Chương 22 NGÔI NHÀ BẰNG NHỮNG LÁ BÀI-(Chủ nhật, 17 tháng Tư; 9 a.m.)
Tin tức kinh hoàng về cái chết của Pardee đã có tác động xáo trộn kỳ lạ tới Vance. Anh nhìn chằm chằm Markham đầy hoài nghi. Sau đó anh vội vàng gọi Currie và lệnh cho ông ta lấy quần áo và một tách cà phê. Có sự nôn nóng trong hành động của anh khi mặc đồ vào.
“Trời ơi, Markham!” Anh kêu lên. “Chuyện này thật sự rất bất thường… