← Quay lại trang sách

Chương 12 CHUYẾN VIẾNG THĂM LÚC NỬA ĐÊM-

(Thứ Ba, 12 tháng Tư; 10 a.m.)

Sáng hôm sau hàng loạt trang nhất của các tờ báo đô thị đều đưa tin giật gân vượt quá điều lo sợ tồi tệ nhất của Markham. Bên cạnh báo World, hai tờ báo buổi sáng hàng đầu khác đã nhận được những bức thông điệp giống như cái mà Quinan cho chúng tôi xem; vạ sự kích động được tạo ra bởi công bố của chúng thật dữ dội. Toàn thành phố chìm ngập trong nỗi lo âu và sự hãi; và mặc dù những nỗ lực nửa vời được thực hiện ở nhiều nơi để xóa bỏ khía cạnh điên cuồng của tội ác do sự trùng hợp, và để thanh minh rằng những bức thông điệp của Giám Mục chỉ là trò chơi khăm, tất cả các tờ báo và đa số công chúng đều hết mực tin rằng một kiểu sát nhân mới và khủng khiếp đang rình rập trong cộng đồng[*].

Markham và Heath bị bao vây bởi cánh phóng viên, nhưng bức màn bí mật vẫn được bảo vệ một cách kiên trì. Không gợi ý nào được cho là có bất kỳ lý do gì để tin rằng việc giải quyết vấn đề nằm ở nhà Dillard; và cũng không có đề cập nào đến việc biến mất của khẩu súng lục. Tình trạng của Sperling nhận được sự đối xử thông cảm từ báo chí. Hiện tại, công chúng cho rằng chàng trai trẻ này là nạn nhân không may trong vụ này; và tất cả những lời chỉ trích sự chần chừ của Markham trong việc tố tụng ngay lập tức giảm xuống.

Vào ngày Sprigg bị bắn, Markham họp tại câu lạc bộ Stuyvesant. Cả thanh tra Moran của Cục Điều tra và chánh thanh tra O’Brien[*] đều tham dự. Hai vụ án mạng được xem xét một cách kỹ lưỡng, và Vance đã nêu ra lý do cho việc anh tin rằng câu trả lời cho vấn đề này cuối cùng sẽ được tìm thấy hoặc ở nhà Dillard hoặc khu nhà nào đó có liên quan trực tiếp với nó.

“Bây giờ chúng ta vẫn giữ liên lạc,” anh kết thúc, “với tất cả những người có đủ sự am hiểu về tình hình xung quanh hai nạn nhân để thực hiện thành công những tội ác này; và chỉ có cách là tập trung vào những người đó.”

Thanh tra Moran gật đầu đồng ý. “Ngoại trừ,” ông ta dè dặt, “rằng không ai trong số dramatis personae[*] mà anh đề cập gây cho tôi cảm giác về một tên điên khát máu.”

“Kẻ sát nhân này không phải là một tên điên theo nghĩa thông thường,” Vance đáp lại. “Hắn hầu như bình thường ở tất cả các mặt khác. Bộ não của hắn, thực tế, có thể rất thông minh ngoại trừ một tổn thương - quá phi thường, tôi nên nói thế. Hắn đã mất tất cả các giác quan về sự cân đối chỉ vì sự suy xét cao hứng.”

“Nhưng ngay cả một gã siêu nhân biến thái thích thú với trò chơi ghê tởm như thế mà không có động cơ sao?” viên thanh tra hỏi.

“À, có động cơ đấy. Một vài động lực mạnh mẽ ở phía sau khái niệm tàn ác của những tên sát nhân này - động lực này có tác dụng lên kết quả của nó, là từ sự hài hước của quỷ dữ.”

O’Brien không tham gia vào cuộc thảo luận này. Mặc dù ấn tượng bởi ẩn ý mơ hồ của nó, anh ta trở nên kích động bởi đặc điểm phi thực tế của nó.

“Kiểu tin đồn đó,” anh ta ồn ào nói, “là tất cả quyền lực của những bài báo xã luận, nhưng nó không khả thi.” Anh ta lắc điếu xì gà to đen của mình về phía Markham. “Những gì chúng ta phải làm là bắt kịp mọi tình huống và nắm được vài bằng chứng xác thực.”

Quyết định cuối cùng rằng những bức thông điệp của Giám Mục sẽ được chuyển giao cho một chuyên gia phân tích, một nỗ lực để lần theo dấu vết cả máy đánh chữ và đồ dùng văn phòng. Một hệ thống tìm kiếm được thiết lập dành cho các nhân chứng có thể đã nhìn thấy ai đó ở công viên Riverside giữa 7 và 8 giờ sáng hôm đó. Các thói quen và những mối liên hệ của Sprigg đều là đối tượng được tường trình cẩn thận; và một người đàn ông được lấy lời khai chi tiết là người đưa thư của quận với hy vọng rằng, khi lấy thư từ những hộp thư khác nhau, anh ta chú ý về địa chỉ trên thư và có thể nói được chúng thật sự được gởi từ đâu.

