Chương 13 BÓNG ĐÁNG CỦA GIÁM MỤC-(Thứ Ba, 12 tháng Tư; 11 a.m.)
Vance cầm lấy quân cờ giám mục từ bà Drukker và bỏ nó vào trong túi áo khoác.
“Sẽ nguy hiểm lắm, thưa bà,” anh nói, với sự nghiêm trang ấn tượng, “nếu chuyện xảy ra ở đây vào tối hôm qua có người khác biết. Nếu người đã thực hiện trò đùa này với bà mà biết được bà đã thông báo cho cảnh sát, những cố gắng khác khiến bà sợ hãi sẽ được thực hiện. Cho nên, không một lời nào về chuyện bà vừa kể cho chúng tôi được phép rời khỏi môi bà.
“Cả Adolph tôi cũng không được nói sao?” Người phụ nữ bối rối hỏi.
“Không ai hết! Bà phải hoàn toàn giữ im lặng, ngay cả trước mặt con trai bà.”
Tôi không thể hiểu sự nhấn mạnh của Vance lên điểm này; nhưng trước khi nhiều ngày trôi qua thì tất cả mới trở nên quá rõ ràng với tôi. Lý do cho lời khuyên của anh được tiết lộ với một ảnh hưởng bi thảm; và tôi nhận ra rằng thậm chí ngay vào lúc tiết lộ của bà Drukker, bộ óc sắc sảo của anh đã tìm ra một suy luận chính xác kỳ lạ, và dự đoán trước những khả năng mà tất cả chúng tôi không ngờ đến.
Chúng tôi rời khỏi một lát sau đó, và xuống cầu thang phía sau. Cầu thang rẽ gắt sang bên phải xuống một chiếu nghỉ cách tám đến mười bậc bên dưới tầng hai, và dẫn ra một hành lang nhỏ tối tăm có hai cánh cửa - một cái bên trái, mở vào nhà bếp, và cái kia, nằm xéo đối diện, dẫn ra hiên nhà.
Ngay lập tức, chúng tôi bước ra ngoài hiên nhà, lúc này đang ngập nắng, và im lặng đứng đó cố gắng rũ bỏ cái không khí bao trùm lên chúng tôi bởi trải nghiệm đáng sợ của bà Drukker.
Markham là người đầu tiên lên tiếng.
“Vance, anh có tin rằng người đã mang quân cờ đó đến đây vào tối qua là kẻ đã giết Robin và Sprigg không?”
“Không còn nghi ngờ gì nữa. Mục đích cho chuyến viếng thăm lúc nửa đêm của hắn đã rõ ràng một cách gớm ghiếc rồi. Nó hoàn toàn phù hợp với những gì đã được phơi bày.”
“Với tôi đó chỉ là một trò đùa tàn nhẫn,” Markham đáp, “hành động của một con quỷ say xỉn.”
Vance lắc đầu.
“Đó là điều duy nhất trong toàn bộ cơn ác mộng này không thích hợp là một phần của sự hài hước điên loạn. Đó là một chuyến du ngoạn nghiêm túc chết chóc. Chính bản thân ác quỷ không bao giờ nghiêm trang đến vậy khi che đậy dấu vết của hắn. Bàn tay của con quỷ đặc biệt của chúng ta đã bị ép buộc, và hắn đã đi một nước táo bạo. Ôi trời, tôi suýt nữa đã thích tâm trạng vui vẻ của hắn hơn cái đã xúi giục hắn đột nhập vào đây tối hôm qua. Tuy nhiên, giờ đây chúng ta đã có một thứ rõ ràng để tiếp tục.”
Heath, mất kiên nhẫn với tất cả lập luận, nhanh chóng vớ ngay lời nhận xét cuối cùng này.
“Và đó có thể là gì, thưa anh?”
“Imprimis[*], chúng ta có thể giả định rằng kẻ hát rong chơi cờ vua của chúng ta hết sức quen thuộc với cách bố trí của căn nhà này. Đèn ngủ ở hành lang trên có thể đã chiếu sáng xuống cầu thang sau xa đến chiếu nghỉ, nhưng phần còn lại hẳn là chìm trong bóng tối. Hơn nữa, sự sắp xếp phía sau của căn nhà hơi phức tạp. Vậy nên, trừ phi hắn biết cách bố trí, hắn không thể nào không gây ra tiếng động khi tìm đường trong bóng tối. Rõ ràng, kẻ viếng thăm cũng biết bà Drukker ngủ ở phòng nào. Ngoài ra, hắn phải biết tối hôm qua Drukker đi ngủ vào lúc mấy giờ, bởi vì hắn không thể mạo hiểm vào đây trừ phi hắn đã cảm thấy chắc chắn không có gì trở ngại.”
