← Quay lại trang sách

Chương 11 KHẨU SÚNG LỤC BỊ ĐÁNH CẮP-

(Thứ Hai, 11 tháng Tư; 3 p.m.)

“Mời ngồi, ông Pyne,” Vance nói, với sự tử tế cần thiết. “Chúng tôi được giáo sư Dillard cho phép thẩm vấn ông; và chúng tôi mong nhận được câu trả lời cho tất cả câu hỏi của mình.”

“Tất nhiên rồi, thưa anh,” người đàn ông trả lòi. “Tôi chắc chắn giáo sư Dillard không có lý do gì để giấu giếm.”

“Tốt quá.” Vance uể oải tựa người ra sau. “Vậy thì trước tiên; bữa điểm tâm được dọn ra vào lúc mấy giờ sáng nay?”

“8 giờ rưỡi, thưa anh - giống như mọi khi.”

“Tất cả thành viên trong gia đình đều có mặt chứ?”

“Ồ, đúng vậy, thưa anh.”

“Ai gọi mọi người vào sáng nay? Và lúc mấy giờ?”

“Là tôi gọi - vào lúc 7 giờ rưỡi. Tôi đến gõ cửa từng phòng…”

“Và đợi tiếng trả lời à?”

“Đúng, thưa anh - luôn luôn là vậy.”

“Giờ ông nghĩ xem, Pyne: sáng nay mọi người đều trả lời ông chứ?”

Người đàn ông gật đâu dứt khoát. “Đúng, thưa anh.”

“Và không ai đển ăn sáng trễ à?”

“Mọi người đều đứng giờ - như bình thường, thưa anh.”

Vance cúi xuống và gạt tàn thuốc.

“Ông có tình cờ nhìn thấy người nào ra khỏi nhà hay trở về nhà sáng nay trước bữa điểm tâm không?”

Câu hỏi vô tình được đặt ra, nhưng tôi nhận thấy một sự run rẩy ngạc nhiên nho nhỏ trong mí mắt mỏng rũ xuống của người quản gia.

“Không, thưa anh.”

“Cho dù ông không nhìn thấy ai,” Vance truy hỏi tiếp, “nhưng chẳng lẽ thành viên trong gia đình đi ra ngoài và trở về mà ông không biết sao?”

Lần đầu tiên trong cuộc thẩm vấn Pyne tỏ vẻ miễn cưỡng khi trả lòi.

“À, thưa anh, sự thật là,” ông ta nói một cách bất an, “sáng nay ai đó có thể đã sử dụng cửa trước mà tôi không biết, trong lúc tôi đang sửa soạn bàn ăn. Và, vì như vậy, ai đó có thể đã sử dụng cửa phòng bắn cung, do con gái tôi thường đóng cửa nhà bếp trong khi đang chuẩn bị bữa sáng.”

Vance trầm ngâm hút thuốc một lúc. Sau đó, anh hỏi với giọng bình thường: “Có người nào trong nhà sở hữu một khẩu súng lục không?”

Đôi mắt người đàn ông trợn tròn.

“Không có ai, theo tôi biết, thưa anh,” ông ta ngập ngừng trả lời.

“Có từng nghe đến Giám mục không, ông Pyne?”

“Ồ, không, thưa anh!” Mặt ông ta tái mét. “Ý của anh là người đã viết những bức thư gởi cho báo chí?”

“Tôi chỉ muốn nói đến Giám mục thôi,” Vance lơ đãng nói. “Nhưng hãy nói cho tôi biết: ông có nghe gì về một người bị giết ở công viên Riverside sáng nay không?”

“Có, thưa anh. Người lao công ở bên cạnh có kể cho tôi nghe.”

“Ông biết anh chàng Sprigg, đúng không?”

“Tôi từng thấy cậu ta ở nhà này một hai lần, thưa anh.”

“Gần đây cậu ta có đến không?”

“Tuần trước, thưa anh. Tôi nghĩ là hôm thứ Năm.”

“Lúc đó còn ai khác ở đây không?”

Pyne nhíu mày như đang cố nhớ ra.

“Anh Drukker, thưa anh,” một hồi sau ông ta nói. “Và, theo tôi nhớ, ông Pardee cũng có đến. Họ nói chuyện với nhau trong phòng anh Arnesson đến tận khuya.”

“Trong phòng anh Arnesson sao? Anh Arnesson thường tiếp khách trong phòng mình à?”

“Không, thưa anh,” Pyne giải thích; “nhưng lúc đó giáo sư đang làm việc trong thư viện, và cô Dillard đang ở cùng bà Drukker trong phòng khách này.”

