Chương 14 BÀN CỜ VUA-(Thứ Ba, 12 tháng Tư; 11.30 a.m.)
Khi chúng tôi chậm rãi bước về phía nhà Dillard thì quyết định điều tra ngay lập tức được đưa ra là nên được thực hiện tại nơi mà đêm trước tất cả mọi người đều có liên quan với thảm kịch ghê rợn này.
“Chúng ta phải cẩn thận, tuy nhiên, không được để lộ ra bất kỳ chuyện gì đã xảy ra với bà Drukker,” Vance căn dặn. “Kẻ mang quân giám mục tới lúc nửa đêm của chúng ta không nghĩ là chúng ta đã biết được chuyến viếng thăm của hắn. Hắn tin rằng quý bà tội nghiệp ấy đã quá sợ hãi không dám nói cho chúng ta nghe.”
“Tôi nghĩ,” Markham phản đối, “rằng anh đang trói buộc quá nhiều thứ quan trọng vào tình tiết.”
“Ồ, ông bạn ơi!” Vance dừng lại một lúc và đặt cả hai tay lên vai người kia. “Anh quá mệt mỏi rồi - đó là thiếu sót lớn của anh. Anh không cảm thấy - anh không còn bản chất của trẻ con. Sự thi vị trong tâm hồn anh đã trở nên chán ngắt rồi. Mặt khác, bây giờ tôi lại để trí tưởng tượng của mình dẫn dắt hết thảy mọi việc; và tôi nói cho anh biết rằng việc để lại quân giám mục đó ngay cửa phòng bà Drukker không phải là một trò đùa ngày Halloween, mà là hành động liều lĩnh của gã liều mạng đó. Điều đó có nghĩa như một lời cảnh báo.”
“Anh nghĩ bà ấy biết điều gì đó phải không?”
“Tôi nghĩ bà ấy đã thấy xác của Robin được đặt ở bãi tập. Và tôi nghĩ bà ấy đã thấy gì đó khác nữa - một thứ gì đó mà bà ấy không nên nhìn thấy.”
Chúng tôi di chuyển trong im lặng. Ý định của chúng tôi là băng qua cổng rào ra đường số 75 và đến cửa trước nhà Dillard; nhưng khi chúng tôi đi qua phòng bắn cung thì cửa tầng hàm đang mở, và Belle Dillard đứng trước mặt chúng tôi một cách lo lắng.
“Tôi thấy các anh xuống bãi tập,” cô ấy nói, với sự nôn nóng và lo lắng, chú tâm đến Markham. “Trong hơn một giờ tôi đã chờ đợi để có thể liên lạc được với anh - bằng cách gọi đến văn phòng của anh…” Cử chỉ của cô ấy trở nên bối rối. “Có gì đó kỳ lạ đã xảy ra. Ôi, nó không có nghĩa gì cả… nhưng khi tôi đi qua phòng bắn cung tại đây vào sáng nay, để gặp quý bà Mae, có gì đó thúc đẩy tôi đi đến tủ dụng cụ và nhìn vào ngăn kéo, nó dường như rất… rất kỳ quặc vì khẩu súng lục nhỏ bị đánh cắp… Và nó nằm trong đó - rõ như ban ngày vậy - bên cạnh khẩu súng kia!” Cô ấy lấy hơi. “Anh Markham, ai đó đã đặt nó trở lại đây vào đêm qua!”
Thông tin này làm Heath bị kích động.
“Cô chạm vào nó chưa?” Anh ta hỏi một cách xúc động.
“Sao… không…”
Anh ta đẩy cô ấy qua một bên khá thô lỗ và, đi đến tủ dụng cụ, kéo mạnh ngăn kéo ra. Ở đó, bên cạnh khẩu súng tự động lớn hơn mà chúng tôi thấy vào ngày hôm trước, khẩu súng lục nhỏ nằm ngay đó. Đôi mắt của viên trung sĩ sáng lên khi anh ta thọt cây viết chì xuyên qua vòng cản và nâng nó lên một cách cẩn thận. Anh ta đưa nó ra trước ánh sáng và ngửi ở cuối nòng súng.