“Điều đó không giúp ích cho chúng ta nhiều lắm,” Heath càu nhàu. “Chúng ta cứ luôn nói về giả thuyết rằng hung thủ biết rõ mọi chuyện có liên quan đến hai ngôi nhà này.”
“Đúng. Nhưng một người có thể khá thân thiết với một gia đình và vẫn không biết từng thành viên trong nhà đi ngủ lúc mấy giờ vào một đêm nào đó, hoặc cách để bí mật đột nhập vào ngôi nhà. Hơn nữa, trung sĩ à, kẻ viếng thăm lúc nửa đêm của chúng ta là ai đó biết rằng bà Drukker có thói quen để cửa phòng không khóa vào ban đêm; vì hắn có ý định đi vào trong phòng bà ấy. Mục đích của hắn không chỉ là để lại một vật nho nhỏ bên ngoài và rồi bỏ đi. Cái cách hắn im lặng lén lút thử tay nắm cửa chứng tỏ điều đó.”
“Có thể hắn chỉ đơn giản muốn đánh thức bà Drukker dậy để bà ấy phát hiện ra nó ngay lập tức.” Markham gợi ý.
“Vậy tại sao hắn lại xoay tay nắm cửa quá cẩn thận - cứ như cố gắng không đánh thức bất kỳ ai? Một tiếng lạch cạch của tay nắm cửa, hay là gõ nhẹ, hay thậm chí ném quân cờ vào cửa, có thể hoàn thành được mục đích đó tốt hơn nhiều… Không, Markham à; hắn có một mục đích trong đầu xấu xa hơn nhiều; nhưng khi bản thân hắn phát hiện bị cánh cửa khóa cản trở và nghe thấy tiếng kêu sợ hãi của bà Drukker, hắn mới đặt quân giám mục ở nơi bà ấy sẽ tìm thấy nó, và bỏ đi.”
“Nhưng mà, thưa anh,” Heath tranh luận, “bất cứ ai cũng có thể biết bà ấy để cửa không khóa vào ban đêm; và bất cứ ai cũng có thể biết được cách bố trí của ngôi nhà để lần mò đường trong bóng tối.”
“Nhưng, trung sĩ à, ai có chìa khóa mở cửa sau? Và ai có thể đã sử dụng nó lúc nửa đêm hôm qua?”
“Cánh cửa có thể đã không khóa,” Heath phản đối; “và khi chúng ta kiểm tra chứng cứ ngoại phạm của mọi người, chúng ta có thể lấy được đầu mối.”
Vance thở dài.
“Có lẽ anh sẽ tìm ra hai ba người không hề có chứng cứ ngoại phạm nào. Và nếu chuyến viếng thăm đến đây vào đêm qua đã được tính toán, một bằng chứng ngoại phạm thuyết phục có thể đã được chuẩn bị rồi. Chúng ta không phải đang đối phó với một kẻ khờ đâu, trung sĩ à. Chúng ta đang chơi một trò chơi sinh tử với một tên giết người xảo quyệt và đầy thủ đoạn, hắn có thể suy nghĩ nhanh như chúng ta, và hắn đã được đào tạo lâu năm bằng sự quỷ quyệt đầy logic…”
Như thể có sự thôi thúc bất ngờ, anh quay lại và đi vào cửa, ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Anh đi thẳng vào nhà bếp nơi người phụ nữ Đức đã mở cửa cho chúng tôi vào trước đó đang ngồi bên cạnh cái bàn chuẩn bị cho bữa ăn trưa. Bà ta đứng dậy khi chúng tôi bước vào và lùi xa khỏi chúng tôi. Vance, khó hiểu trước cách cư xử của bà ta, quan sát bà ta một lúc mà không nói gì. Rồi cặp mắt của anh hướng về phía cái bàn nơi một quả cà tím lớn được xẻ dọc làm đôi và được múc ra.