Vance im lặng một lúc lâu.

“Như vậy là đủ rồi, ông Pyne,” rất lâu sau anh nói. “Nhưng hãy gọi ngay Beedle dùm chúng tôi.”

Beedle đến và đứng trước mặt chúng tôi với nỗi bực tức khó chịu. Vance thẩm vấn cô ta giống như cách anh đã làm với Pyne. Câu trả lời của cô ta, phần lớn là đơn âm, không bổ sung thêm được gì vào những điều đã biết. Nhưng vào cuối cuộc thẩm vấn ngắn, Vance hỏi cô ta có phải sáng nay cô ta có tình cờ nhìn ra ngoài cửa sổ nhà bếp trước bữa điểm tâm hay không.

“Tôi có nhìn ra một hai lần,” cô ta bướng bỉnh trả lời. “Tại sao tôi không nên nhìn ra ngoài?”

“Cô có thấy người nào ở bãi tập bắn cung hay ở sân sau không?”

“Không có ai ngoài giáo sư và bà Drukker cả.”

“Không có người lạ sao?” Vance cố làm ra vẻ rằng việc có mặt của giáo sư Dillard và bà Drukker ở sân sau vào sáng nay là không quan trọng; nhưng, nhờ vào cách cố tình chậm chạp khi anh thò tay vào túi để lấy hộp thuốc lá, mà tôi biết được thông tin này làm anh quan tâm sâu sắc.

“Không,” người phụ nữ trả lời cộc lốc.

“Cô để ý thấy giáo sư và bà Drukker lúc mấy giờ?”

“8 giờ gì đó.”

“Họ đang nói chuyện với nhau ư?”

“Đúng. Đại khái thế,” cô ta sửa lại, “họ đi qua lại chỗ mấy cái cây.”

“Họ có thói quen đi dạo trong sân trước bữa sáng à?”

“Bà Drukker thường ra ngoài sớm và đi dạo gần mấy luống hoa. Và tôi đoán giáo sư có quyền đi dạo trong sân nhà mình bất cứ lúc nào ông ấy muốn.”

“Tôi không hỏi về quyền của ông ấy trong chuyện này, Beedle à,” Vance ôn hòa nói. “Tôi chỉ thắc mắc rằng ông ấy có thói quen tập thể dục vào sáng sớm như vậy hay không thôi.”

“Đấy, ông ấy có tập thể dục sáng nay.”

Vance cho người phụ nữ rời khỏi và đứng dậy đi đến cửa sổ phía trước. Anh rõ ràng đang bối rối, và đứng nhìn xuống con đường hướng ra dòng sông trong vài phút.

“Chà, chà,” anh lẩm bẩm. “Thật là một ngày đẹp trời để đàm luận cùng thiên nhiên. Vào 8 giờ sáng nay chắc chắn con chim chiền chiện đã cất cánh bay, và - ai biết được? - có thể có một con ốc sên trong bụi gai. Nhưng - trời ơi! - cả thế giới đang đảo lộn.”

Markham nhận ra dấu hiệu lúng túng của Vance.

“Anh nghĩ sao?” anh ta hỏi. “Tôi định sẽ phớt lờ thông tin của Beedle.”

“Vấn đề là, Markham à, chúng ta không thể phớt lờ bất kỳ điều gì trong vụ án này.” Vance nhẹ nhàng nói, không hề quay lại. “Mặc dù, tôi thừa nhận rằng ngay lúc này sự tiết lộ của Beedle là vô nghĩa. Chúng ta chỉ biết được rằng hai trong số các diễn viên của vở kịch tâm lý xã hội đã xụất hiện ở quanh đây vào sáng nay không lâu sau khi Sprigg bị giết. Cuộc gặp gỡ ngoài trời giữa vị giáo sư và bà Drukker, tất nhiên, có thể chỉ là một trong những sự trùng hợp ngẫu nhiên. Mặt khác, nó có thể có liên quan gì đó đến thái độ đa cảm của quý ông cao tuổi đó dành cho quý bà kia… Tôi nghĩ chúng ta sẽ phải bí mật hỏi thăm ông ấy một chút về cuộc gặp gỡ trước bữa ăn, gì thế kia?…”

Anh đột nhiên nhoài người về hướng cửa sổ.

“A! Arnesson về rồi. Trông có vẻ khá kích động.”