Nhiều hoạt động thường lệ khác cũng được đưa ra; và Moran đề nghị rằng nên có cùng lúc ba người canh gác ngày và đêm ở vùng lân cận nơi xảy ra án mạng để theo dõi sự tiến triển có thể xảy ra hoặc những hành động đáng ngờ của những người có liên quan. Sở Cảnh sát và Văn phòng Công tố quận cùng làm việc hết mình với nhau. Dĩ nhiên, Markham, trong thỏa thuận ngầm với Heath, nắm quyền chủ động.

“Tôi đã lấy lời khai của các thành viên nhà Dillard và nhà Drukker trong mối liên quan với án mạng của Robin,” Markham giải thích với Moran và O’Brien: “và tôi đã nói về vụ án của Sprigg với giáo sư Dillard và Arnesson. Ngày mai tôi sẽ gặp Pardee và gia đình Drukker.”

Sáng hôm sau Markham, cùng với Heath, gặp Vance một chút trước 10 giờ.

“Điều này không thể tiếp diễn,” anh ta tuyên bố, sau những lời chào sơ sài. “Nếu bất kỳ ai biết được điều gì, chúng ta phải tìm ra nó. Tôi sẽ gây sức ép - và chấp nhận hậu quả tồi tệ!”

“Bằng mọi cách, phải đuổi bắt chúng.” Chính Vance tỏ vẻ chán nản. “Tôi nghi ngờ việc có ích của nó. Không có phương thức thông thường nào giải được câu đố này. Tuy nhiên, tôi vừa gọi cho Barstead. Ông ấy nói chúng ta có thế nói chuyện với bà Drukker vào sáng nay. Nhưng tôi đã sắp xếp để gặp ông ấy trước. Tôi có một khao khát muốn biết thêm về bệnh tật của nhà Drukker. Chứng gù lưng, anh biết đó, thường không phải là do té ngã.”

Ngay lập tức, chúng tôi lái xe đến nhà vị bác sĩ và gặp được ông ấy mà không hề có sự trì hoãn nào. Bác sĩ Barstead là một người đàn ông rất dễ chịu, sự vui tính trong cử chỉ của ông ấy gây ấn tượng với tôi như là kết quả của sự nỗ lực bài bản.

Vance đi thẳng vào vấn đề.

“Thưa bác sĩ, chúng tôi có lý do để tin rằng bà Drukker và có lẽ con trai bà ấy có liên quan gián tiếp đến cái chết gần đây của anh Robin ở nhà Dillard; và trước khi chúng tôi hỏi nhiều hơn về họ thì chúng tôi muốn ông nói cho chúng tôi biết - theo quy ước nghề nghiệp cho phép - một chút gì đó về trạng thái thần kinh mà chúng tôi đang đối mặt.”

“Xin hãy nói rõ ràng hơn, thưa anh.” Bác sĩ Barstead nói với thái độ đề phòng.

“Tôi được biết,” Vance tiếp tục, “rằng Bà Drukker tự chịu trách nhiệm về tật gù lưng của con trai bà ấy; nhưng theo sự hiểu biết của tôi thì dị tật ấy của anh ta không phải là kết quả thông thường chỉ do chấn thương thể chất.”

Bác sĩ Barstead gật đầu một cách chậm rãi.

“Chính xác là như thế. Chứng liệt hai chi do chèn ép tủy sống có thể dẫn đến trật khớp hoặc tổn thương, nhưng kết quả tổn thương như thế là của kiểu cơ ngang trung tâm. Viêm xương hoặc mục xương sống - thứ mà chúng ta thường gọi là bệnh Pott - thường có nguồn gốc từ bệnh lao; và lao cột sống hầu hết xảy ra ở trẻ em. Thường là từ lúc mới sinh. Đúng vậy, một tổn thương có thể đứng trước sự tấn công khi đang là vị trí lây nhiễm hoặc sự kích thích ổ bệnh tiềm ẩn; và sự thật không nghi ngờ này dẫn đến niềm tin rằng chính tổn thương tạo nên căn bệnh này. Nhưng cả Schmaus và Horsley đã đưa ra giải phẫu bệnh lý thực sự của viêm lao đốt sống. Dị dạng của Drukker chắc chắn là do bệnh lao. Ngay cả độ cong vẹo xương sống của anh ta rõ ràng là loại cong tròn, chứng tỏ sự nới rộng của đốt sống; và không có bất cứ dấu hiệu gì về chứng vẹo xương sống. Hơn nữa, anh ta có tất cả các triệu chứng của viêm xương.”

“Dĩ nhiên rồi, vậy ông hãy giải thích về tình trạng của bà Drukker.”