“A!” anh reo lên, liếc nhìn phần nguyên liệu của các món ăn khác nhau nằm rải rác. “Aubergines à la Turque[*] sao? Một món ăn tuyệt vời. Nhưng tôi sẽ thái thịt cừu mỏng hơn một chút nữa, nếu tôi là bà. Và không bỏ quá nhiều phô mai: nó làm giảm đi vị nước chấm Tây Ban Nha mà tôi thấy bà đang chuẩn bị kia.” Anh nhìn lên với một nụ cười dễ chịu. “Nhân tiện, bà tên gì vậy?”
Cách cư xử của anh khiến người phụ nữ rất đỗi ngạc nhiên, nhưng nó cũng có hiệu quả làm giảm bớt nỗi sợ hãi của bà ta.
“Menzel,” bà ta trả lời bằng giọng nói đơn điệu. “Grete Menzel.”
“Và bà đã làm cho nhà Drukker bao lâu rồi?”
“Hơn 25 năm.”
“Khá lâu,” Vance trầm tư nhận xét. “Hãy cho tôi biết: tại sao bà hoảng sợ khi chúng tôi đến đây sáng nay?”
Người phụ nữ trở nên ủ rũ, và hai bàn tay to lớn của bà ta nắm chặt lại.
“Tôi không hoảng sợ. Nhưng anh Drukker đang bận…”
“Bà tưởng có lẽ chúng tôi đến bắt anh ta,” Vance chen vào.
Mắt bà ta mở to, nhưng bà ta không trả lời.
“Sáng hôm qua anh Drukker thức dậy lúc mấy giờ?” Vance tiếp tục.
“Tôi đã nói rồi… 9 giờ - như mọi khi.”
“Anh Drukker thức dậy lúc mấy giờ?” Giọng nói nhấn mạnh, từng tiếng một của anh còn đáng ngại hon bất cứ âm điệu kịch tính nào.
“Tôi đã nói với anh…”
“Die Wahrheit, Frau Menzel! Um wie viel Uhr ist er aufgestanden?”[*]
Hiệu ứng tâm lý của sự lặp lại câu hỏi bằng tiếng Đức ngay lập tức có tác dụng. Hai bàn tay của người phụ nữ ôm lấy mặt, và một tiếng kêu kìm nén, như của một con thú bị sập bẫy, thoát ra từ bà ta.
“Tôi không… biết,” bà ta rên rỉ. “Tôi gọi anh ta lúc 8 giờ rưỡi, nhưng anh ta không trả lời, và tôi thử mở cửa… Nó không khóa và - Du lieber Gott![*] - anh ta đi mất rồi.”
“Tiếp theo bà thấy anh ta khi nào?” Vance nhẹ nhàng hỏi.
“Lúc 9 giờ. Tôi lên trên lầu một lần nữa để nói với anh ta rằng bữa sáng đã sẵn sàng. Anh ta ở trong phòng làm việc - ngay tại bàn - làm việc như điên, và hào hứng lắm. Anh ta bảo tôi đi đi.”
“Anh ta có xuống ăn sáng không?”
“Ja… ja.[*] Anh ta có xuống - nửa tiếng sau đó.”
Người phụ nữ nặng nhọc tựa vào khay úp ráo nước của bồn rửa chén dĩa, và Vance kéo một chiếc ghế cho bà ta.
“Ngồi xuống đi, bà Menzel,” anh tốt bụng nói. Khi bà ta đã làm theo, anh hỏi: “Tại sao sáng nay bà lại nói với tôi rằng anh Drukker thức dậy lúc 9 giờ?”
“Tôi phải nói như vậy… tôi được bảo phải nói như vậy.” Sức chống cự của bà ta đã biến mất, và bà ta hít thở nặng nhọc như một người bị kiệt sức. “Khi bà Drukker trở về từ nhà cô Dillard vào chiều hôm qua, bà ấy nói với tôi rằng nếu bất kỳ ai hỏi tôi câu đó về anh Drukker, tôi phải trả lời ‘9 giờ.’ Bà ấy bắt tôi thề phải nói như vậy…” Giọng nói của bà ta tắt lịm, và cặp mắt của bà ta đờ đẫn nhìn trân trân. “Tôi sợ không dám nói gì khác.”