“Ổ đạn trống rỗng,” anh ta tuyên bố, với sự hài lòng. “Và nó được bắn ra gần đây… Điều này hẳn sẽ đưa chúng ta đến nơi nào đó.” Anh ta nhẹ nhàng bọc khẩu súng lại trong khăn tay và đặt nó vào túi áo khoác. “Tôi sẽ đưa nó cho Dubois để nhận diện dấu vân tay; và tôi sẽ đưa cho đại úy Hagedorn[*] kiểm tra những viên đạn.”
“Thật sự bây giờ, trung sĩ à,” Vance đùa cợt nói; “anh có nghĩ rằng quý ông mà chúng ta đang tìm kiếm đã xóa sạch dấu vết trên cây cung và mũi tên và sau đó để lại dấu vân tay của hắn trên khẩu súng không?”
“Tôi không có được trí tưởng tượng của anh, anh Vance,” Heath cáu kỉnh đáp lại. “Vì vậy tôi sẽ tích cực làm những điều nên làm.”
“Anh hoàn toàn đúng.” Vance mỉm cười khâm phục về tính vô cùng kỹ lưỡng của người kia. “Hãy bỏ qua cho tôi về việc cố làm anh cụt hứng.”
Anh ta quay sang Belle Dillard.
“Chúng tôi đến đây chủ yếu để gặp giáo sư và anh Arnesson. Nhưng cũng có một vấn đề chúng tôi muốn nói với cô. - Chúng tôi biết cô có chìa khóa cửa sau nhà Drukker.”
Cô ấy bối rối gật đầu với anh.
“Đúng thế; tôi có nó nhiều năm rồi. Tôi qua lại rất nhiều; và việc này bớt làm phiền quý bà Mae…”
“Điều chúng tôi quan tâm đến chiếc chìa khóa này là nó có thể đã được sử dụng bởi người nào đó không có quyền dùng nó.”
“Nhưng điều đó là không thể. Tôi chưa bao giờ cho ai mượn cả. Và tôi luôn để nó trong túi xách của tôi.”
“Thường có ai biết cô có chìa khóa nhà Drukker không?”
“Tại sao… tôi nghĩ rằng.” Cô ấy lúng túng thấy rõ. “Tôi chưa bao giờ bí mật về điều đó. Gia đình tôi tất nhiên biết việc này.”
“Và có thể cô đã đề cập hoặc để lộ việc này khi có người ngoài hiện diện?”
“Có thể - mặc dù tôi không nhớ ra trong trường hợp cụ thể nào.”
“Lúc này cô có chắc còn giữ chìa khóa chứ?”
Cô ấy giật mình nhìn Vance, và không nói một lời vớ lấy cái túi da cá sấu đang nằm trên cái bàn bằng liễu gai. Mở nó ra, cô ấy ngay lập tức cảm giác được nó nằm bên trong một ngăn của cái túi.
“Có!” Cô ấy thông báo, với sự nhẹ nhõm. “Đây là nơi tôi luôn giữ nó… Sao anh lại hỏi tôi về nó?”
“Điều quan trọng là chúng tôi biết ai có quyền ra vào nhà Drukker,” Vance nói với cô ấy. Sau đó, trước khi cô ấy có thể thắc mắc nhiều hơn, anh hỏi:
“Có khi nào chìa khóa có thể đã rời khỏi cô vào tối qua? Nghĩa là, có thể nó đã bị lấy ra khỏi túi xách của cô mà cô không biết?
Gương mặt của cô ấy có nét sợ hãi.
“Ôi, chuyện gì đã xảy ra?” Cô ấy bắt đầu; nhưng Vance đã ngắt lời.
“Làm ơn, cô Dillard! Không có gì để cô phải lo lắng cả. Chúng tôi chỉ cố gắng loại bỏ một số khả năng mơ hồ trong mối liên hệ với cuộc điều tra của chúng tôi. - Hãy cho tôi biết: có thể có người nào đó đã lấy chìa khóa của cô vào tối qua không?”