Một lát sau có tiếng chìa khóa mở cửa trước, và Arnesson sải bước qua sảnh. Khi thấy chúng tôi, anh ta nhanh chóng bước vào phòng khách và, không hề chào hỏi, bật nói ngay:

“Chuyện tôi nghe Sprigg bị bắn là sao?” Ánh mắt nôn nóng của anh ta chuyển từ người này sang người khác trong chúng tôi. “Tôi đoán mọi người ở đây để hỏi tôi về cậu ta. Vậy bắt đầu đi.” Anh ta ném cái cặp to lớn xuống bàn trà và ngồi ngay xuống chiếc ghế bên cạnh. “Có một thám tử đến trường đại học vào sáng nay hỏi những câu ngu ngốc và hành động giống như một anh hề thám tử trong một vở opera hài. Rất bí ẩn… Án mạng - một án mạng khủng khiếp! Chúng tôi biết gì về John E. Sprigg? Vân vân… Làm một vài sinh viên năm nhất sợ đến quên hết bài vở của cả học kỳ, và khiến một giảng viên tiếng Anh trẻ tuổi không liên quan bị khủng hoảng tinh thần. Tôi không phải là Dogberry đâu[*] - vì tôi đang đứng lớp lúc đó. Nhưng hắn đã táo tợn hỏi rằng Sprigg thường hẹn hò với những người phụ nữ nào. Sprigg và phụ nữ! Chàng trai đó không có suy nghĩ nào khác trong đầu ngoài việc học của mình. Chàng trai sáng dạ nhất môn toán cao cấp. Không bao giờ vắng mặt. Khi cậu ta không trả lời điểm danh sáng nay thì tôi biết đã có chuyện nghiêm trọng nào đó rồi. Lúc ăn trưa, mọi người đều xôn xao về án mạng đó… Câu trả lời là gì vậy?”

“Chúng tôi không có câu trả lời, anh Arnesson.” Vance chăm chú quan sát anh ta. “Tuy nhiên, chúng tôi có định thức khác cho công thức của anh đây. Sáng nay Johnny Sprig đã bị bắn bằng một khẩu súng nhỏ xuyên qua giữa bộ tóc giả của cậu ta.”

Arnesson trừng mắt nhìn Vance một lúc lâu mà không động đậy. Sau đó anh ta ngửa đầu ra sau và cất tiếng cười chế nhạo.

“Thêm mấy thứ quái đản nữa ư? - như cái chết của Chim Cổ Đỏ vậy… Hãy cho tôi biết về bí ẩn này đi.”

Vance thuật lại ngắn gọn những chi tiết của vụ án.

“Đó là tất cả những gì hiện tại chúng tôi biết,” anh kết luận. “Anh Arnesson, anh có thể bổ sung thêm chi tiết gợi ý nào không?”

“Trời ơi, không!” Người đàn ông tỏ vẻ kinh ngạc thật sự. “Không thể như thế. Sprigg… một trong những sinh viên xuất sắc nhất tôi từng dạy. Gần như một thiên tài, trời ơi! Đáng tiếc là cha mẹ của cậu ta đặt tên cho cậu ta là John - thiếu gì tên khác chứ. Nó dường như đã định đoạt số phận của cậu ta; khiến cậu ta bị một tên điên bắn thủng đầu. Rõ ràng cùng một tên hề đã kết liễu Robin bằng một mũi tên.” Anh ta xoa hai tay vào nhau, nhà khoa học trừu tượng trong anh ta trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. “Một vấn đề hay. Anh đã kể cho tôi mọi thứ rồi à? Tôi sẽ cần toàn bộ hệ số đã biết. Có lẽ tôi sẽ gặp phải một phương pháp xử lý mới trong toán học - như Kepler[*] vậy.” Anh ta cười thầm tính tự phụ của mình. “Có nhớ ‘Doliometrie’[*] của Kepler không? Nó trở thành nền tảng của phép tính vi phân. Ông ấy nghĩ ra nó khi đang cố tạo ra một thùng tô nô chứa rượu cho bản thân - một thùng tô nô được làm với lượng gỗ nhỏ nhất và dung tích chứa lớn nhất. Có thể những công thức tôi nghĩ ra để phá án sẽ mở ra những lĩnh vực nghiên cứu khoa học mới. Ha ha! Robin và Sprigg lúc đó sẽ trở thành những người chết vì khoa học.”

Sự hóm hỉnh của người đàn ông, ngay cả khi đã xem xét tới niềm đam mê cả đời anh ta đã dành cho những thứ trừu tượng, vẫn khiến tôi thấy cực kỳ bực mình. Nhưng Vance dường như không để tâm đến lời giễu cợt máu lạnh của anh ta.