Vance vẫn có vẻ bối rối. Sau khi hút vài hơi thuốc lá anh nói:
“Những điều bà nói với chúng tôi không ảnh hưởng gì đến bà đâu. Cũng không phải là bất thường khi một người phụ nữ bệnh tật như bà Drukker thực hiện một biện pháp kỳ quái như thế để bảo vệ con trai bà ấy khỏi sự nghi ngờ có thể, khi một vụ giết người đã làm liên lụy đến những người xung quanh. Bà chắc chắn đã ở cùng với bà ấy đủ lâu để nhận ra bà ấy có thể đã cường điệu hóa mọi khả năng nhỏ nhất có liên quan đến con trai bà ấy. Thật ra, tôi bất ngờ là bà lại xem nó quá nghiêm trọng… Bà có lý do nào khác để liên kết anh Drukker với tội ác này không?”
“Không… không!” Người phụ nữ bối rối lắc đầu.
Vance bước đến cửa sổ phía sau, nhíu mày. Đột nhiên anh xoay người lại. Anh trở nên nghiêm nghị và cứng rắn.
“Bà đã ở đâu, bà Menzel, vào buổi sáng anh Robin bị giết?”
Một sự thay đổi đáng kinh ngạc diễn ra ở người phụ nữ. Gương mặt bà ta tái nhợt; đôi môi run rẩy; và bà ta nắm chặt hai bàn tay với cử chỉ co giật. Bà ta cố gắng tránh nhìn Vance, nhưng có gì đó trong ánh nhìn của anh đã giữ bà ta lại.
“Bà đã ở đâu, bà Menzel?” Câu hỏi được lặp lại một cách sắc bén.
“Tôi đã ở… đây…” bà ta bắt đầu nói; sau đó đột ngột dừng lại và liếc mắt lo lắng nhìn Heath, người đang nhìn bà ta chằm chằm.
“Bà đã ở trong bếp?”
Bà ta gật đầu. Năng lực ngôn ngữ có vẻ đã từ bỏ bà ta.
“Và bà thấy anh Drukker trở về từ nhà Dillard?”
Bà ta lại gật đầu.
“Chính xác,” Vance nói. “Và anh ta đi vào bằng lối sau, qua hiên lưới, và đi lên lầu… Và anh ta không biết bà đã nhìn thấy anh ta qua cánh cửa nhà bếp… Và sau đó anh ta hỏi chuyện bà đã ở đâu vào lúc đó… Và khi bà nói với anh ta rằng bà đã ở trong nhà bếp thì anh ta cảnh báo bà phải im lặng về chuyện đó… Và rồi bà nghe tin về cái chết của Robin vài phút trước khi bà nhìn thấy anh ta đi vào đây… Và hôm qua, khi bà Drukker dặn bà phải nói anh ta đến 9 giờ mới thức dậy, và bà nghe nói rằng có người nào khác đã bị giết gần nơi đây, bà trở nên nghi ngờ và sợ hãi… Đúng như vậy không, bà Menzel?”
Người phụ nữ đang khóc nức nở thành tiếng trong tạp dề của mình. Không cần bà ta phải đáp lại, vì quá hiển nhiên rằng Vance đã đoán đúng.
Heath lấy điếu xì gà ra khỏi miệng và hung dữ quắc mắt nhìn bà ta.
“Thế đấy! Bà đã giấu tôi,” anh ta gầm lên, hất hàm về phía trước. “Bà nói dối với tôi khi tôi hỏi bà vào ngày hôm đó. Cản trở công lý, phải không?”
Bà ta nhìn Vance bằng ánh mắt van lơn sợ hãi.
“Trung sĩ à, bà Menzel,” anh nói, “không hề có ý định cản trở công lý. Và giờ đây bà ấy đã kể cho chúng ta nghe sự thật, tôi nghĩ chúng ta có thể bỏ qua sự lừa dối hoàn toàn tự nhiên của bà ấy trong trường hợp này.” Rồi trước khi Heath có thời gian để trả lời, anh quay sang người phụ nữ và hỏi bằng giọng bình thường: “Mỗi tối bà có khóa cửa dẫn ra hiên lưới không?”
“Ja… hằng đêm.” Bà ta nói một cách bơ phờ: phản ứng từ nỗi sợ của bà ta đã khiến bà ta hờ hững.
“Bà có chắc mình đã khóa nó vào đêm qua không?”
“Lúc 9 giờ rưỡi - khi tôi đi ngủ.”
Vance bước ngang lối đi nhỏ và kiểm tra cái khóa.
“Đây là loại khóa bấm,” anh quan sát, rồi quay trở lại. “Ai có chìa khóa mở cửa này?”