“Không ai cả,” cô ấy trả lời một cách khó khăn. “Tôi đi xem kịch lúc 8 giờ tối, và toàn bộ thời gian đó tôi đã mang theo túi xách của mình.”
“Lần cuối cô dùng chìa khóa đó là khi nào?”
“Sau bữa ăn tối hôm qua. Tôi chạy qua xem quý bà Mae như thế nào và nói chúc ngủ ngon với bà ấy.”
Vance hơi cau mày. Tôi có thể thấy được thông tin này không khớp với giả thuyết mà anh nghĩ ra.
“Cô đã sử dụng chìa khóa sau bữa ăn tối,” anh tóm tắt lại, “và giữ nó trong túi xách của cô suốt buổi tối còn lại, không hề rời khỏi tầm mắt của cô. - Đúng chứ, cô Dillard?”
Cô gái gật đầu.
“Tôi thậm chí còn giữ cái túi bên mình suốt vở kịch,” cô ấy nhấn mạnh.
Vance trầm ngâm nhìn cái túi xách.
“Được rồi,” anh nhẹ nhàng nói, “vậy đây là kết thúc câu chuyện về chiếc chìa khóa. Và bây giờ chúng tôi sẽ làm phiền bác của cô một lần nữa. Cô có nghĩ rằng tốt hơn cô sẽ là avant – courier[*] của chúng tôi; hay chúng tôi nên xông vào mà không báo trước?”
“Bác tôi ra ngoài rồi,” cô ấy cho chúng tôi biết. “Ông ấy đi bộ theo đường Drive.”
“Còn anh Arnesson, tôi đoán là, vẫn chưa trở về từ trường đại học.”
“Chưa; nhưng anh ấy sẽ ở đây vào bữa ăn trưa. Anh ấy không có lớp vào chiều thứ Ba.”
“Vậy, trong lúc chờ đợi, chúng tôi sẽ trao đổi với Beedle và ông Pyne. - Và tôi muốn gợi ý rằng cô nên sang thăm bà Drukker thì tốt hơn.”
Với nụ cười phiền muộn và cái gật đầu nhẹ, cô gái đi qua cửa tầng hầm.
Heath ngay lập tức tìm Beedle và Pyne rồi đưa họ đến phòng khách, nơi Vance sẽ hỏi họ về đêm hôm trước. Tuy nhiên không có thông tin gì thu được từ họ. Cả hai đều đi ngủ lúc 10 giờ. Phòng của họ nằm ở tầng bốn phía bên sườn của ngôi nhà; và họ thậm chí không nghe thấy cô Dillard khi cô ấy trở về từ nhà hát kịch. Vance hỏi họ về tiếng động trong bãi tập, và cho hay rằng cửa hiên lưới nhà Drukker có thể bị đóng sầm lại lúc khoảng nửa đêm. Nhưng dường như cả hai đều ngủ vào giờ đó. Cuối cùng họ được cho đi với lời cảnh báo rằng không được kể lại bất kỳ câu hỏi nào mà họ vừa được hỏi.
Năm phút sau giáo sư Dillard bước vào. Mặc dù ngạc nhiên khi thấy chúng tôi, ông ấy vẫn hòa nhã chào chúng tôi.
“Chỉ mỗi lần này, Markham à, anh chọn thời điểm ghé thăm khi tôi không đang làm việc. Có nhiều câu hỏi, tôi nghĩ thế. Được, tới thư viện để thẩm vấn nào. Ở đó thoải mái hơn nhiều.” Ông ấy dẫn đường lên cầu thang, và khi chúng tôi ngồi xuống ông ấy nhất định mời chúng tôi cùng thưởng thức rượu vang do chính ông ấy phục vụ từ tủ búp phê.