“Đã xem xét nhiều lần. Nhưng tôi vẫn chưa thành công. Sự thật là, một bản năng khủng khiếp của sự nỗ lực đày đọa bản thân làm bà ấy cứ bám chặt lấy ý nghĩ rằng bà ấy phải chịu trách nhiệm với tình trạng của con trai mình. Ý nghĩ sai lầm ấy trở thành idée fixe[*] với bà ấy. Nó tạo thành toàn bộ quan điểm tinh thần của bà ấy, và mang lại ý nghĩ về cuộc sống hầu hạ và hy sinh mà bà ấy đã sống trong bốn mươi năm.”

“Ở mức độ nào đó,” Vance hỏi, “có phải ông muốn nói hội chứng loạn thần kinh chức năng đã ảnh hưởng đến tâm trí của bà ấy?”

“Thật khó để nói như thế; và đó không phải là vấn đề tôi muốn nói đến. Tuy nhiên, tôi có thể nói điều này: bà ấy chắc chắn có bệnh; và tâm trí của bà ấy đã trở nên méo mó. Đôi khi - tôi nói điều này vì hoàn toàn tin tưởng ở các anh - có dấu hiệu rõ rệt của chứng loạn ảo về việc canh giữ con trai bà ấy. Sự an toàn của anh ta đã trở thành nỗi ám ảnh đối với bà ấy. Thực tế là không có gì mà bà ấy sẽ không làm cho anh ta.”

“Chúng tôi cảm kích sự tin tưởng của ông, thưa bác sĩ… Và không được hợp lý khi giả định rằng tình trạng khó chịu của bà ấy ngày hôm qua là kết quả của sự lo sợ hay cú sốc có liên quan đến sự an toàn của anh ta phải không?”

“Chắc chắn là như thế. Bà ấy không có đời sống cảm xúc hay tinh thần nào ngoài anh ta cả. Nhưng cho dù sự suy sụp tạm thời của bà ấy là do nỗi sợ hãi có thực hay tưởng tượng, không biết được. Bà ấy đã sống quá lâu ở ranh giới giữa hiện thực và ảo tưởng.”

Có một khoảng lặng ngắn,và sau đó Vance hỏi:

“Còn với bản thân Drukker: ông có nghĩ rằng anh ta có trách nhiệm với tất cả các hành động của mình không?”

“Vì anh ta là bệnh nhân của tôi,” bác sĩ Barstead đáp, với lời trách cứ lạnh lùng, “và vì tôi không có cách nào để cô lập anh ta, tôi nghĩ câu hỏi của anh rất vô lý.”

Markham cúi người và nói quả quyết.

“Chúng ta không có thời gian né tránh đâu, thưa bác sĩ. Chúng tôi đang điều tra một vụ giết người hàng loạt tàn bạo. Anh Drukker có liên quan đến những án mạng này - đến mức độ nào thì chúng tôi không biết. Nhưng nhiệm vụ của chúng tôi là phải tìm ra chúng.”

Phản ứng đầu tiên của vị bác sĩ là chống đối Markham; nhưng rõ ràng ông ấy đã bỏ qua, vì khi ông ấy trả lời, giọng nói khoan dung thật sự.

“Tôi không có lý do gì, thưa anh, để từ chối cung cấp thông tin cho các anh. Nhưng câu hỏi về trách nhiệm của Drukker là đổ lỗi cho sự sơ suất của tôi trong vấn đề an toàn cộng đồng. Tuy nhiên, có lẽ tôi đã hiểu lầm câu hỏi của quý ông đây.” Ông ấy nhìn Vance chốc lát. “Dĩ nhiên, có nhiều mức độ trách nhiệm,” ông ấy tiếp tục, trong cách nói của một chuyên gia. “Tâm trí của Drukker đã phát triển quá mức, thường như trường hợp của các bệnh nhân gù. Trong trường họp đó, tất cả các quá trình về tinh thần đều hướng nội; và thiếu các phản ứng tự nhiên thông thường có xu hướng tạo ra sự ức chế và khác thường. Nhưng tôi lưu ý là các dấu hiệu về tình trạng này không có ở anh Drukker. Anh ta dễ bị kích động; chỉ là, sau đó, hành động trong trạng thái bị kích động là một thứ kèm theo phổ biến ở bệnh tình của anh ta.”

“Thú tiêu khiển của anh ta là gì?” Vance bất chợt hỏi một cách nhã nhặn.

Bác sĩ Barstead suy nghĩ một lúc.

“Những trò chơi trẻ con, tôi nên nói thế. Thú tiêu khiển như thế không có gì là bất thường với người tàn tật. Ở trường hợp của anh Drukker đó là những gì chúng ta có thể gọi là sự đáp ứng thức tỉnh những mong ước. Có tuổi thơ bất thường, anh ta nắm lấy bất cứ thứ gì có thể làm cho anh ta có cảm giác về sự khôi phục lại tuổi thơ. Các hành động trẻ con của anh ta có xu hướng cân bằng sự đơn điệu trong cuộc sống hoàn toàn dựa vào tinh thần của anh ta.”