“Tôi có một chìa. Và bà Drukker… bà ấy cũng có một chìa.”
“Bà chắc là không còn ai khác có chìa khóa không?”
“Không còn ai nữa trừ cô Dillard…”
“Cô Dillard?” Giọng nói của Vance đột nhiên dội lại với sự thích thú. “Sao cô ấy lại có một chiếc?”
“Cô ấy đã có nó từ nhiều năm rồi. Cô ấy giống như một thành viên trong gia đình vậy - một ngày sang đây hai ba lần. Khi tôi ra ngoài tôi khóa cửa sau; và việc cô ấy có chìa khóa giúp bà Drukker đỡ phải đi xuống và mở cửa cho cô ấy vào.”
“Khá hợp lý,” Vance lẩm bẩm. Rồi nói tiếp: “Chúng tôi sẽ không làm phiền bà thêm nữa, bà Menzel à.” Anh bước ra ngoài hiên nhỏ sau nhà.
Khi cánh cửa đã được đóng lại sau lưng chúng tôi, anh chỉ vào cánh cửa lưới mở ra sân.
“Mọi người để ý tấm lưới thép này đã bị mở ra khỏi khung, cho phép một người thò tay vào trong và mở chốt cửa. Hoặc chìa khóa của bà Drukker hoặc của cô Dillard - có lẽ là cái sau - đã được sử dụng để mở cửa vào nhà.”
Heath gật đầu: khía cạnh hữu hình này của vụ án thu hút anh ta. Nhưng Markham không chú tâm đến. Anh ta đứng ở phía sau hút thuốc với sự giận dữ. Giờ đây anh ta cương quyết quay lại và vừa định bước lại vào căn nhà thì Vance chộp lấy cánh tay anh ta.
“Không… không, Markham! Đó sẽ là một phương pháp tồi tệ. Nén cơn giận của anh lại đi. Anh quá hấp tấp, anh biết đấy.”
“Nhưng, khốn kiếp thật, Vance à!” Markham hất tay anh ra. “Drukker đã nói dối chúng ta về việc ra khỏi cổng nhà Dillard trước khi xảy ra cái chết của Robin…”
“Tất nhiên anh ta đã nói dối. Tôi đã nghi ngờ từ lâu rằng lời giải thích mà anh ta nói với chúng ta về hành tung của mình sáng hôm đó chỉ là tưởng tượng. Nhưng giờ có đi lên trên đó và hăm dọa anh ta về chuyện đó cũng vô dụng. Anh ta sẽ đơn giản nói rằng người đầu bếp đã nhầm lẫn.”
Markham cảm thấy không thuyết phục.
“Nhưng còn sáng hôm qua thì sao? Tôi muốn biết anh ta đang ở đâu khi người đầu bếp gọi anh ta vào 8 giờ rưỡi. Tại sao bà Drukker lại quá lo lắng muốn chúng ta tin rằng lúc đó anh ta đang ngủ?”
“Bà ấy, có lẽ cũng đã đến phòng anh ta và thấy rằng anh ta đã biến mất. Rồi khi bà ấy nghe đến cái chết của Sprigg, trí tưởng tượng sốt sắng của bà ấy trở nên quá tải, và bà ấy quyết định tạo ra một bằng chứng ngoại phạm cho anh ta. Nhưng anh chỉ thêm rắc rối khi anh định công kích anh ta về sự mâu thuẫn trong câu chuyện của anh ta mà thôi.”
“Tôi không chắc đâu.” Markham nói với sự nghiêm trọng. “Tôi có thể mời gọi một giải pháp cho vụ việc ghê tởm này.”
Vance không trả lời ngay. Anh đứng nhìn xuống những cái bóng đung đưa trải dài trên bãi cỏ từ hàng cây liễu. Cuối cùng, anh trầm giọng nói:
“Chúng ta không thể mạo hiểm điều đó đứợc. Nếu điều anh đang nghĩ có thể được chứng minh là đúng, và anh phải tiết lộ thông tin anh mới nhận được, kẻ nhỏ thó đã đến đây vào tối qua có thể thập thò ở hành lang trên lầu lần nữa. Và lần này có thể hắn sẽ không thỏa mãn với việc chỉ để lại quân cờ của hắn ngoài cửa!”
Một cái nhìn khủng khiếp xuất hiện trong đôi mắt của Markham.