“Drukker nên ở đây,” ông ấy nhấn mạnh. “Anh ta thích rượu vang port[*] ‘96,’ mặc dù anh ta chỉ uống nó trong những dịp đặc biệt. Tôi đã nói anh ta nên uống nhiều hơn; nhưng anh ta nghĩ rằng nó không tốt cho mình, và chỉ vào bệnh gout của tôi. Nhưng không có liên quan gì giữa bệnh gout và rượu port - khái niệm này chỉ là mê tín. Rượu port là loại rượu vang tốt cho sức khỏe. Bệnh gout không được biết đến ở Oporto[*]. Một ít kích thích vật lý đúng cách sẽ tốt cho Drukker… Tội nghiệp anh ta. Tâm trí của anh ta như cái lò nung đốt nóng cơ thể anh ta lên. Một người đàn ông tài giỏi, Markham à. Nếu anh ta có đủ năng lượng cho cơ thể để bắt kịp với bộ não của mình, anh ta có thể là một trong những nhà vật lý vĩ đại của thế giới.”
“Anh ta nói với tôi,” Vance bình luận, “rằng ông chê trách anh ta vì không thể tìm ra sự biến đổi của thuyết lượng tử trong giao thoa ánh sáng.”
Ông lão cười một cách buồn bã.
“Đúng thế. Tôi biết một lời phê bình như vậy sẽ thúc đẩy anh ta nỗ lực tối đa. Sự thật là, Drukker đang trên con đường của một cuộc cách mạng. Anh ta đã tìm ra vài định lý thú vị… Nhưng tôi chắc rằng đây không phải là điều mà quý ông như anh đến đây để bàn luận. Tôi có thể làm gì cho anh, Markham? Hoặc, có lẽ anh mang đến đây cho tôi vài tin tức.”
“Không may là chúng tôi không có tin tức gì cả. Chúng tôi đến để tìm sự giúp đỡ lần nữa…” Markham ngập ngừng như không biết làm sao để bắt đầu; và Vance đảm nhận vai trò là người hỏi.
“Tình hình đã thay đổi phần nào kể từ khi chúng tôi ở đây ngày hôm qua. Một hai vấn đề đã nảy sinh, và có một khả năng rằng cuộc điều tra của chúng tôi sẽ được thuận lợi nếu chúng tôi biết hành động chính xác của các thành viên trong gia đình ông tối qua. Những hành động này, thực tế, có thể đã ảnh hưởng đến những yếu tố nào đó trong trường hợp này.”
Giáo sư ngẩng đầu lên trong sự ngạc nhiên, nhưng không có bình luận gì.
Ông ấy chỉ nói: “Thông tin đó rất dễ cung cấp. Anh muốn hỏi người nào?”
“Không có thành viên cụ thể nào,” Vance vội vàng quả quyết với ông ấy.
“Được, để tôi xem…” Ông ấy lấy tẩu thuốc cũ ra và bắt đầu nhồi thuốc vào. “Belle, Sigurd và tôi có bữa tối vào lúc 6 giờ. Lúc 7 giờ rưỡi Drukker ghé qua, và vài phút sau Pardee đến. Sau đó, lúc 8 giờ Sigurd và Belle đến nhà hát, và lúc 10 giờ rưỡi Drukker và Pardee đi khỏi. Tôi đi ngủ sau 11 giờ một chút, sau khi khóa cửa nhà - tôi đã để Pyne và Beedle đi ngủ sớm. - Và đó là tất cả những gì tôi có thể nói với anh.”
“Không biết tôi hiểu là cô Dillard và anh Arnesson đi đến nhà hát cùng nhau thì có đúng không?”
“Đúng. Sigurd hiếm khi lui tới nhà hát, ngoại trừ mỗi khi nó đưa Belle đi. Nó có mặt ở các vở kịch của Ibsen, phần lớn vở kịch. Dù sao thì, nó là môn đồ sùng đạo của các vở kịch Ibsen. Nền giáo dục Mỹ của nó không hề có thứ nào làm giảm nhiệt tình của nó dành cho những thứ thuộc về Na Uy. Trong thâm tâm, nó khá trung thành với đất nước mình. Nó là kho tàng về văn học Na Uy như một giáo sư ở đại học Oslo; và loại âm nhạc duy nhất nó thực sự quan tâm đến là của Grieg[*]. Khi nó đến các buổi hòa nhạc hoặc nhà hát chắc chắn nó sẽ tìm các chương trình về Na Uy.”