“Thái độ của bà Drukker hướng cho anh ta chơi gì?”

“Bà ấy đúng là rất khuyến khích chuyện đó. Tôi thường thấy bà ấy nghiêng người nhìn qua tường phía trên sân chơi trong công viên Riverside để coi chừng anh ta. Và bà ấy luôn chủ trì các bữa tiệc của lũ trẻ và các bữa ăn mà anh ta hay tổ chức ở nhà mình.”

Chúng tôi rời khỏi một vài phút sau đó. Khi chúng tôi rẽ vào đường số 76, Heath, như bị đánh thức khỏi một giấc mơ tồi tệ, hít một hơi thật sâu và ngồi thẳng lưng trong xe.

“Anh có nhận ra trò chơi trẻ con đó không?” anh ta hỏi, bằng giọng đầy lo lắng. “Chúa ơi, anh Vance! Vụ này sẽ trở thành cái gì đây?”

Một nỗi buồn kỳ lạ trong mắt Vance khi anh nhìn chăm chú về trước hướng về phía những vách đá Jersey mù sương nhô ra sông.

Chúng tôi bấm chuông nhà Drukker và được trả lời bởi một người phụ nữ Đức mập mạp, đứng trơ ra lạnh lùng nhìn chúng tôi và thông báo đáng ngờ rằng Drukker quá bận rộn không thể gặp bất kỳ ai.

“Dù thế nào đi nữa, bà nên nói với anh ta” Vance nói, “rằng công tố viên quận muốn nói chuyện với anh ta ngay lập tức.”

Lời nói của anh tạo ra phản ứng kỳ lạ đối với người phụ nữ. Tay bà ta đưa lên mặt, và bộ ngực phập phồng dữ dội. Sau đó, như thể hoảng sợ, bà ta quay người và đi lên lầu. Chúng tôi nghe thấy tiếng bà ta gõ cữa; có tiếng nói phát ra; và một lát sau bà ta trở lại thông báo với chúng tôi rằng Drukker sẽ gặp chúng tôi trong phòng làm việc của anh ta.

Khi chúng tôi đi ngang qua người phụ nữ thì đột nhiên Vance quay người và, nhìn chằm chằm bà ta một cách lo ngại, hỏi:

“Sáng hôm qua anh Drukker thức dậy lúc mấy giờ?”

“Tôi - không biết,” bà ta lắp bắp, hết sức sợ hãi. “À, à, tôi biết. Lúc 9 giờ - như mọi khi.”

Vance gật đầu và đi vào.

Drukker tiếp chúng tôi khi đang đứng cạnh một cái bàn lớn đầy những cuốn sách và những tờ bản thảo. Anh ta chào một cách ủ rũ, nhưng không mời chúng tôi ngồi.

Vance xem xét anh ta một lúc như thể cố gắng đọc bí mật nằm phía sau đôi mắt bồn chồn, trống rỗng của anh ta.

“Anh Drukker,” anh bắt đầu, “không phải chúng tôi muốn gây cho anh rắc rối không càn thiết; nhưng chúng tôi được biết anh có quen với cậu John Sprigg, người, như anh có lẽ đã biết, bị bắn gần nơi đây vào sáng hôm qua. Bây giờ, anh có nghĩ ra bất kỳ lý do gì làm cho một người nào đó có thể giết cậu ta không?”

Drukker đứng ngay đơ. Mặc dù anh ta cố giữ bình tĩnh, giọng nói của anh ta hơi run khi trả lời.

“Tôi biết cậu Sprigg sơ sơ. Tôi không nghĩ ra được điều gì liên quan đến cái chết của cậu ta…”

“Tìm thấy trên xác cậu ta một mảnh giấy về tensor Riemann-Christoffel mà anh giới thiệu trong cuốn sách của mình ở chương về tính hữu hạn của không gian vật lý.” Khi Vance nói, anh kéo một trong những mẩu giẩy đánh máy trên bàn về phía mình, và liếc nhìn nó một cách ngẫu nhiên.

Drukker dường như không quan tâm đến hành động này. Thông tin chứa đựng trong lời nói của Vance thu hút sự chú ý của anh ta.

“Tôi không thể hiểu được,” anh ta lơ đãng nói. “Tôi có thể xem ký hiệu đó không?”

Markham làm theo yêu cầu của anh ta. Sau khi nghiên cứu tờ giấy được một lúc Drukker đưa lại; và đôi mắt ti hí nheo lại một cách ác ý.

“Anh đã hỏi Arnesson về việc này chưa? Anh ta đã bàn với Sprigg đúng chủ đề này vào tuần rồi.”

“Ồ, phải,” Vance nói với anh ta một cách lơ đãng. “Anh Arnesson có nhớ lại việc đó, nhưng không thể tìm ra bất kỳ tia sáng nào trong đó. Chúng tôi tưởng anh có thể thành công khi anh ta thất bại.”

