Chương 10 LỜI NHỜ VẢ BỊ TỪ CHỐI-(Thứ Hai, 11 tháng Tư; 2p.m.)
Sau 2 giờ chiều một chút, chúng tôi tới nhà Dillard. Pyne đã trả lời tiếng bấm chuông của chúng tôi; và nếu cuộc viếng thăm của chúng tôi đã gây ra bất kỳ sự ngạc nhiên nào thì ông ta đã thành công một cách đáng khâm phục trong việc che giấu cảm xúc. Tuy nhiên, trong cách ông ta nhìn Heath, tôi nhận ra sự bực bội nhất định; nhưng khi ông ta nói, giọng vẫn mềm mỏng, nhẹ nhàng của một quản gia chuyên nghiệp.
“Anh Arnesson vẫn chưa trở về từ trường đại học,” ông ta nói với chúng tôi.
“Đọc ý nghĩ của người khác, theo tôi thấy,” Vance nói, “không phải là sở trường của ông, Pyne à. Chúng tôi ghé để gặp ông và giáo sư Dillard.”
Người đàn ông có vẻ không thoải mái; nhưng trước khi ông ta trả lời thì cô Dillard đã xuất hiện ở cổng vòm của phòng khách.
“Tôi nghĩ mình nhận ra giọng nói của anh, anh Vance.” Cô ấy chào đón chúng tôi bằng một nụ cười buồn bã. “Xin mời vào… Quý bà Mae đã ghé qua đây được một vài phút, - chúng tôi tính cùng nhau đạp xe vào chiều nay,” cô ấy giải thích, khi chúng tôi bước vào phòng.
Bà Drukker đứng cạnh cái bàn trà, bàn tay gầy guộc đặt trên lưng chiếc ghế mà bà mới đứng lên. Đôi mắt đầy sợ hãi nhìn chúng tôi chằm chằm; và nét mặt gầy gò của bà ấy dường như trở nên méo mó. Bà ấy không có ý muốn nói chuyện, mà đứng chôn chân như thể đang chờ đợi lời tuyên bố đáng sợ nào đó, giống như một tù nhân bị kết án phải nhận lời phán quyết khi đứng trước vành móng ngựa.
Giọng nói trìu mến của Belle Dillard làm giảm sự căng thẳng của tình huống này.
“Tôi sẽ đi nói với bác là các anh đang ở đây.”
Cô ấy vừa rời khỏi phòng không bao lâu thì bà Drukker cúi xuống bàn và nói với Markham bằng lời thì thầm tang tóc đầy đáng sợ: “Tôi biết tại sao các người đến đây! Chính là vì chàng trai trẻ dễ mến bị bắn ở công viên sáng nay.”
Những điều bà ấy nói quá đỗi kinh ngạc và bất ngờ đến nỗi Markham không thể trả lời ngay lập tức; do vậy Vance là người lên tiếng.
“Vậy bà đã nghe về thảm kịch ấy à, bà Drukker? Làm sao bà biết chuyện này sớm thế?”
Cái nhìn khôn ngoan biểu hiện trên nét mặt của người phụ nữ này, làm vẻ mặt của bà ấy giống như một mụ phù thủy già độc ác vậy.
“Mọi người trong khu vực này đều đang bàn tán về nó,” bà ấy trả lời một cách lảng tránh.
“Thế à? Đó là điều rất đáng tiếc. Nhưng sao bà lại cho rằng chúng tôi tới đây để điều tra về nó?”
“Không phải tên chàng trai trẻ ấy là Johnny Sprig sao?” một nụ cười nhạt nhẽo, khủng khiếp đi kèm với câu hỏi.
“Đúng là thế. John E. Sprigg. Tuy nhiên, vẫn không giải thích được mối liên hệ của cậu ta với nhà Dillard.”
“À, là như vậy!” Bà ta gật gù với sự hài lòng kinh tởm. “Đó là một trò chơi - một trò chơi trẻ con. Đầu tiên là Chim Cổ Đỏ… rồi tới Johnny Sprig. Trẻ con thì phải được chơi đùa - tất cả những đứa trẻ khỏe mạnh đều muốn được chơi đùa.” Tâm trạng của bà ấy đột ngột thay đổi. Sự dịu dàng lan tỏa trên gương mặt, và đôi mắt bà ấy đượm buồn.
“Đó là một trò chơi khá hiểm ác, bà không nghĩ thế sao, bà Drukker?”