“Vậy, đó là vở kịch nào của Ibsen mà anh ta đã xem tối qua?”
“Vở ‘Rosmersholm,’[*] tôi nghĩ vậy. Đây là sự hồi sinh những vở kịch của Ibsen ở New York hiện tại.”
Vance gật đầu. “Walter Hampden[*] đang thực hiện chúng. - Ông có thấy anh Arnesson hoặc cô Dillard sau khi họ từ nhà hát trở về không?”
“Không; chúng về khá trễ, tôi nghĩ vậy. Sáng nay Belle nói với tôi rằng chúng đến Plaza ăn tối sau vở kịch. Tuy nhiên, Sigurd sẽ đến đây vài phút nữa, và anh có thể tìm hiểu chi tiết từ nó.” Mặc dù vị giáo sư nói chuyện với thái độ kiên nhẫn, rõ ràng ông ấy thấy khó chịu bởi những việc dường như không liên quan của cuộc thẩm vấn.
“Thưa giáo sư, không biết ông có vui lòng,” Vance tiếp tục nói, “kể cho chúng tôi tình huống có liên quan đến chuyến ghé thăm của anh Drukker và ông Pardee ở đây sau bữa tối?”
“Chẳng có gì bất thường về việc họ ghé thăm cả. Họ thường hay ghé vào buổi tối. Mục đích ghé qua của Drukker là bàn luận với tôi về công trình anh ta đã làm về sự biến đổi của thuyết lượng tử; nhưng khi Pardee xuất hiện, cuộc bàn luận bị bỏ ngang. Pardee là một nhà toán học giỏi, nhưng vật lý cao cấp vượt quá sự hiểu biết của anh ta.”
“Có phải Drukker hay Pardee thấy cô Dillard trước khi cô ấy đến nhà hát không?”
Giáo sư Dillard lấy cái tẩu một cách chậm rãi ra khỏi miệng, và biểu hiện của ông ấy trở nên tức giận.
“Tôi phải nói rằng,” ông ấy trả lời gắt gỏng, “tôi thấy chẳng có mục đích phù hợp nào trong việc trả lời những câu hỏi như thế. - Tuy nhiên,” ông ấy bổ sung, bằng giọng dịu hơn, “nếu mấy chuyện linh tinh trong gia đình tôi có thể giúp ích cho các anh, dĩ nhiên tôi sẽ rất vui lòng kể chi tiết.” Ông ấy nhìn Vance một lúc. “Đúng thế, cả Drukker và Pardee đã thấy Belle tối qua. Tất cả chúng tôi, kể cả Sigurd, đã cùng ở trong căn phòng này khoảng nửa tiếng trước giờ nhà hát diễn. Đó là cuộc bàn luận bình thường về tài năng của Ibsen, trong đó Drukker rất khó chịu với Sigurd bằng cách bảo vệ ý kiến về sự xuất sắc vượt trội của Hauptmann[*].”
“Sau đó đến 8 giờ, theo tôi được biết, anh Arnesson và cô Dillard đã rời khỏi, còn lại ông, ông Pardee và anh Drukker ở đây.”
“Chính xác.”
“Và lúc 10 giờ rưỡi, tôi nghĩ ông đã nói, anh Drukker và ông Pardee đi khỏi. Họ có đi chung không?”
“Họ đi xuống cầu thang cùng nhau,” vị giáo sư trả lời, và gợi ý thêm. “Drukker, tôi nghĩ rằng, đi về nhà; còn Pardee có một buổi hẹn ở câu lạc bộ cờ vua Manhattan.”
“Dường như là khá sớm để Drukker về nhà,” Vance trầm ngâm, “đặc biệt khi anh ta đến để bàn về một vấn đề quan trọng với ông và không có cơ hội thích hợp nào để trình bày cho đến lúc anh ta rời khỏi.”
“Drukker không được khỏe.” Giọng của giáo sư một lần nữa tỏ ra thận trọng, điềm tĩnh. “Như tôi đã nói với anh, anh ta dễ mệt mỏi. Và tối qua anh ta mệt mỏi một cách bất thường. Thực ra, anh ta có than phiền với tôi về sự mệt mỏi của mình và nói anh ta cần đi nghỉ ngay.”