“Tiếc là tôi không thể giúp đỡ các anh.” Có sự gợi ý mỉa mai trong lời đáp lại của Drukker. “Bất cứ ai cũng có thể dùng tensor đó. Công trình của Weyl và Einstein đầy thứ này. Nó không phải độc quyền…” Anh ta cúi xuống kệ sách xoay và lấy ra một cuốn sách nhỏ mỏng khổ tám[*]. Đây là ‘Relativitatsprinzip’[*] của Minkowski[*], chỉ với những ký hiệu khác nhau - T với B, chẳng hạn; và những chữ cái Hy Lạp được biểu thị.” Anh ta với lấy cuốn sách khác. “Poincaré[*] cũng dùng nó trong ‘Hypotheses Cosmogoniques’[*] của ông ấy, cùng với những ký hiệu tương tự.” Anh ta quăng cuốn sách lên bàn một cách khinh khỉnh. “Tại sao lại đến tìm tôi về thứ này?”

“Không phải một mình công thức tensor đã dẫn bước chúng tôi lang thang đến chỗ anh,” Vance nói một cách nhẹ nhàng. “Chẳng hạn, chúng tôi có lý do để tin rằng cái chết của Sprigg có liên quan đến án mạng của Robin…”

Bàn tay dài của Drukker nắm lấy mép bàn, và anh ta chồm người ra trước, đôi mắt lóe lên một cách đầy kích động.

“Có liên hệ - Sprigg và Robin? Anh không tin vào lời nói của cánh nhà báo, phải không?… Đó là những lời nói dối chết tiệt!” Khuôn mặt anh ta bắt đầu co giật, và giọng nói của anh ta rít lên. “Đó là điều điên khùng vô nghĩa… Không có chứng cớ, tôi nói với anh - không một chút chứng cớ nào cả!”

“Chim Cổ Đỏ và Johnny Sprig, anh biết đó,” giọng nói nhẹ nhàng mà kiên định của Vance vang lên.

“Thật vớ vẩn! Thật vớ vẩn điên khùng! - Ôi, trời ơi! Thế giới này điên rồi!…” Anh ta lắc lư qua lại và đập tay lên bàn, khiến những tờ giấy bay tứ tung.

Vance nhìn anh ta với vẻ hơi ngạc nhiên.

“Không phải anh quen với Giám Mục sao, anh Drukker?”

Anh ta dừng lắc lư và, cố giữ bình tĩnh, nhìn chằm chằm vào Vance với sự dữ dội khủng khiếp. Miệng của anh ta giật giật ở khóe môi, giống như nụ cười gằn của bệnh loạn dưỡng cơ tiến triển[*].

“Cả các người, nữa! Các người điên rồi!” Anh ta quét mắt về phía chúng tôi. “Các người thật chết tiệt, ngu xuẩn không thể tả! Không có người nào là Giám Mục! Không có người nào là Chim Cổ Đỏ hay Johnny Sprig cả. Và các người ở đây - những người đàn ông trưởng thành - cố gắng hù dọa tôi - tôi, một nhà toán học - với những câu chuyện trẻ con!…” Anh ta bắt đầu cười một cách điên dại.

Vance đi nhanh đến chỗ anh ta, và cầm lấy cánh tay dẫn anh ta ngồi vào ghế. Tiếng cười của anh ta từ từ dừng lại và anh ta buông tay một cách mệt mỏi.

“Thật tệ khi Robin và Sprigg đều bị sát hại.” Giọng của anh ta nặng nề và thiếu sức sống. “Nhưng trẻ con chỉ là những người mà vấn đề này… Anh có thể tìm được hung thủ. Nếu anh không làm, tôi có thể sẽ giúp anh. Nhưng đừng để trí tưởng tượng dẫn anh đi. Giữ lấy sự thật… sự thật…”

Người đàn ông mệt lử, và chúng tôi đành rời khỏi.

“Anh ta sợ, Markham à - quá đỗi sợ hãi,” Vance nhận xét, khi chúng tôi trở lại sảnh. “Tôi có thể chịu được khi biết điều gì được giấu trong đầu óc sắc sảo nhưng lệch lạc của anh ta.”

Anh dẫn đường từ sảnh đến cửa phòng bà Drukker.

“Cách thức thăm hỏi một quý bà như thế này không phù hợp với tập quán xã hội tốt nhất. Thực ra, anh biết đấy, Markham, tôi không được sinh ra để làm cảnh sát. Tôi ghét phải rình mò.”

Trả lời tiếng gõ cửa của chúng tôi là giọng nói yếu ớt. Bà Drukker, tái nhựt hơn bình thường, đang nằm trên chiếc ghế dài bên cửa sổ. Đôi tay trắng nhợt của bà ấy nắm dọc theo tay ghế, được uốn cong nhẹ; và hơn bao giờ hết bà ấy khiến tôi nhớ lại những bức tranh mà tôi đã từng xem qua là những con quái điểu Harpy đói khát đã giày vò Phineus[*] trong câu chuyện về Argonauts[*].

