thành ranh mãnh, và tiếp tục.

“Điều đầu tiên tôi làm là kiểm tra túi của anh chàng. Cậu ta có một chiếc đồng hồ vàng trên người và khoảng mười lăm đô la tiền giấy và đồng xu. Nên nó không giống một vụ cướp của - trừ phi kẻ bắn cậu ta hoảng sợ và chạy trốn mất. Nhưng điều đó có vẻ không thích hợp, bởi vì không có người đi tuần tra ở khu vực đó của công viên vào sáng sớm; và lối đi bộ ở đó thấp xuống bên dưới một dốc đá, nên quang cảnh ở đó bị che khuất. Gã này nhất định đã chọn một nơi lý tưởng để ra tay… Dù thế nào, tôi đã để vài người trông chừng cái xác cho đến khi xe tới mang đi, và đến nhà của Sprigg ở đường số 93, - tôi biết được tên và địa chỉ của cậu ta từ một vài lá thư nằm trong túi cậu ta. Tôi còn biết được cậu ta là sinh viên trường đại học Columbia, sống cùng cha mẹ, và có thói quen đi tản bộ trong công viên sau bữa sáng. Cậu ta rời nhà vào khoảng 7 giờ rưỡi sáng nay…”

“À! Thói quen của cậu ta là đi dạo trong công viên mỗi buổi sáng,” Vance lẩm bẩm. “Thú vị thật.”

“Dù là vậy, điều đó không đưa chúng ta đến đâu cả,” Pitts đáp lại. “Rất nhiều anh chàng đi dạo vào sáng sớm. Và không có điều gì bất thường về Sprigg vào sáng nay. Người nhà cậu ta nói với tôi rằng cậu ta không lo lắng về chuyện gì cả; và khá vui vẻ khi tạm biệt họ. - Sau đó tôi chạy đến trường đại học và hỏi han xung quanh; nói chuyện với một số sinh viên quen biết cậu ta, và với cả một giáo viên nữa. Sprigg là một anh chàng trầm lặng. Không nhiều bạn bè và thu mình lại với thế giới. Con người nghiêm túc - lúc nào cũng chăm chỉ nghiên cứu. Đứng hạng cao trong các môn học, và chưa bao giờ bị bắt gặp hẹn hò với bạn gái. Thật ra là không quan tâm nhiều đến phụ nữ. Không phải loại người thích xã giao. Từ tất cả báo cáo, cậu ta là loại người chẳng bao giờ dính líu đến bất kỳ loại rắc rối nào. Vậy nên tôi thấy có điều đặc biệt trong việc cậu ta bị bắn. Nhất định là một vụ tai nạn hay đại loại như thế. Có thể đã bị nhầm với một người nào khác.”

“Và cậu ta được tìm thấy vào lúc mấy giờ?”

“Vào khoảng 8 giờ kém 15. Một thợ hồ trên bến tàu mới ở đường số 79 đang băng qua bờ kè hướng về phía đường ray xe lửa thì nhìn thấy cậu ta. Anh ta báo cho một trong những cảnh sát đứng chốt ở đường Drive, và người đó gọi điện thoại đến đồn cảnh sát địa phương.”

“Và Sprigg ra khỏi nhà trên đường số 93 vào lúc 7 giờ rưỡi.” Vance trầm ngâm nhìn lên trần nhà. “Cho nên cậu ta có đủ thời gian để đi đến địa điểm này trong công viên trước khi bị giết, cỏ vẻ như ai đó biết được thói quen của cậu ta đã đợi sẵn. Gọn gàng và mau lẹ, phải không?… Không có vẻ gì là ngẫu nhiên, đúng không Markham?”

Bỏ ngoài tai lời chế giễu, Markham nói với Pitts.

“Không tìm được thứ gì như là đầu mối hữu ích sao?”

“Không, thưa anh. Người của tôi đã kiểm tra hiện trường rất kỹ lưỡng, nhưng không tìm được gì cả.”

“Còn trong túi của Sprigg - ngoài giấy tờ của cậu ta ra…?”

“Không có gì hết. Tôi đang giữ tất cả đồ đạc ở Cục - một vài lá thư bình thường, một vài món đồ linh tinh bình thường khác…” Ông ta dừng lại như chợt nhớ ra điều gì, và lấy ra một quyển sổ bị quăn góc. “Có một vật này,” ông ta nói một cách thờ ơ, đưa một mảnh giấy bị xé hình tam giác cho Markham. “Nó được tìm thấy bên dưới cái xác của cậu ta. Nó không có ý nghĩa gì cả, nhưng tôi nhét nó vào trong túi của mình - bệnh nghề nghiệp ấy mà.”