“Sao lại không? Không phải chính cuộc sống cũng hiểm ác sao?”
“Đối với vài người trong chúng ta - đúng thế.” Sự đồng cảm lạ kỳ trong giọng nói của Vance khi anh nhìn chăm chú vào con người bi thương kỳ lạ trước mặt chúng tôi. “Hãy nói với tôi,” anh nhanh chóng tiếp tục, với sự thay đổi trong giọng điệu; “bà có biết Giám Mục là ai không?”
“Giám Mục ư?” Bà ấy bối rối cau mày. “Không, tôi không biết hắn. Có phải đó là một trò chơi trẻ con khác không?”
“Đại loại là thế, tôi nghĩ vậy. Ở mức độ nào đó, Giám Mục khá hứng thú về Chim Cổ Đỏ và Johnny Sprig. Thật ra, hắn có thể là người đã tạo ra những trò chơi quái dị này. Và chúng tôi đang tìm hắn, bà Drukker à. Chúng tôi hy vọng được biết sự thật về hắn.”
Người phụ nữ lắc đầu một cách lơ đãng. “Tôi không biết hắn.” Sau đó, bà ấy trừng mắt đầy thù hận về Markham. “Nhưng nó sẽ không có ích gì cho anh trong việc cố gắng tìm ra kẻ đã giết Chim Cổ Đỏ và bắn Johnny Sprig xuyên qua giữa bộ tóc giả của cậu ta. Anh sẽ không bao giờ biết - không bao giờ - không bao giờ…” Giọng của bà ấy cao lên một cách xúc động, và cơn run rẩy xâm chiếm bà ấy.
Lúc này Belle Dillard đã trở lại phòng, và nhanh chóng đặt tay mình lên người bà ấy.
“Đi thôi,” cô ấy dịu dàng nói; “chúng ta sẽ có một chuyến đi dài về đồng quê, quý bà Mae ạ.” Cô ấy quay qua Markham đây trách móc, và lạnh lùng nói: “Bác tôi muốn anh đến thư viện.” Rồi cô dẫn bà Drukker rời khỏi phòng đi xuống sảnh.
“Điều này thật kỳ lạ, thưa anh,” Heath nhận xét sau khi đã đứng nhìn với sự sửng sốt đến ngơ ngác. “Bà ấy biết được mọi chuyện về Johnny Sprig!”
Vance gật đầu.
“Và sự xuất hiện của chúng ta ở đây làm bà ấy sợ hãi. Tuy nhiên, tâm trí của bà ấy thì bệnh hoạn và nhạy cảm, trung sĩ à; và việc bà ấy cứ lặp lại về sự dị dạng của con trai mình và những ngày thơ ấu khi anh ta cũng như những đứa trẻ khác, có khả năng là bà ấy chỉ tình cờ tìm ra ý nghĩa trong Mẹ Ngỗng về cái chết của Robin và Sprigg… Tôi thật ngạc nhiên.” Anh nhìn về phía Markham. “Có nhiều bí ẩn quái dị trong vụ này - nhiều ẩn ý bất thường và kinh tởm. Giống như bị lạc vào hang động ma quái trong tác phẩm ‘Peer Gynt’[*] của Ibsen[*] vậy, nơi chỉ có những sự kỳ dị và quái vật tồn tại ở đó.” Anh nhún vai, dù tôi biết rằng anh không thể thoát khỏi tấm màn ghê rợn do lời nói của bà Drukker đang bao trùm lên chúng tôi. “Có lẽ chúng ta có thể tìm được một ít tin cậy ở giáo sư Dillard.”
Vị giáo sư tiếp chúng tôi không nhiệt tình và kém thân thiện. Bàn của ông đầy giấy tờ, và rõ ràng là chúng tôi đã quấy rầy trong khi ông ấy đang làm việc.
“Tại sao lại có chuyến viếng thăm bất ngờ này, Markham?” Ông ấy hỏi, sau khi chúng tôi tự ngồi xuống ghế. “Anh có điều gì cần thông báo về cái chết của Robin à?” Ông ấy đánh dấu một trang trong cuốn “Không gian, thời gian và vật chất” của Weyl[*] và miễn cưỡng để sang một bên, nhìn chúng tôi với sự khó chịu. “Tôi đang rất bận về vấn đề cơ học của Mach[*]…”
“Thành thật xin lỗi,” Markham nói, “tôi không có thêm thông tin gì trong vụ Robin cả. Nhưng hôm nay có một án mạng khác ở nơi gần đây, và chúng tôi có lý do tin rằng nó có mối liên quan với cái chết của Robin. Tôi đặc biệt muốn hỏi ông, thưa giáo sư, phải chăng cái tên John E. Sprigg quen thuộc với ông?”