Trước khi chúng tôi có thể lên tiếng thì bà ấy nói bằng giọng căng thẳng, đầy sợ hãi: “Tôi biết các người sẽ tới - tôi biết các người sẽ không tra tấn tôi…”

“Bà Drukker à, tra tấn bà,” Vance quay lại nhẹ nhàng, “là việc xa vời nhất nằm ngoài suy nghĩ của chúng tôi. Chúng tôi chỉ muốn bà giúp đỡ.”

Cách xử sự của Vance làm giảm bớt sự kinh hãi của bà ấy một chút, và bà ấy xem xét anh một cách thận trọng.

“Ước gì tôi có thể giúp các anh!” Bà ấy thì thầm. “Nhưng không được gì cả - không gì cả…”

“Bà có thể nói cho chúng tôi biết bà đã thấy được gì từ cửa sổ vào ngày anh Robin chết,” Vance đề nghị một cách tử tế.

“Không - không!” Đôi mắt bà ấy nhìn chằm chằm một cách khủng khiếp. “Tôi không thấy gì cả - tôi không ở gần cửa sổ vào sáng hôm đó. Các người có thể giết tôi, nhưng lời trăn trối của tôi sẽ là không - không - không!”

Vance chưa vội đi vào trọng tâm.

“Beedle nói với chúng tôi,” anh tiếp tục, “rằng bà thường dậy sớm và đi bộ trong vườn.”

“À, đúng.” Lời nói được thốt ra với một tiếng thở dài nhẹ nhõm. “Tôi không ngủ ngon vào buổi sáng. Tôi thường dậy với những con đau âm ỉ ở cột sống, và các cơ ở lưng cảm thấy cứng và đau đớn. Vậy nên tôi thức dậy và đi bộ trong sân mỗi khi thời tiết ấm áp.”

“Beedle đã thấy bà trong vườn vào sáng hôm qua.”

Người phụ nữ gật đầu một cách lơ đãng.

“Và cô ta cũng thấy giáo sư Dillard cùng với bà.”

Bà ấy gật đầu lần nữa, nhưng ngay sau đó bà ấy liếc mắt về phía Vance đầy kích thích.

“Ông ấy đôi khi đi cùng tôi,” bà ấy vội vàng giải thích. “Ông ấy cảm thấy tiếc cho tôi, và ông ấy ngưỡng mộ Adolph; ông ấy nghĩ nó là một thiên tài tuyệt đỉnh. Và nó là một thiên tài! Nó sẽ là một người vĩ đại - vĩ đại như giáo sư Dillard vậy – nếu nó không bị bệnh… Và tất cả đều là lỗi của tôi. Tôi đã để nó ngã khi còn là một đứa trẻ…” Một tiếng nấc khô khan làm lay động cơ thể gầy gò của bà ấy, và những ngón tay của bà co giật.

Sau một lúc Vance hỏi: “Bà và giáo sư Dillard nói chuyện gì trong vườn vào hôm qua?”

Sự xảo quyệt đột nhiên len lỏi trong cử chỉ của người phụ nữ này.

“Chủ yếu là về Adolph,” bà ấy nói, với vẻ cố tình hờ hững.

“Bà có thấy ai khác trong sân hay ở bãi tập bắn cung không?” Đôi mắt lơ đãng của Vance hướng về người phụ nữ.

“Không!” Một lần nữa cảm giác sợ hãi tràn ngập trong bà ấy. “Nhưng có người khác ở đó, phải không? - Ai đó không muốn bị nhìn thấy.” Bà ấy gật đầu một cách háo hức. “Có! Có người khác ở đó - và họ nghĩ tôi thấy họ… Nhưng tôi không thấy! Ôi, Chúa nhân từ, tôi không thấy!…” Bà ấy che mặt bằng đôi tay của mình, và toàn thân bà ấy run bần bật. “Phải chi tôi thấy được họ! Phải chi tôi biết! Nhưng đó không phải là Adolph - không phải con trai bé bỏng của tôi. Nó đang ngủ - cảm ơn Chúa, nó đang ngủ!”

Vance đến gần người phụ nữ.

“Tại sao bà lại cảm ơn Chúa rằng đó không phải con trai bà?” Anh nhẹ nhàng hỏi.

Bà ấy nhìn lên với vẻ ngạc nhiên.