“Có một vật,” anh nói, “mà tôi quên nhắc đến.” Quay sang Markham, anh đòi mảnh giấy có ghi công thức, và đưa nó cho Arnesson. “Thứ này được tìm thấy bên dưới xác của Sprigg.”

Nhà toán học kiêu ngạo soi mói nó.

“Tôi thấy Giám Mục lại dính dáng đến. Cùng loại giấy và kiểu chữ như bức thông điệp trước… Nhưng hắn lấy tensor Riemann-Christoffel đó ở đâu? Nếu nó là tensor nào khác - như G-sigma-tau, chẳng hạn - thì những ai có hứng thú với vật lý ứng dụng đều có thể biết về nó. Nhưng cái này không thông dụng; và giá trị của nó thì tùy ý và bất thường. Những điều kiện nào đó đã bị bỏ đi… Ôi trời! Mới tối hôm kia tôi còn nói về chuyện này với Sprigg. Cậu ta còn ghi nó lại nữa.”

“Ông Pyne có nói qua rằng Sprigg đã đến đây vào tối thứ Năm,” Vance nói thêm.

“Ồ, ông ta đã nói thế, phải không?… Thứ Năm - đúng rồi. Pardee cũng ở đây nữa. Và cả Drukker. Chúng tôi đã có một cuộc thảo luận về tọa độ Gauss. Tensor này được nêu lên - Drukker nhắc đến nó đầu tiên thì phải. Và Pardee có suy nghĩ điên rồ nào đó khi định áp dụng toán cao cấp vào cờ vua…”

“Tiện thể, anh có chơi cờ vua không?” Vance hỏi.

“Đã từng. Nhưng giờ thì không. Một môn chơi tốt - nếu không là tại người chơi. Những kẻ kỳ quặc, những kỳ thủ.”

“Anh có bao giờ nghiên cứu thế cờ Pardee không?” (Vào lúc đó tôi không thể hiểu những câu hỏi dường như không liên quan của Vance; và tôi để ý rằng cả Markham cũng đang bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu mất kiên nhẫn.)

“Tội nghiệp lão Pardee!” Arnesson mỉm cười vô cảm. “Một nhà toán học cơ bản không tệ. Đáng lẽ phải làm thầy giáo trường trung học. Tuy nhiên, có nhiều tiền quá. Đam mê cờ vua. Tôi đã bảo thế cờ của ông ta phản khoa học. Thậm chí còn cho ông ta thấy nó có thể bị phá như thế nào. Nhưng ông ta không chịu sáng mắt ra. Thế rồi Capablanca, Vidman và Tartakower xuất hiện và phá tan tành. Y như những gì tôi đã nói với ông ta rằng họ sẽ làm. Hủy hoại cuộc đời ông ta. Ông ta đã loay hoay với một thế cờ khác mấy năm nay rồi, nhưng không thể làm cho nó chặt chẽ được. Đọc Weyl, Silberstein[*], Eddington và Mach với hy vọng là sẽ tìm được nguồn cảm hứng.”

“Đúng là thú vị thật.” Vance chìa hộp diêm cho Arnesson khi anh vừa nhồi tẩu thuốc của mình vừa nói. “Pardee có quen biết với Sprigg không?”

“Ồ, không. Gặp cậu ta ở đây hai lần - vậy thôi. Tuy nhiên, Pardee quen biết Drukker hơn. Luôn hỏi anh ta về thế vị, vô hướng và vector. Hy vọng sẽ chạm phải thứ gì đó có thể cách mạng hóa cờ vua.”

“Ông ta có hứng thú với tensor Riemann-Christoffel khi các anh bàn về nó vào tối hôm đó không?”

“Không thể nói là có. Một chút ngoài lĩnh vực của ông ta. Ta không thể gắn độ cong của không-thời gian vào một bàn cờ được.”

“Anh nghĩ sao về việc công thức này được tìm thấy ở chỗ Sprigg?”

“Không nghĩ được gì cả. Nếu nó là chữ viết tay của Sprigg thì tôi sẽ nói nó rơi ra từ túi của cậu ta. Nhưng ai lại đi tốn công sức đánh máy một công thức toán học chứ?”

“Hình như là Giám Mục.”

Arnesson đưa tẩu thuốc ra khỏi miệng và toét miệng cười.

“Giám Mục X. Ta sẽ phải tìm hắn. Hắn đầy bất thường. Nghiệm kỳ dị.”

“Hiển nhiên rồi.” Vance uể oải nói. “Và, tiện thể, suýt nữa tôi quên hỏi anh: trong nhà Dillard có khẩu súng lục nào không?”