Biểu hiện khó chịu của giáo sư Dillard thay đổi nhanh chóng.
“Có phải đó là tên người bị giết?” Không còn sự thiếu quan tâm trong thái độ của ông ấy nữa.
“Đúng thế. Một anh chàng tên là John E. Sprigg bị bắn ở công viên Riverside, gần đường số 84, không lâu sau 7 giờ rưỡi sáng nay.”
Đôi mắt của vị giáo sư nhìn vu vơ về phía lò sưởi, ông ấy im lặng một lúc lâu. Dường như trong thâm tâm ông ấy đang cân nhắc một vài vấn đề làm ông bối rối.
“Đúng vậy,” cuối cùng ông ấy nói, “Tôi - chúng tôi - có biết về chàng trai mang cái tên đó - mặc dù tôi không chắc là cùng một người.”
“Cậu ta là ai vậy?” Giọng Markham nài nỉ tha thiết.
Một lần nữa vị giáo sư lại do dự.
“Chàng trai mà tôi biết là sinh viên toán ngoại hạng - cách người ta gọi sinh viên có điểm cao nhất kỳ thi toán ở đại học Cambridge - của Arnesson.”
“Làm thế nào mà ông biết cậu ta, thưa ông?”
“Arnesson mời cậu ta đến nhà này nhiều lần. Muốn tôi gặp và nói chuyện với cậu ta. Arnesson khá tự hào về thằng bé; và tôi phải thừa nhận cậu ta là một nhân tài khác thường.”
“Vậy tất cả các thành viên trong gia đình đều biết cậu ta?”
“Đúng vậy. Belle đã gặp cậu ta, tôi nghĩ thế. Và nếu từ ‘gia đình’ của anh bao gồm cả Pyne và Beedle, tôi muốn nói là cái tên này có lẽ cũng quen thuộc với họ nữa.”
Vance hỏi câu tiếp theo.
“Gia đình Drukker có biết Sprigg không, thưa giáo sư Dillard?”
“Có thể lắm chứ. Arnesson và Drukker gặp nhau rất nhiều… Nghĩ đến điều đó, tôi cho rằng có một tối Drukker đã ở đây khi Sprigg ghé qua.”
“Và Pardee: ông ta cũng biết Sprigg chứ?”
“Điều đó thì tôi không thể nói được.” Giáo sư sốt ruột gõ nhẹ vào thành ghế, và quay sang Markham. “Xem nào” - giọng của ông ấy trở nên nóng nảy, lo lắng - “vấn đề của những câu hỏi này là gì? Những gì chúng tôi biết về một sinh viên tên Sprigg thì có liên quan gì đến việc sáng nay sao? Chắc anh không định nói với tôi rằng người bị giết là học trò của Arnesson.”
“Tôi e rằng đó là sự thật,” Markham nói.
Có một sự lo lắng - gần như là sợ hãi, tôi nghĩ vậy - trong giọng nói của vị giáo sư khi ông ấy nói tiếp.
“Cho dù là vậy, chúng tôi có thể làm gì với sự thật đó? Và làm sao các anh có thể liên hệ cái chết của cậu ấy với cái chết của Robin?”
“Tôi thừa nhận rằng chúng tôi không rõ chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo,” Markham nói với ông ấy. “Nhưng việc không có mục đích trong cả hai án mạng - hoàn toàn không có bất kỳ động cơ nào trong cả hai vụ - dường như cho chúng ta thấy một vẻ ngoài đồng nhất kỳ lạ.”
“Tất nhiên, ý của anh là anh không tìm ra được động cơ. Nhưng nếu tất cả các tội ác không có động cơ rõ ràng được cho rằng có liên quan…”
“Ngoài ra còn có yếu tố về thời gian và vị trí gần nhau của hai vụ này,” Markham nhấn mạnh.
“Đó có phải là cơ sở trong giả thuyết của anh không?” Cách cư xử của giáo sư tỏ ra coi thường. “Anh chưa bao giờ là một nhà toán học giỏi, Markham à, nhưng ít nhất anh nên biết rằng không có giả thuyết nào có thể được xây dựng trên cái tiền đề hời hợt như vậy.