“Tại sao, anh không nhớ à? Một người đàn ông nhỏ thó đã bắn Johnny Sprig bằng khẩu súng nhỏ sáng hôm qua - cũng giống với kẻ nhỏ thó đã giết Chim Cổ Đỏ bằng cung tên. Tất cả đó là một trò chơi kinh hoàng - và tôi sợ… Nhưng tôi không được nói - tôi không thể nói. Kẻ nhỏ thó đó có thể làm gì đó khủng khiếp. Có lẽ” - giọng bà ấy trở nên nặng nề với sự rùng rợn - “có lẽ hắn có ý tưởng điên khùng rằng tôi là một bà già sống trong chiếc giày!…”[*]

“Thôi nào, thôi nào, bà Drukker.” Vance gượng cười an ủi. “Những câu chuyện này thật vô nghĩa. Bà đã để những vấn đề này lẩn quẩn trong đầu mình. Có một lời giải thích hoàn toàn hợp lý cho mọi thứ. Và tôi có cảm giác rằng chính bà có thể giúp chúng tôi tìm được lời giải đó.”

“Không - không! Tôi không thể - tôi không được phép! Chính tôi cũng không thể hiểu được.” Bà ấy hít một hơi thật sâu đầy cương quyết, và mím môi lại.

“Tại sao bà không thể nói cho chúng tôi?” Vance kiên trì.

“Bởi vì tôi không biết,” bà ấy kêu lên. “Ước gì tôi biết được! Tôi chỉ biết là điều gì đó khủng khiếp đang xảy ra ở đây - rằng lời nguyền rủa kinh khủng nào đó đang treo lơ lửng trên ngôi nhà này…”

“Làm sao bà biết được?”

Người phụ nữ bắt đầu run rẩy dữ dội, và đôi mắt bà ấy đảo khắp phòng một cách điên cuồng.

“Bởi vì” - giọng của bà ấy chỉ vừa đủ nghe - “bởi vì kẻ nhỏ thó đó đã đến đây tối qua!”

Một cơn ớn lạnh chạy dọc theo xương sống của tôi khi nghe câu này, và tôi còn nghe được tiếng thở mạnh của viên trung sĩ. Sau đó là giọng nói điềm tĩnh của Vance vang lên.

“Sao bà biết hắn đã ở đây, bà Drukker? Bà đã thấy hắn sao?”

“Không, tôi không thấy hắn; nhưng hắn đã cố vào phòng này - bằng cánh cửa đó.” Bà ấy run rẩy chỉ về phía lối đi ở lành lang mà chúng tôi vừa đi vào.

“Bà phải nói với chúng tôi điều đó,” Vance nói; “hoặc chúng tôi sẽ đi đến kết luận rằng bà đã bịa ra câu chuyện này.”

“Ôi, nhưng tôi không hề bịa ra nó - có Chúa chứng giám!” Không có gì phải nghi ngờ về sự chân thật ở người phụ nữ này. Có điều gì đó đã diễn ra khiến bà ấy sợ chết khiếp. “Tôi đang nằm trên giường, vẫn còn thức. Cái đồng hồ nhỏ trên lò sưởi vừa điểm nửa đêm; và tôi nghe thấy tiếng sột soạt nhẹ ở ngoài hành lang. Tôi quay đầu về phía cửa - có một cái đèn ngủ sáng lờ mờ trên bàn ở đây… và sau đó tôi thấy tay nắm cửa xoay chầm chậm - một cách âm thầm - giống như ai đó cố gắng vào phòng mà không làm tôi thức giấc -”

“Đợi một chút, bà Drukker,” Vance cắt ngang. “Có phải bà luôn khóa cửa vào buổi tối không?”

“Tôi không hề khóa cửa đến tận gần đây - sau khi anh Robin chết. Tôi cảm thấy bất an từ đó - tôi không thể giải thích tại sao…”

“Tôi hơi hiểu rồi. Hãy tiếp tục câu chuyện. Bà nói bà thấy tay nắm cửa di chuyển. Và sau đó?”

“Phải - phải. Nó di chuyển nhẹ nhàng - quay qua quay lại. Tôi nằm trên giường, bất động vì sợ hãi. Nhưng sau một lát tôi kêu lên - tôi không biết là lớn đến thế nào; nhưng đột nhiên tay nắm cửa ngừng xoay, và tôi nghe tiếng bước chân đi khỏi một cách nhanh chóng - xuống sảnh… Sau đó tôi cố gắng ngồi dậy. Tôi đi đến cửa và nghe ngóng. Tôi lo sợ - lo sợ cho Adolph. Và tôi có thể nghe được những tiếng bước chân nhẹ nhàng đi xuống cầu thang - ”

“Cầu thang nào?”