“Ô hô!” Arnesson cười khoái trá với sự thích thú không kiềm chế. “Có phải như thế không?… Xin lỗi đã làm quý vị thất vọng. Không có súng lục. Không có cửa lùa. Không có cầu thang bí mật. Tất cả đều công khai và được phơi bày ra hết.”

Vance thở dài một cách không tự nhiên.

“Buồn… buồn thật! Và tôi có một gỉả thuyết an ủi như thế.”

Belle Dillard im lặng đi xuống sảnh, và giờ đang đứng ở lối vòm. Cô ấy rõ ràng đã nghe thấy câu hỏi của Vance và câu trả lời của Arnesson.

“Nhưng có hai khẩu súng lục trong nhà mà Sigurd,” cô ấy bày tỏ. “Anh không nhớ những khẩu súng lục cũ tôi đã dùng để tập bắn mục tiêu ở dưới quê sao?”

“Tưởng cô đã ném chúng đi từ lầu rồi.” Arnesson đứng dậy và kéo một cái ghế cho cô ấy. “Tôi đã bảo cô lúc chúng ta trở về từ Hopatcong vào mùa hè đó rằng chỉ có tên trộm và kẻ cướp mới được phép sở hữu súng ở tiểu bang nhân từ này…”

“Nhưng tôi không tin anh,” cô gái phản đối. “Tôi không bao giờ biết được lúc nào thì anh đùa giỡn và lúc nào thì anh nghiêm túc.”

“Và cô đã giữ chúng lại, phải không cô Dillard?” Giọng nói của Vance cất lên.

“Sao - đúng vậy.” Cô ta lo sợ liếc nhìn Heath. “Tôi không nên làm thế à?”

“Tôi tin điều đó về lý là phạm pháp. Tuy nhiên” - Vance mỉm cười trấn an - “tôi không nghĩ trung sĩ sẽ nhắc đến luật Sullivan[*] để buộc tội cô đâu. Bây giờ chúng đang ở đâu?”

“Ở dưới lầu - trong phòng bắn cung. Chúng nằm ở một trong những ngăn kéo tủ đựng dụng cụ.”

Vance đứng lên.

“Cô Dillard, cô có thể vui lòng chỉ cho chúng tôi nơi cất chúng được không? Sự tò mò đang dày vò tôi vì muốn nhìn thấy chúng, cô biết đấy.”

Cô gái lưỡng lự và nhìn sang Arnesson để hỏi ý. Khi anh ta gật đầu, cô ấy quay đi mà không nói gì thêm và dẫn đường đên phòng bắn cung.

“Chúng ở trong cái tủ cạnh cửa sổ,” cô ấy nói.

Tiến về phía nó, cô ấy kéo một ngăn nhỏ ở ngoài bìa ra. Nằm ở phía sau, bên dưới một đống vật dụng linh tinh, là một khẩu súng tự động Colt.38.

“Sao lại thế!” Cô ấy kêu lên. “Chỉ có một khẩu ở đây thôi. Khẩu kia biến mất rồi.”

“Là một khẩu súng ngắn nhỏ hơn, phải không?” Vance hỏi.

“Phải…”

“Một khẩu súng lục loại.32[*]?”

Cô gái gật đầu và đưa cặp mắt ngơ ngác nhìn Arnesson.

“Chà, nó đã biến mất, Belle à,” anh ta nói với cô ấy, với một cái nhún vai. “Đành chịu thôi. Chắc một trong những cung thủ trẻ của cô đã lấy nó bắn vỡ óc cậu ta sau khi hắn thất bại trong việc bắn tên ở đường hẻm.”

“Nghiêm túc đi, Sigurd,” cô ta cầu xin, có chút sự hãi. “Nó có thể biến đi đâu được chứ?”

“Ha! Lại một bí ẩn đen tối khác,” Arnesson nhạo báng. “Sự mất tích kỳ lạ của một khẩu súng lục không còn sử dụng đến.”

Nhìn thấy tình trạng lo âu của cô gái, Vance đổi chủ đề.

“Có lẽ, cô Dillard à, cô vui lòng dẫn chúng tôi đến gặp bà Drukker. Có một hai vấn đề chúng tôi muốn nói với bà ấy; và tôi phỏng đoán, với sự hiện diện của cô ở đây, rằng chuyến đi về đồng quê đã bị hoãn lại.”

Một bóng đen phiền muộn lướt qua gương mặt cô gái.