“Cả hai cái tên”, Vance xen vào, “- Chim Cổ Đỏ và Johnny Sprig - là những nhân vật trong các bài đồng dao nổi tiếng.”
Ông lão nhìn chằm chằm vào anh với vẻ ngạc nhiên không hề giấu giếm; và dần dần vẻ tức giận tràn ngập trên gương mặt ông ấy.
“Sự hài hước của anh, thưa anh, đã sai chỗ rồi.”
“Đó không phải là sự hài hước của tôi, trời ạ!” Vance nói một cách buồn bã. “Trò đùa là của Giám Mục.”
“Giám Mục?” Giáo sư Dillard cố gắng kiềm chế sự tức giận của mình. “Nghe này, Markham; tôi sẽ không chơi trò này nữa. Đây là lần thứ hai các anh đề cập đến gã Giám Mục bí ẩn trong căn phòng này; và tôi muốn biết ý nghĩa của nó. Cho dù một tên quái gở đã viết một bức thư điên khùng cho báo chí về việc liên quan đến cái chết của Robin, vậy thì gã Giám Mục này đã làm gì Sprigg?”
“Một tờ giấy được tìm thấy bên dưới thi thể của Sprigg chứa đựng công thức toán học được đánh bằng chiếc máy giống như bức thông điệp của Giám Mục.”
“Thật quái lạ!” Giáo sư chồm người về phía trước. “Anh nói là cùng một máy đánh chữ? Và một công thức toán học?… Công thức đó là gì?”
Markham mở cuốn sổ bỏ túi, và lấy ra mảnh giấy hình tam giác mà Pitts đã đưa cho anh ta.
“Tensor Riemann-Christoffel…” Giáo sư Dillard ngồi nhìn chăm chú vào tờ giấy rất lâu; rồi ông ấy trả lại nó cho Markham. Ông ấy dường như trở nên già hơn; và một ánh nhìn mệt mỏi hiện lên trong mắt ông ấy khi đưa lại cho chúng tôi. “Tôi chẳng thấy chút ánh sáng nào trong vấn đề này cả.” Ông ấy nói với sự từ bỏ đầy thất vọng. “Nhưng có lẽ các anh đã đúng khi đi theo hướng hiện tại. - Các anh muốn gì ở tôi?”
Markham rõ ràng bối rối trước sự thay đổi thái độ của ông ấy.
“Tôi đến gặp ông chủ yếu muốn xác nhận liệu có mối liên hệ nào giữa Sprigg và ngôi nhà này; nhưng, thành thật mà nói, tôi không thấy được cách mà mối liên hệ đó, bây giờ tôi đã biết, khớp với chuỗi sự kiện. Tuy nhiên, tôi muốn ông cho phép hỏi cung ông Pyne và Beedle theo cách mà tôi nghĩ là thích hợp.”
“Hãy hỏi họ bất kỳ điều gì anh muốn, Markham. Anh không bao giờ có thể kết tội tôi vì đã cản đường anh.” Ông ấy nhìn lên đây xúc động. “Nhưng anh hãy, tôi hy vọng, báo cho tôi trước khi anh đưa ra bất kỳ bước đi quan trọng nào.”
“Điều này tôi có thể hứa với ông, thưa giáo sư.” Markham đứng dậy. “Nhưng tôi e rằng hiện chúng ta còn cách khu vực quan trọng một chặng đường dài.” Anh ta đưa tay ra, và cử chỉ của anh ta rõ ràng cho thấy anh ta cảm nhận được mối lo âu nào đó ẩn giấu bên trong ông lão và muốn bày tỏ sự thông cảm của mình mà không cần phải nói ra.
Vị giáo sư đi với chúng tôi ra cửa.
“Tôi không thể hiểu về tensor được đánh máy đó,” ông ấy lẩm bẩm và lắc đầu. “Nhưng nếu có chuyện gì tôi có thể làm…”
“Có chuyện, ông có thể giúp chúng tôi, thưa giáo sư Dillard,” Vance nói, dừng lại ở cửa. “Vào buổi sáng Robin bị giết thì chúng tôi đã thẩm vấn bà Drukker…”
“À!”
“Và mặc dù bà ấy phủ nhận việc ngồi ở cửa sổ yào buổi sáng thì cũng có khả năng bà ấy thấy chuyện gì đó xảy ra ở bãi tập bắn cung giữa 11 và 12 giờ.”