“Đúng… khá là thích họp,” Vance thì thầm. “Vài phút trước đây, anh ta có nói với chúng tôi rằng anh ta dậy làm việc lúc 6 giờ sáng hôm qua.”
“Tôi không ngạc nhiên. Một khi có vấn đề được đặt ra trong đầu, anh ta sẽ làm việc không ngừng nghỉ. Tiếc thay anh ta không có phản ứng bình thường nào để cân bằng niềm đam mê cháy bỏng của mình dành cho toán học. Đã nhiều lần tôi lo sợ cho sự ổn định thần kinh của anh ta.”
Vance, vì lý do nào đó, rõ ràng đã lái sang vấn đề này.
“Ông nói về cuộc hẹn của ông Pardee ở câu lạc bộ cờ vua tối qua,” anh nói, khi đang cẩn thận châm một điếu thuốc mới. “Ông ta có đề cập đến nội dung của nó với ông không?”
Giáo sư Dillard cười với vẻ bề trên một cách khoan dung.
“Anh ta nói về điều đó cả tiếng đồng hồ. Một quý ông tên Rubinstein xuất hiện - thiên tài cờ vua của thế giới, theo tôi hiểu, người mà giờ đang thăm thú đất nước này - đã đọ sức với anh ta trong ba trận đấu. Trận cuối cùng là vào hôm qua. Nó bắt đầu lúc 2 giờ, và bị hoãn lại đến 6 giờ. Nó sẽ được đấu lại lúc 8 giờ, nhưng Rubinstein được mời dự bữa tiệc nào đó ở trung tâm thành phố; nên thời gian tổ chức đấu lại là 11 giờ, Pardee lo sốt vó, vì anh ta thua ở trận đầu và hòa ở trận thứ hai; và nếu anh ta có thể thắng trận tối hôm qua thì anh ta sẽ hòa với Rubinstein. Dường như anh ta nghĩ mình có cơ hội tuyệt vời nếu trận đấu diễn ra lúc 6 giờ; mặc dù Drukker không đồng ý với anh ta… Chắc hẳn anh ta đã đi thẳng từ đây đên câu lạc bộ, đó là lúc 10.30 khi anh ta và Drukker đi khỏi.”
“Rubinstein là một người chơi giỏi,” Vance nhận xét. Một lưu ý đáng quan tâm mới, cái mà anh cố gắng để che giấu, đã hiện lên trong giọng nói của anh. “Ông ta là một trong những bậc thầy của trò chơi này. Ông ta đánh bại Capablanca ở San Sebastian năm 1911, và từ 1907 đến 1912 được coi là đối thủ nặng ký cho danh hiệu thế giới được nắm giữ bởi tiến sĩ Lasker[*]… Đúng thế, đó sẽ là niềm tự hào to lớn của Pardee nếu đánh bại được ông ta. Thật vậy, đó không phải là lời khen ngợi nhỏ bé dành cho ông ta khi thi đấu với Rubinstein. Pardee, mặc dù nổi tiếng về thế cờ của mình, chưa bao giờ là một bậc thầy. - Nhân tiện, ông có nghe gì về kết quả của trận đấu tối qua chưa?”
Một lần nữa tôi để ý thấy một nụ cười khoan dung thoáng qua ở khóe miệng của vị giáo sư. Có cảm giác rằng ông ấy đang nhân từ nhìn xuống những trò chơi ngốc nghếch của trẻ con từ độ cao trí tuệ nào đó.
“Không,” ông ấy trả lời; “tôi không hỏi thăm. Nhưng phỏng đoán của tôi là Pardee thua; vì khi Drukker chỉ ra nhược điểm trong vị trí lúc hoãn lại, anh ta quả quyết hơn bình thường. Bản chất của Drukker là thận trọng, và anh ta ít khi bày tỏ một quan điểm rõ ràng về một vấn đề mà không có căn cứ vững chắc.”