“Ôi, hôm nay các anh không được làm phiền bà ấy.” Giọng cô ấy buồn bã van lơn. “Quý bà Mae bệnh rất nặng. Tôi không thể hiểu được - bà ấy có vẻ còn khỏe lắm khi tôi nói chuyện với bà ở trên lầu. Nhưng sau khi bà ấy gặp anh và anh Markham, bà ấy đã thay đổi: bà trở nên yếu ớt và… ôi, thứ gì đó kinh khủng dường như đang dày vò tâm trí bà ấy. Sau khi tôi đưa bà ấy về giường, bà ấy cứ lặp lại lời thì thầm đáng sợ: ‘Johnny Sprig, Johnny Sprig.’… Tôi đã gọi cho bác sĩ của bà và ông ấy sẽ đến ngay. Ông ấy bảo bà cần phải được tịnh dưỡng…”

“Cũng không phải chuyện gì quan trọng,” Vance trấn an cô ấy. “Tất nhiên chúng tôi sẽ đợi. - Bác sĩ của bà ấy là ai vậy, cô Dillard?”

“Whitney Barstead. Ông ấy đã chăm sóc bà lâu rồi theo những gì tôi nhớ.”

“Một người giỏi giang,” Vance gật đầu. “Không có nhà thần kinh học trong nước nào giỏi hơn. Chúng tôi sẽ không làm gì nếu không có sự cho phép của ông ấy.”

Cô Dillard nhìn anh với vẻ biết ơn. Sau đó cô xin phép rời khỏi.

Khi còn lại chúng tôi trong phòng khách, Arnesson đứng trước lò sưởi và quan sát Vance một cách châm biếm.

“‘Johnny Sprig, Johnny Sprig.’ Ha! Quý bà Mae nhận ra ngay lập tức. Bà ấy có thể điên điên khùng khùng, nhưng vài thùy não của bà ấy quá nhanh nhạy. Thứ máy móc khó hiểu, bộ não con người. Một vài máy tính biết suy nghĩ hàng đầu của châu Âu chỉ toàn là lũ khờ. Và tôi biết vài kỳ thủ bậc thầy cần đến y tá giúp họ mặc quần áo và đút cho họ ăn.”

Vance tỏ vẻ như không nghe thấy. Anh đứng trước một chiếc tủ nhỏ gần cổng vòm và có vẻ như đang chăm chú vào một bộ chạm khắc cẩm thạch nguồn gốc Trung Hoa thời cổ đại.

“Con voi không thuộc về chỗ đó,” anh lơ đãng nhận xét, chỉ vào một vật nhỏ xíu trong bộ sưu tập. “Đây là bunjinga[*] - kém chất lượng, anh biết không. Khéo léo đấy, nhưng không phải là đồ thật. Chắc là bản sao của một vật thời Mãn Châu.” Anh che miệng ngáp và quay sang Markham. “Này, ông bạn già, không còn gì ta có thể làm nữa. Có lẽ chúng ta nên cuốn gói đi. Dù vậy, chúng ta cũng nên nói vài lời với giáo sư trước khi đi… Có phiền anh đợi chúng tôi ở đây không, anh Arnesson?”

Arnesson nhướng mày theo kiểu hơi ngạc nhiên, nhưng ngay lập tức nhăn mặt lại thành một nụ cười khinh khỉnh.

“Ồ, không. Cứ đi đi.” Và anh ta bắt đầu nhồi lại thuốc vào trong tẩu của mình.

Giáo sư Dillard rất khó chịu trước sự xâm nhập lần thứ hai của chúng tôi.

“Chúng tôi vừa biết được,” Markham nói, “rằng sáng nay ông đã nói chuyện với bà Drukker trước bữa điểm tâm…”

Các cơ bắp trên gò má của giáo sư Dillard lộ vẻ giận dữ.

“Tôi nói chuyện với một người hàng xóm trong khu vườn của mình thì có liên quan gì đến Văn phòng Công tố quận?”

“Tất nhiên là không, thưa ông. Nhưng tôi đang trong một cuộc điều tra có liên quan nghiêm trọng đến nhà của ông, và tôi cho rằng mình có đặc quyền được tìm kiếm sự giúp đỡ từ ông.”

Ông lão ấp úng trong giây lát.

“Được thôi,” ông ấy bằng lòng một cách cáu kỉnh. “Tôi không gặp ai khác ngoại trừ bà Drukker – nếu như đó là những gì các anh muốn tìm hiểu.”

Vance góp vào cuộc đối thoại. “Đó không phải là lý do chúng tôi đến gặp ông, thưa giáo sư Dillard. Chúng tôi chỉ muốn hỏi ông rằng sáng nay bà Drukker có làm gì khiến ông nghĩ rằng bà ấy có nghi ngờ chuyện đã xảy ra trước đó ở công viên Riverside không.”