“Anh nghĩ tôi có thể gây nguy hiểm cho người đầu bếp nếu tôi dùng bằng chứng của bà ta chống lại anh ta vào lúc này ư?”
“Điều kinh khủng của sự việc này chính là, cho đến khi chúng ta biết được sự thật, chúng ta phải đối mặt với nguy hiểm mọi lúc.” Giọng nói của Vance nặng trĩu với sự chán nản. “Chúng ta không thể mạo hiểm để lộ bất kỳ ai…”
Cánh cửa dẫn ra hiên mở ra, và Drukker xuất hiện ở ngưỡng cửa, cặp mắt ti hí của anh ta chớp chóp trong ánh nắng. Ánh mắt của anh ta dừng lại ở Markham, và một nụ cười xảo trá lạnh lùng trên môi anh ta.
“Tôi tin là tôi không làm phiện mọi người,” anh ta xin lỗi, với một cái nheo mắt đe dọa; “nhưng người đầu bếp vừa mới báo cho tôi rằng bà ta đã kể cho các anh là bà ta thấy tôi vào đây bằng cửa sau vào buổi sáng xảy ra cái chết đáng tiếc của anh Robin.”
“Ôi, trời ơi!” Vance lầm bầm, quay người đi và ra vẻ bận bịu với việc chọn một điếu thuốc lá mới. “Vậy là quá lắm rồi.”
Drukker ném cho anh một cái nhìn tọc mạch, và đứng thẳng người lên với vẻ cay độc.
“Vậy thì sao, anh Drukker?” Markham hỏi.
“Tôi chỉ muốn khẳng định với anh,” người đàn ông trả lời, “rằng người đầu bếp đã nhầm lẫn. Rõ ràng bà ta đã nhớ nhầm ngày… Anh thấy đó, tôi thường đi đi về về bằng cửa sau này. Vào sáng ngày anh Robin chết, như tôi đã giải thích với anh, tôi rời bãi tập bằng cổng ở đường số 75 và, sau một chuyến tản bộ ngắn trong công viên, trở về nhà bằng lối cửa trước. Tôi đã thuyết phục được Grete rằng bà ta đã nhầm lẫn.”
Vance đã chăm chú lắng nghe anh ta. Giờ đây anh quay lại và bắt gặp nụ cười của người kia với vẻ ngây thơ nhạt nhẽo.
“Anh có tình cờ thuyết phục bà ta bằng một quân cờ không?”
Drukker giật mạnh đầu về phía trước và hít thở mạnh. Thân hình vặn vẹo của anh ta trở nên căng cứng; các cơ bắp quanh mắt và miệng của anh ta bắt đầu co giật; và gân cổ của anh ta nổi lằn lên. Trong một lúc tôi tưởng anh ta sẽ mất tự chủ; nhưng với sự nỗ lực hết sức anh ta đã giữ vững được bản thân.
“Tôi không hiểu ý của anh, thưa anh.” Có sự rung mạnh của một cơn thịnh nộ trong lời nói của anh ta. “Một quân cờ có liên quan gì đến chuyện đó?”
“Các quân cờ có nhiều tên khác nhau,” Vance nhẹ nhàng gợi ý.
“Anh đang nói về cờ vua với tôi sao?” Một sự khinh thường nham hiểm biểu lộ trong cách cư xử của Drukker, nhưng anh ta đã chuyển sang cười nhăn nhở. “Nhiều cái tên khác nhau, tất nhiên. Có quân vua và quân hậu, quân xe, quân mã…” Anh ta bỏ lửng. “Quân giám mục!… ” Anh ta tựa đầu lên khung cửa và bắt đầu cười mỉa mai. “Hóa ra! Ý của anh là vậy sao? Quân giám mục!… Các người là một đám con nít khờ dại đang chơi một trò chơi vớ vẩn.”
“Chúng tôi hoàn toàn có lý do để tin tưởng,” Vance nói, với sự bình tĩnh ấn tượng, “rằng trò chơi được một người nào đó chơi - với quân cờ giám mục là biểu tượng chính.”
Drukker bình tĩnh lại.
“Đừng xem tính thất thường của mẹ tôi quá nghiêm trọng,” anh ta nhắc nhở. “Trí tưởng tượng của bà ấy thường đánh lừa bà.”
“À! Tại sao anh nhắc đến mẹ của anh trong chuyện này?”