Vance nhướng mày ngạc nhiên.
“Ý của ông muốn nói là Pardee đã phân tích trận đấu dở dang của mình với Drukker và thảo luận những khả năng kết thúc? Không chỉ là không đúng nội quy, mà bất kỳ người chơi nào cũng sẽ bị loại nếu làm như vậy.”
“Tôi không biết chi tiết về cờ vua,” giáo sư Dillard quay lại một cách gay gắt; “nhưng tôi chắc rằng Pardee sẽ không vi phạm nội quy trong vấn đề này. Và, như thực tế, tôi nhớ rằng khi anh ta đối mặt với những quân cờ ở trên bàn bên kia và Drukker bước lên để xem, Pardee yêu cầu anh ta đừng cho lời khuyên. Việc bàn luận về hướng đi được diễn ra vào thời gian sau đó, và được tuân thủ hoàn toàn theo quy định chung. Tôi không tin là có một đề cập về bất cứ nước đi cụ thể nào của trận đấu.”
Vance từ từ chồm người ra phía trước và dập tắt điếu thuốc của mình với sự căng thẳng, thận trọng mà tôi nhận ra như một dấu hiệu của việc kiềm chế sự kích thích. Sau đó anh vội vàng đứng dậy và di chuyển tới bàn cờ trong góc. Anh đứng đó, một tay thả lỏng trên hoa văn bằng gỗ tinh tế của những ô vuông xen kẽ.
“Ông nói rằng ông Pardee dã phân tích thế cờ của mình trên bàn cờ này khi anh Drukker gặp ông ta?”
“Phải, đúng thế.” Giáo sư Dillard nói với vẻ lịch sự gượng gạo. “Drukker ngồi xuống đối mặt với anh ta và nghiên cứu cách bố trí. Anh ta bắt đầu đưa ra một vài lời nhận xét, và Pardee yêu cầu anh ta đừng nói gì cả. Mười lăm phút sau hoặc lâu hơn thì Pardee di chuyển các quân cờ đỏ; và sau đó Drukker nói với anh ta rằng anh ta đã thua - rằng anh ta đã từng ở trong vị thế mà tưởng chừng là thuận lợi, nhưng về cơ bản là bất lợi.”
Vance di chuyển những ngón tay qua bàn cờ một cách vu vơ; và anh lấy hai ba quân cờ từ hộp và quăng trở lại, như đang chơi với chúng.
“Ông có nhớ Drukker nói gì không?” Anh nói mà không nhìn lên.
“Tôi không chú ý lắm – vấn đề này không hẳn là một trong những khoảnh khắc đáng nhớ với tôi.” Có dấu hiệu châm biếm không thể tránh khỏi trong câu trả lời. “Nhưng, như tôi nhớ, Drukker nói Pardee có thể thắng với điều kiện đó là trận đấu nhanh, nhưng Rubinstein là kỳ thủ nổi tiếng với lối chơi chậm mà chắc và chắc chắn sẽ thấy được nhược điểm trong thế cờ của Pardee.”
“Pardee có tức tối vì lời bình phẩm này không?” Vance đi trở lại ghế và chọn một điếu thuốc khác trong hộp; nhưng anh không ngồi xuống.
“Có chứ - rất nhiều. Không may là Drukker có tính cách trái ngược. Và Pardee lại quá nhạy cảm về chủ đề cờ vua. Sự thật là, anh ta tái mặt tức giận khi bị Drukker chỉ trích. Nhưng cá nhân tôi đã thay đổi chủ đề; và khi họ đi khỏi thì sự cố ấy dường như bị lãng quên.
Chúng tôi vẫn còn vài phút nữa. Markham đã nhiều lần nói lời xin lỗi của mình với vị giáo sư và tìm cách sửa chữa những phiền toái mà chuyến viếng thăm của chúng tôi gây ra cho ông ấy. Ông ấy không hài lòng về Vance trong việc nài nỉ kể chi tiết trận đấu cờ vua của Pardee, và khi chúng tôi đi xuống phòng khách thì ông ấy nói ra sự phật lòng của mình.