Mảnh giấy không dài hơn 4 inch[*], và có vẻ đã bị xé ra từ góc của một tờ giấy thông thường không kẻ hàng. Nó chứa đựng một phần công thức toán học được đánh máy, với ký hiệu lambda[*], dấu bằng và ký hiệu vô cực được ghi bằng bút chì. Tôi chép lại mảnh giấy ở đây, bởi vì, mặc dù có vẻ không dính dáng, nó đóng một vai trò độc ác và đầy kinh ngạc trong việc điều tra cái chết của Sprigg.

Vance chỉ liếc qua tang vật một cách sơ sài, nhưng Markham cầm nó trong tay và nhíu mày nhìn nó trong một lúc lâu. Anh ta vừa định nói vài lời nhận xét thì bắt gặp ánh mắt của Vance; và, thay vào đó, anh ta ném mảnh giấy xuống bàn một cách hời hợt với cái nhún vai nhẹ.

“Đây là tất cả những gì ông tìm thấy ư?”

“Đó là tất cả, thưa anh?”

Markham đứng dậy.

“Chúng tôi cảm ơn ông, đại úy à. Tôi không biết chúng tôi sẽ tìm ra gì từ vụ án của Sprigg, nhưng chúng tôi sẽ điều tra.” Anh ta chỉ vào cái hộp Perfectos. “Hãy bỏ túi vài điếu trước khi ông đi.”

“Cảm ơn anh nhiều.” Pitts chọn những điếu xì gà và nhẹ nhàng đặt vào trong túi áo gile của mình, bắt tay với tất cả chúng tôi.

Khi ông ta đi khỏi, Vance nhanh chóng đứng dậy và cúi người nhìn mảnh giấy nằm trên bàn của Markham.

“Trời ơi!” Anh lấy chiếc kính một mắt ra và xem xét những ký hiệu một lúc lâu. “Thật lôi cuốn. Gần đây tôi đã thấy công thức đó ở đâu rồi nhỉ?… A! Tensor Riemann[*] -Christoffel[*], đúng rồi! Drukker sử dụng nó trong quyển sách của anh ta để xác định độ cong Gauss[*] của hình cầu và không gian phẳng… Nhưng Sprigg làm gì với thứ này vậy? Công thức này trên cả chương trình đại học…” Anh cầm mảnh giấy đưa lên ánh sáng. “Cùng một loại giấy với bức thông điệp Giám Mục. Và mọi người có thể quan sát thấy kiểu chữ đánh máy cũng tương tự nhau.”

Heath bước về phía trước và săm soi mảnh giấy.

“Đúng là giống nhau.” Sự thật có vẻ khiến anh ta bối rối. “Dù gì đi nữa đó cũng là mắt xích liên kết hai tội ác.

Đôi mắt của Vance chuyển sang vẻ bối rối.

“Một mắt xích - phải. Nhưng sự hiện diện của công thức bên dưới thi thể của Spriggs có vẻ phi lý như chính án mạng này…”

Markham đi lại một cách lo lắng.

“Anh nói đây là công thức Drukker sử dụng trong quyển sách của anh ta phải không?”

“Phải. Nhưng sự thật không nhất thiết liên quan đến anh ta. Tất cả các nhà toán học cấp cao đều biết đến tensor này. Nó là một trong những biểu thức kỹ thuật được dùng trong hình học phi Euclid[*] ; và dù nó được Riemann khám phá ra trong mối tương quan với một vấn đề cụ thể trong vật lý[*], hiện giờ nó đã trở nên phổ biến trong toán học về thuyết tương đối. Nó cực kỳ khoa học theo hướng trừu tượng, và có thể không có sự liên quan trực tiếp đến vụ án Sprigg.” Anh lại ngồi xuống. “Arnesson sẽ vui mừng với manh mối này. Anh ta có thể suy ra kết luận kinh ngạc nào đó từ nó.”

Hình học phi Euclid là bộ môn hình học dựa trên cơ sở phủ nhận ít nhất một trong số những tiên đề Euclid. Hình học phi Euclid là cơ sở toán học cho lý thuyết tương đối của Albert Einstein, thông qua việc đề cập đến độ cong hình học của không gian nhiều chiều.

“Tôi thấy không có lý do nào,” Markham phản đối, “để thông báo cho Arnesson vụ án mới này. Tôi muốn giữ để càng ít người biết càng tốt.”

“Giám Mục sẽ không để anh làm thế đâu, tôi e là vậy,” Vance đáp lại.

Markham nghiến chặt hàm.

“Trời ơi là trời!” Anh ta la ầm lên. “Cái quái quỷ gì là thứ mà chúng ta đang đương đầu vậy? Tôi mong chờ từng phút sẽ thức dậy và phát hiện ra mình đang sống trong một cơn ác mộng.”