“Bà ấy khiến anh có ấn tượng đó à?” Có sự hạ thấp giọng vì kiềm chế mối quan tâm trong câu hỏi của vị giáo sư.
“Chỉ có chút đỉnh thôi. Đó là lời khai của Drukker rằng anh ta đã nghe thấy tiếng thét của mẹ mình, và sự phủ nhận của bà ấy về việc đã thét lên, điều đó làm tôi tin rằng bà ấy đã nhìn thấy gì đó mà bà ấy muốn giữ kín với chúng tôi. Và tôi chợt nảy ra ý tưởng là ông có thể có ảnh hưởng đến bà ấy hơn những người khác, do đó, nếu quả thực bà ấy đã chứng kiến điều gì, ông có thể thuyết phục bà ấy nói ra.”
“Không!” Giáo sư Dillard nói gần như cay nghiệt; nhưng ngay lập tức ông ấy đặt tay mình lên cánh tay của Markham, và giọng của ông ấy thay đổi. “Có một vài chuyện các anh không thể yêu cầu tôi giúp được. Nếu người phụ nữ tội nghiệp bị làm phiền này thấy bất kỳ điều gì từ cửa sổ của mình vào buổi sáng đó, chính các anh phải tìm ra nó. Tôi sẽ không góp phần vào việc hành hạ bà ấy đâu; và tôi chân thành hy vọng các anh sẽ không làm phiền bà ấy nữa. Có cách khác để tìm ra thứ các anh muốn.” Ông ấy nhìn thẳng vào mắt của Markham. “Bà ấy không phải là người nói cho anh biết. Bản thân anh nên xin lỗi sau này.”
“Chúng tôi phải tìm ra những gì có thể,” Markham trả lời một cách kiên quyết nhưng với sự dễ chịu. “Có một con quỷ đang tung hoành trong thành phố này, và tôi không thể để bất cứ ai chịu sự đau khổ này - tuy nhiên thảm kịch đau buồn đó vẫn xảy ra. Nhưng tôi bảo đảm với ông rằng tôi sẽ không hành hạ bất kỳ ai một cách không cần thiết.”
“Anh có nghĩ,” giáo sư Dillard hỏi một cách nhẹ nhàng, “rằng sự thật mà anh tìm kiếm có thể còn khủng khiếp hon chính những tội ác đó?”
“Tôi sẽ chấp nhận rủi ro này. Nhưng nếu tôi biết đó là sự thật, thì sẽ không thể ngăn cản tôi bằng bất cứ giá nào.”
“Tẩt nhiên là không rồi. Nhưng, Markham à, tôi lớn tuổi hon anh nhiều. Tôi đã có tóc bạc khi anh còn là anh chàng đang vật lộn với logarit và đối logarit; và khi con người ta già đi thì họ sẽ hiểu biết về tỷ lệ chân thật của thế giới này. Tất cả tỷ số này đều thay đổi. Sự ước lượng mà chúng ta đặt vào mọi vật sẽ bỏ qua ý nghĩa của chúng. Đó là lý do tại sao người lớn tuổi khoan dung hon: họ biết rằng giá trị nhân tạo không quan trọng chút nào.”
“Nhưng miễn là chúng ta vẫn phải sống bằng giá trị của loài người,” Markham phản bác, “thì nhiệm vụ của tôi là duy trì chúng. Và tôi không thể, vì mối thông cảm riêng tư nào, từ chối bất kỳ con đường nào dẫn đến sự thật.”
“Có thể anh đúng,” vị giáo sư thở dài. “Nhưng anh không được yêu cầu tôi giúp anh trong trường hợp này. Nếu anh hiểu về sự thật, hãy khoan dung. Hãy chắc rằng thủ phạm phải chịu trách nhiệm trước khi anh yêu cầu cho hắn lên ghế điện. Có những tâm hồn bệnh hoạn cũng như những thể xác bệnh hoạn; và cả hai thường đi chung với nhau.”
Khi chúng tôi trở lại phòng khách thì Vance châm một điếu thuốc với nhiều lo lắng hơn bình thường.