“Tôi có thể hiểu câu hỏi của anh có liên quan đến những người có trong ngôi nhà này tối qua, nhưng tôi không thấy có lý do gì để anh nhai đi nhai lại sự bất đồng trong ván cờ vua của Pardee và Drukker. Chúng ta có nhiều thứ khác để làm hơn là nói chuyện tầm phào.”
“Sự căm ghét cách nói chuyện tầm phào cũng như Isabel trong suốt cuộc sống êm đềm của bà trong tác phẩm của Tennyson[*],” Vance quay lại một cách tinh nghịch. “Nhưng - ôi trời, Markham à! - cuộc sống của chúng ta không như của Isabel. Ăn nói một cách cẩn trọng, đỏ là phương pháp trong cách nói chuyện của tôi. Tôi nói chuyện phiếm - và tôi đã biết được.”
“Anh biết được cái gì?” Markham gặng hỏi gay gắt.
Cẩn thận liếc mắt về phía hành lang, Vance rướn người về phía trước và hạ thấp giọng.
“Tôi biết được, ông bạn thân mến ạ, rằng một quân giám mục màu đen bị thiếu trong bộ cờ vua ở thư viện, và quân cờ bị bỏ lại ở cửa phòng bà Drukker là cùng bộ với những quân cờ còn lại trên lầu!”
Chú Thích:
[*] Tiếng Pháp: người báo tin trước.
[*] Rượu vang port: còn gọi là rượu vang Bồ Đào Nha.
[*] Porto, còn được gọi là Oporto trong tiếng Anh, là thành phố lớn thứ hai của Bồ Đào Nha sau Lisbon và là một trong những vùng đô thị lớn của bán đảo Iberia.
[*] Edvard Hagerup Grieg (1843 - 1907): nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ piano người Na Uy nổi tiếng nhất, ông là một thiên tài âm nhạc hiếm có của Na Uy. Ông sử dụng và phát triển âm nhạc dân gian Na Uy trong tác phẩm của mình, giúp đưa âm nhạc Na Uy lên bản đồ thế giới. Được công nhận rộng rãi là một nhà soạn nhạc hàng đầu của thời kỳ lãng mạn, các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là hai tổ khúc được chuyển soạn từ những khúc nhạc do ông viết cho vở kịch Peer Gynt, các bản. sonata cho violin và cello, Piano Concerto giọng La thứ.
[*] Rosmersholm: một vở kịch được viết bởi Henrik Ibsen năm 1886.
[*] Walter Hampden Dougherty (1879 - 1955): diễn viên và nhà quản lý rạp hát người Mỹ. Ông là một ngôi sao lớn trên sân khấu Broadway ở New York và là người đã thực hiện nhiều chương trình truyền hình và điện ảnh.
[*] Gerhart Johann Robert Hauptmann (1862 - 1946): nhà văn, nhà viết kịch người Đức đoạt giải Nobel văn học năm 1912.
[*] Akiba Rubinstein sau này, và tận hôm nay, là nhà vô địch cờ vua Ba Lan và là một trong những bậc thầy vĩ đại của thế giới về cờ vua. Ông sinh tại Stavisk, gần Lodz, vào năm 1882, và lần đầu xuất hiện trước công chúng ở giải cờ vua quốc tế tại giải đấu Ostend năm 1906. Chuyến thăm nước Mỹ gần đây của ông là kết quả trong một chuỗi thành công mới.
[*] Alfred Tennyson (1809 - 1892) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của Anh. Ông đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp của mình vào năm 1850 khi xuất bản tập thơ “In Memoriam A.H.H.” (Tưởng nhớ A. H. H.). Đây là những bài thơ viết về người bạn của ông, Arthur Henry Hallam, đã qua đời đột ngột ở Vienna năm 1833.
[*] Gendarmerie (tiếng Pháp): hiến binh, cảnh sát.
[*] Peter Piper là nhân vật trong một bài đồng dao in trong tập “Đồng dao Mẹ Ngỗng” giúp tập phát âm, nội dung của nó nói về cậu bé Peter Piper nhặt ớt ngâm chua.