“Không may mắn như vậy đâu, thưa anh,” Heath làu bàu. Anh ta hít một hơi quả quyết như một người chuẩn bị chiến đấu. “Có thể là gì chứ? Chúng ta sẽ đi đến đâu? Tôi cần phải hành động.”

Markham gọi Vance.

“Có vẻ anh có ý tưởng nào đó về chuyện này. Ý kiến của anh là gì? Tôi thẳng thắn công nhận rằng tôi đang vùng vẫy trong một đống hỗn loạn đen tối.”

Vance kéo một hơi thuốc dài. Tiếp đó anh nghiêng về phía trước như để nhấn mạnh lời nói của mình.

“Ông bạn Markham à, chỉ có duy nhất một kết luận được rút ra. Hai vụ giết người này được cùng một bộ não sắp đặt: cả hai đều nhảy ra từ cùng một động lực thúc đẩy kỳ quái; và do vụ đầu tiên được gây ra bởi ai đó quen thuộc tường tận với những hoàn cảnh bên trong nhà Dillard, tiếp theo đó chúng ta bây giờ phải tìm kiếm một người, ngoài hiểu biết đó, còn biết được thông tin chính xác rằng một người tên John Sprigg có thói quen đi dạo mỗi buổi sáng ở một khu vực nhất định trong công viên Riverside. Tìm thấy một người như vậy, chúng ta phải kiểm tra thời gian, địa điểm, cơ hội và động cơ gây án khả thi. Có mối tương quan nào đó giữa Sprigg và nhà Dillard. Là gì thì tôi không biết. Nhưng hành động đầu tiên của chúng ta nên là tìm kiếm. Còn khởi điểm nào tốt hơn chính nhà Dillard chứ?”

“Chúng ta sẽ ăn trưa trước,” Markham uể oải nói. “Rồi chúng ta sẽ chạy ra đó.”

Chú Thích:

[*] Thanh tra William M. Moran, đã chết cách đây hai năm, vào lúc điều tra vụ án mạng Giám Mục ông là sĩ quan chỉ huy của Cục Điều tra.

[*] Xì gà loại ở giữa to, hai đầu nhỏ.

[*] 10 cm.

[*] Lambda (chữ hoa Λ, chữ thường λ): chữ cái thứ 11 của bảng chữ cái Hy Lạp.

[*] Georg Friedrich Bernhard Riemann (1826 - 1866): nhà toán học người Đức. Ông là người đã có nhiều đóng góp quan trọng trong giải tích và hình học vi phân, xây dựng nền tảng cho việc phát triển lý thuyết tương đối sau này. Năm 1859, ông đã nêu lên giả thuyết Riemann, về sự phân bố các số nguyên tố, vẫn chưa có lời giải sau hơn 150 năm tồn tại.

[*] Elwin Bruno Christoffel (1829 - 1900): nhà toán học và vật lý người Đức. Ông giới thiệu các khái niệm cơ bản của hình học vi phân, mở đường cho sự phát triển phép tính tensor.

[*] Carl Friedrich Gauss (1777 - 1855): nhà toán học và nhà khoa học người Đức. Ông đã có nhiều đóng góp lớn cho các lĩnh vực khoa học như lý thuyết số, giải tích, hình học vi phân, thiên văn học và quang học… Độ cong Gauss là một khái niệm được sử dụng trong hình học vi phân.

[*] Euclid (khoảng 325-265 TCN): nhà toán học người Hy Lạp. Ông được mệnh danh là “cha đẻ của hình học”. Hầu hết kiến thức hình học ở cấp trung học cơ sở hiện nay đều đã được đề cập một cách có hệ thống, chính xác trong bộ sách “Cơ sở” gồm 13 cuốn do Euclid viết ra; trong tác phẩm này ông trình bày các khái niệm, các tiên đề, các định lý và chứng minh của chúng.

[*] Biểu thức này thật ra được Christoffel phát triển cho một vấn đề về sự dẫn nhiệt, và được ông xuất bản vào năm 1869 trong “Crelle Journal fur reine und angewandte Mathematik” (tạp chí Crelle về toán học thuần túy và toán học ứng dụng).

[*] Peer Gynt: tác phẩm kịch thơ được Henrik Ibsen viết ở Ý và được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1867 ở Đan Mạch, vở kịch “Peer Gynt” lần đầu tiên được trình diễn vào năm 1876 tại Na Uy, với phần nhạc do Edvard Grieg sáng tác bao gồm một số tác phẩm âm nhạc cổ điển được biết đến nhiều nhất hiện nay.