“Các anh vừa mới nói chuyện với bà ấy chứ gì? Và những lời bình luận của anh, tôi phải nói là, nghe có vẻ rất giống vài ảo tưởng vô hại của bà ấy lắm.”
“Mặt khác,” Vance nhẹ nhàng đáp, “mẹ của anh có thể có căn cứ rất tốt cho những niềm tin của bà ấy.”
Mắt Drukker nheo lại, và anh ta nhìn ngay sang Markham.
“Thật vớ vẩn!”
“À, thì,” Vance thở dài; “chúng ta sẽ không tranh luận vấn đề này nữa.” Rồi bằng một giọng điệu thay đổi anh bổ sung thêm: “Có thể sẽ giúp được chúng tôi đấy, anh Drukker, nếu chúng tôi biết anh đã ở đâu sáng hôm qua từ 8 đến 9 giờ.”
Người đàn ông hơi mở miệng ra cứ như định nói, nhưng đôi môi của anh ta nhanh chóng khép lại, và anh ta đứng nhìn Vance một cách thận trọng. Sau cùng, anh ta trả lời bằng giọng nhấn mạnh the thé.
“Tôi đang làm việc - trong phòng làm việc của mình - từ 6 giờ cho đến 9 giờ rưỡi.” Anh ta dừng lại, nhưng rõ ràng cảm thấy cần phải giải thích thêm. “Qua vài tháng nay, tôi đang làm công việc điều chỉnh lý thuyết dây ether để giải thích cho sự giao thoa ánh sáng, điều mà thuyết lượng tử không thể giải thích được. Giáo sư Dillard nói với tôi rằng tôi không thể làm được điều đó”; - một tia sáng say mê xuất hiện trong mắt anh ta - “nhưng sáng sớm hôm qua tôi đã thức giấc với một vài yếu tố của vấn đề được làm sáng tỏ; và tôi đã thức dậy và sang phòng làm việc của mình…”
“Như vậy anh đã ở đó.” Vance lơ đãng nói. “Không còn gì quan trọng nữa. Chúng tôi xin lỗi đã quấy rầy anh hôm nay.” Anh gật đầu ra dấu cho Markham, và di chuyển khỏi cánh cửa lưới. Lúc chúng tôi bước ra bãi tập, anh quay lại và, mỉm cười, nói khá êm ái: “Bà Menzel đang được chúng tôi bảo vệ. Chúng tôi sẽ cực kỳ đau lòng nếu có chuyện gì xảy ra với bà ấy.”
Drukker nhìn theo chúng tôi như bị thôi miên.
Ngay lúc chúng tôi đã ra khỏi tầm nghe, Vance di chuyển đến bên cạnh Heath.
“Trung sĩ,” anh nói bằng một giọng lo lắng, “hausfrau[*] thẳng thắn người Đức đó có thể đã vô tình đưa đầu mình vào tròng. Và - trời ạ! - tôi lo lắm. Tốt hơn là anh nên cho một người giỏi giang đến để theo dõi nhà Drukker tối nay - từ phía sau nhà, dưới hàng cây liễu đó. Và bảo anh ta xông vào khi có tiếng thét hoặc tiếng kêu cứu đầu tiên… Tôi sẽ ngủ ngon hơn nếu tôi biết có một thiên sứ mặc thường phục canh giữ giấc ngủ của bà Menzel.”
“Tôi hiểu rồi, thưa anh.” Gương mặt của Heath dữ tợn. “Sẽ không có tay kỳ thủ nào làm bà ta lo lắng đêm nay đâu.”
Chú Thích:
[*] Aubergines à la Turque (tiếng Pháp): món cà tím Thổ Nhĩ Kỳ.
[*] Tiếng Đức: “Sự thật, bà Menzel! Anh ta thức dậy lúc mấy giờ?”
[*] Tiếng Đức: Lạy Chúa!
[*] Tiếng Đức: có, phải, vâng.
[*] Tiếng Đức: bà nội trợ.
[*] Đại úy Hagedorn là chuyên gia về súng ngắn của sở cảnh sát New York. Đó là người, trong vụ án mạng Benson, đã đưa cho Vance dữ liệu xác nhận chiều cao của kẻ sát nhân; và là người thực hiện việc kiểm tra ba đầu đạn được bắn ra từ khẩu súng lục Smith & Wesson cũ trong vụ án mạng Greene.