“Ở phía sau - dẫn ra nhà bếp… Sau đó cánh cửa hiên lưới đóng lại, và tất cả trở lại im ắng… Tôi quỳ gối xuống, đưa tai vào lỗ khóa trong một thời gian dài, lắng nghe, chờ đợi. Nhưng không có gì xảy ra, và cuối cùng tôi đứng lên… Có cái gì đó dường như bảo tôi rằng tôi phải mở cửa. Tôi ở trong trạng thái quá đỗi kinh hãi - tuy vậy tôi biết tôi phải mở cửa…”

Một cái rùng mình chạy dọc theo cơ thể bà ấy. “Tôi xoay chìa khóa một cách nhẹ nhàng, và giữ tay nắm cửa. Khi tôi kéo cửa từ từ vào trong, một vật nhỏ để trên tay nắm cửa bên ngoài rớt xuống sàn kêu lách cách. Có một ánh đèn ở hành lang - tôi luôn để một ngọn đèn vào ban đêm, - và tôi cố gắng không nhìn xuống. Tôi đã cố - tôi đã cố… nhưng tôi không thể giữ mắt mình không nhìn xuống sàn. Và ở dưới chân tôi - ôi, Chúa ơi! - có cái gì đó nằm đấy!…”

Bà ấy không thể tiếp tục. Sự kinh hãi dường như đã làm lưỡi của bà ấy tê liệt. Giọng Vance bình tĩnh, không xúc động, tuy nhiên, trấn an bà ấy.

“Cái gì nằm trên sàn, bà Drukker?”

Người phụ nữ đứng dậy một cách khó khăn và tựa mình một lúc ở chân giường, đi đến bàn trang điểm. Kéo cái ngăn kéo nhỏ ra, bà ấy đưa tay vào và dò dẫm bên trong. Rồi bà ấy mở tay cho chúng tôi xem. Trong lòng bàn tay có một quân cờ nhỏ - bằng gỗ mun đen nổi bật trên làn da trắng bệch của bà ấy. Đó là quân cờ giám mục[*]!

Chú Thích:

[*] Chánh thanh tra O’Brien sau là chỉ huy của toàn bộ sở cảnh sát.

[*] Dramatis personae (tiếng Latin): những nhân vật trong vở kịch.

[*] Idée fixe (tiếng Pháp): định kiến.

[*] Trong ngành in ngày nay, sách khổ tám là sách có kích thước trang giấy khoảng 6x9 inch (15 X 23 cm).

[*] Relativitatsprinzip (tiếng Đức): thuyết tương đối.

[*] Hermann Minkowski (1864 - 1909): nhà toán học người Đức. Ông đã phát triển hình học số học và đã sử dụng phương pháp hình học để giải các bài toán khó trong lý thuyết số, vật lý toán và lý thuyết tương đối. Ông là một trong những thầy giáo của Albert Einstein tại Viện Bách khoa Liên bang, nay là Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ (ETH Zurich).

[*] Jules Henri Poincare (1854 - 1912): nhà toán học, nhà vật lý lý thuyết và triết gia người Pháp.

[*] Hypotheses Cosmogoniques (tiếng Pháp): giả thuyết về nguồn gốc vũ trụ.

[*] Loạn dưỡng cơ là thuật ngữ chỉ một nhóm các bệnh cơ có tính chất gia đình, di truyền, đặc trưng bởi yếu cơ tiến triển và teo cơ. Dù cho bệnh xuất hiện ở thời gian nào trong đời thì một số dạng loạn dưỡng cơ gây nên tình trạng cử động yếu hoặc thậm chí là tê liệt.

[*] Harpy: quái vật lai giữa một người phụ nữ và loài chim. Trong thần thoại Hy Lạp, câu chuyện về loài Harpy liên quan đến Phineus, vua của xứ Thrace. Thần Zeus không hài lòng bởi Phineus đã tiết lộ quá nhiều thiên cơ nên đã bày ra một hình phạt đối với vị vua này. Ông giam Phineus trên một hòn đảo với thức ăn ê hề, tuy vậy, mỗi lần Phineus định ăn một thứ gì đó thì lũ Harpy sẽ ngay lập tức nhào xuống cướp đồ ăn khỏi tay Phineus. Đây đúng là một hình phạt khủng khiếp khi có đồ ăn ngay trước mắt mà không thể ăn.

[*] Argonauts, nghĩa là “các thủy thủ của tàu Argo”, là một nhóm các anh hùng trong thần thoại Hy Lạp. Trong những năm trước khi cuộc chiến thành Troy diễn ra, vào thời điểm khoảng 1300 TCN, họ đã cùng Jason tới Colchis để tìm kiếm lông cừu vàng. Tên của họ bắt nguồn từ tên chiếc tàu, Argo, được đặt tên theo người chế tạo ra nó, Argus.

[*] “Một bà già sống trong chiếc giày” là một bài đồng dao trong tập “Đồng dao Mẹ Ngỗng”.

[*] Trong cờ vua, quân tượng (có nghĩa là voi) trong tiếng Việt tương ứng với quân bishop (có nghĩa là Giám mục) trong tiếng Anh. Đây là cách chơi chữ của tác giả khi dùng từ “bishop” để nói đến Giám mục và quân cờ. Để phù hợp với ngữ cảnh của tác phẩm, bản dịch tiếng Việt này dùng từ “quân (cờ) giám mục” khi nói đến quân cờ này.

[*] Imprimis (tiếng Latin): đầu tiên.