“Giáo sư,” anh nói, “không vui về cái chết của Sprigg; và, mặc dù ông ấy không thừa nhận, công thức tensor khiến ông ấy tin rằng Sprigg và Robin thuộc cùng một phương trình. Nhưng ông ấy bị thuyết phục quá dễ dàng. Lúc đó, tại sao? - Hơn nữa, ông ấy không đế ý đến việc những người quanh đây có biết Sprigg hay không. Tôi không nói ông ấy có sự ngờ vực, nhưng ông ấy có nỗi sợ… Hơi là lạ, về thái độ của ông ấy. Ông ấy hình như không muốn cản trở công lý, điều mà ông ấy ủng hộ với sự nhiệt tình đầy cảm động, Markham à; nhưng ông ấy nhất quyết không muốn giúp đỡ anh đối với việc có liên quan đến nhà Drukker. Tôi tự hỏi điều gì đã khiến ông ấy chú trọng đến bà Drukker. Tôi không nên nói, quá tự nhiên, rằng bản chất giáo sư là một người sống tình cảm. - Và tình cảm thông thường đối với một tâm hồn bệnh hoạn và một thể xác bệnh hoạn đó là gì? Nghe có vẻ như một bài giới thiệu cho lớp học giáo dục thế chất vậy?… Đáng tiếc thật! Hãy đặt vài câu hỏi cho ông Pyne và người nhà vậy.”
Markham ngồi hút thuốc đăm chiêu. Tôi ít khi nào thấy anh ta nản lòng như vậy.
“Tôi không thấy chúng ta có thể hy vọng gì ở họ,” anh ta nhận xét.
“Tuy nhiên, trung sĩ, hãy đưa ông Pyne đến đây.” Khi Heath bước ra ngoài Vance nhìn Markham bằng ánh mắt trêu đùa.
“Thật ra, anh biết đấy, anh không nên phàn nàn như thế. Hãy để Terence an ủi anh: - Nil tam difficile est, quin quaerendo investigari possit[*]. Và, ôi trời, đây đúng là một vấn đề khó khăn…” Anh đột nhiên trở nên tỉnh táo. “Chúng ta đang đối phó với quá nhiều ẩn số ở đây. Chúng ta đang chống lại lực lượng quái lạ và khác thường nào đó không hoạt động theo quy định của pháp luật. Nó thật xảo quyệt - ôi, vô cùng xảo quyệt - và dị thường. Nhưng ít nhất chúng ta biết rằng nó xuất phát từ nơi nào đó ở xung quanh ngôi nhà xưa cũ này; và chúng ta phải điều tra ở mọi ngóc ngách thuộc về tâm lý. Đâu đó trong chúng ta ẩn giấu một con quỷ. Nên đừng bị sốc ở những câu hỏi tôi đặt ra cho ông Pyne. Chúng ta phải nhìn vào những nơi khác thường nhất…”
Có tiếng bước chân tiến đến cổng vòm, và một lát sau Heath đi vào cùng với ông lão quản gia.
Chú Thích:
[*] Henrik Johan Ibsen (1828 - 1906): nhà soạn kịch nổi tiếng người Na Uy. Ông được coi là cha đẻ của kịch nói hiện đại và là nhà văn vĩ đại nhất của Na Uy.
[*] Hermann Klaus Hugo Weyl (1885 - 1955): nhà toán học người Đức. Ông là nhà toán học đã áp dụng không gian vector để xây dựng hình học Euclid mới. Vẫn là loại hình học dùng phương pháp tiên đề, nhưng thay vì xét trên mặt phẳng, loại hình học này xét trong không gian.
[*] Ernst Waldfried Josef Wenzel Mach (1838 - 1916): nhà vật lý và triết gia người Áo. Ông được ghi nhớ bởi những đóng góp cho nền vật lý trong nghiên cứu về sóng xung kích. Số Mach, được đặt theo tên ông, là một đại lượng vật lý biểu hiện tỷ số giữa vận tốc chuyển động của vật thể trong một môi trường nhất định (hoặc vận tốc tương đối của dòng vật chất) đối với vận tốc âm thanh trong môi trường đó. Là một triết gia khoa học, ông là người khai phá và đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa thực chứng logic và thông qua những phê phán về lý thuyết của Newton, đã đóng vai trò người báo trước sự ra đời thuyết tương đối của Albert Einstein.
[*] Nil tam difficile est, quin quaerendo investigari possit (tiếng Latin): không có gì là quá khó khăn đến nỗi không thể điều tra được.
[*] Câu này có thể hiểu theo nghĩa: tôi không thổi phồng đâu. Dogberry là một nhân vật trong tác phẩm hài kịch “Much Ado About Nothing” của William Shakespeare. Nhân vật này có cái nhìn thổi phồng về tầm quan trọng của chính mình trong vai trò của một người dẫn đầu nhóm lính canh vụng về, hậu đậu, hài hước.