Vị giáo sư vừa định đáp trả bằng một câu gay gắt, nhưng đã tự kiềm chế. Sau một lát ông nói đơn giản:

“Không, bà ấy không khiến tôi nghĩ thế.”

“Bà ấy có tỏ ra bất an hoặc, chẳng hạn, kích động không?”

“Bà ấy không như thế!” Giáo sư Dillard đứng lên và đối diện với Markham. “Tôi hoàn toàn hiểu rõ các anh đang ám chỉ điều gì và tôi sẽ không đồng ý đâu. Tôi đã nói với anh rồi Markham, rằng tôi sẽ không tham gia vào việc do thám hoặc mách lẻo chuyện có liên quan đến người phụ nữ bất hạnh đó. Tôi chỉ muốn nói với các anh bấy nhiêu đó thôi.” Ông ấy quay lại bàn làm việc. “Rất tiếc, hôm nay tôi bận lắm.”

Chúng tôi đi xuống tầng trệt và nói lời chào tạm biệt với Arnesson. Anh ta vẫy tay thân mật chào chúng tôi khi chúng tôi đi ra ngoài; nhưng nụ cười của anh ta mang chút gì đó của vẻ kẻ cả khinh khỉnh, cứ như anh ta đã chứng kiến và đang hả hê trước sự cự tuyệt mà chúng tôi vừa gặp phải.

Khi chúng tôi đi trên vỉa hè, Vance ngừng lại để châm điếu thuốc mới.

“Giờ thì hãy có causerie[*] ngắn với ông Pardee buồn bã và lịch lãm. Tôi không biết ông ta có thể kể cho chúng ta điều gì, nhưng tôi có một nỗi khao khát muốn nói chuyện với ông ta.”

Tuy nhiên, Pardee không có ở nhà. Người giúp việc gốc Nhật của ông ta báo với chúng tôi rằng ông chủ của mình có nhiều khả năng đang ở câu lạc bộ cờ vua Manhattan.

“Ngày mai sẽ còn đủ thời gian.” Vance nói với Markham, khi chúng tôi đi khỏi ngôi nhà. “Tôi sẽ liên lạc với bác sĩ Barstead vào buổi sáng và cố gắng sắp xếp để gặp bà Drukker. Chúng ta cũng sẽ gặp Pardee trong chuyến đi đó.”

“Tôi hy vọng,” Heath càu nhàu, “rằng ngày mai chúng ta sẽ biết được nhiều hơn hôm nay.”

“Anh bỏ qua một hai giải an ủi rồi, trung sĩ,” Vance đáp lại. “Chúng ta đã biết được rằng những người liên quan đến nhà Dillard đều quen biết Sprigg và có thể dễ dàng biết được những chuyến tản bộ sáng sớm của cậu ta dọc theo sông Hudson. Chúng ta cũng biết được rằng giáo sư và bà Drukker đã đi dạo trong vườn lúc 8 giờ sáng nay. Và chúng ta phát hiện ra một khẩu súng lục đã biến mất khỏi phòng bắn cung. - Không phải là quá phong phú, nhưng cũng được chút ít - ồ, rõ ràng được chút gì đó.”

Khi chúng tôi lái xe xuống khu trung tâm, Markham đánh thức bản thân mình ra khỏi sự trừu tượng u ám, và nhìn Vance lo ngại.

“Tôi gần như sợ phải tiếp tục vụ án này. Nó dần trở nên quá độc ác. Và nếu báo chí biết được bài đồng dao Johnny Sprig đó và kết nối hai án mạng lại, tôi ghét phải nghĩ đến những tin giật gân rẻ tiền tiếp theo sau đó.”

“Tôi e rằng anh phải chịu đựng thôi, ông bạn già ạ,” Vance thở dài. “Tôi không phải là nhà ngoại cảm - cũng chưa từng có giấc mơ nào biến thành sự thật, và cũng không biết lên đồng có cảm giác như thế nào - nhưng thứ gì đó mách bảo tôi rằng Giám Mục sẽ tiết lộ với báo giới mấy câu thơ Mẹ Ngỗng đó. Vấn đề trong trò đùa mới của hắn thậm chí còn đen tối hơn vở hài kịch Chim Cổ Đỏ của hắn nữa. Hắn sẽ lo liệu để không ai bỏ lỡ nó. Thậm chí một kẻ khôi hài tàn nhẫn dùng xác chết để làm lục lạc cho gã hề cũng cần phải có khán giả. Ở đó chứa đựng một nhược điểm trong những tội ác ghê tởm của hắn. Đó là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta, Markham à.”

“Tôi sẽ gọi cho Quinan một cú điện thoại,” Heath nói, “và tìm hiểu xem có điều gì được phát hiện hay không.”

Nhưng viên trung sĩ không cần phải tốn công nữa. Phóng viên báo World đang đợi chúng tôi ở Văn phòng Công tố quận, và Swacker dẫn anh ta vào ngay lập tức.

“Chào anh, Markham.” Có một sự hồ hởi quá đà trong cử chỉ của Quinan, nhưng đồng thời anh ta để lộ dấu hiệu của sự phấn khích mạnh mẽ. “Tôi có thứ này dành cho trung sĩ Heath đây. Họ nói với tôi ở trụ sở rằng anh ta phụ trách vụ Sprigg, và nói anh ta đang thương lượng với anh. Cho nên tôi sang đây.”

Anh ta thò tay vào trong túi và, lấy ra một tờ giấy, đưa nó cho Heath. “Tôi đang cảm thấy thật cao cả, tốt bụng và hào phóng với anh, trung sĩ à, và tôi mong đợi một chút thông tin bên trong làm quà đáp lại… Nhìn vào tài liệu đó đi. Vừa mới nhận được từ nhật báo gia đình hàng đầu nước Mỹ đấy.”

Đó là một mảnh giấy đánh máy bình thường, và nó chứa đựng vần thơ Mẹ Ngỗng về Johnny Sprig, được đánh máy bằng những ký tự kiểu élite với ruy băng màu lam nhạt. Bên dưới góc phải là chữ ký viết hoa: GIÁM MỤC.

“Và đây là bao thư, thưa trung sĩ.” Quinan lại lục tìm trong túi mình.

Dấu bưu điện mang thời gian 9 giờ sáng, và, cũng như bức thông điệp đầu tiên, nó được gởi từ trong quận này ở Trạm Bưu Điện “N.”

Chú Thích:

[*] Johannes Kepler (1571 - 1630): nhà toán học, thiên văn học và chiêm tinh học người Đức. Là một trong những đại diện của cuộc cách mạng khoa học thế kỷ 17, Kepler được biết đến nhiều nhất bởi các định luật về chuyển động thiên thể mang tên ông do các nhà thiên văn thiết lập dựa trên những công trình của ông như Astronomia nova, Harmonice Mundi và cuốn Thiên văn học Copernicus giản lược.

[*] Doliometrie (hay còn được biết đến với cái tên Nova stereometria doliorum vinariorum): một bài luận toán học có sức ảnh hưởng lớn của Kepler. Bài luận nói về cách tính thể tích cùa những vật chứa như thùng tô nô, xuất bản vào năm 1615.

[*] Ludwik Silberstein (1872 - 1948 ): nhà vật lý người Mỹ gốc Ba Lan đã phổ biến thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối tổng quát cho sinh viên đại học. Quyển sách “Thuyết tương đối” do ông viết được xuất bản bởi Macmillan vào năm 1914 và một phiên bản thứ hai được xuất bản bởi Macmillan vào năm 1924.

[*] Luật Sullivan, có hiệu lực từ năm 1911, liên quan đến việc kiểm soát súng ống ở tiểu bang New York. Trong điều khoản đầu tiên, bộ luật này đòi hỏi người dân New York phải được cấp phép mới có thể sở hữu súng đạn. Nếu sở hữu chúng mà không có giấy phép là phạm pháp, mang theo chúng trong người là phạm tội hình sự.

[*] Loại súng lục với ổ đạn 6 viên được thiết kế để sử dụng trong phạm vi ngắn. Loại súng này sử dụng cách nạp đạn kiểu đẩy ổ đạn và nòng súng lên để nạp đạn từ phía sau và sử dụng loại đạn.32 Smith & Wesson Long.

[*] Bunjinga (chữ Hán được ghi theo chữ cái Latin): tranh thủy mặc.

[*] Causerie (tiếng Pháp): cuộc trò chuyện.

[*] Nỗi kinh hoàng tương tự xảy ra ở Luân Đôn vào năm 1888 khi Jack Đồ Tể thực hiện các vụ án ghê tởm, kinh dị của hắn; và một lần ở Hanover vào năm 1923 khi gã người sói Haarmann, đã thực hiện các vụ ăn thịt người của hắn. Nhưng tôi không nhớ các vụ án khác tương tự gần đây có không khí kinh dị khủng khiếp bao trùm lên New York như trong vụ án mạng Giám Mục.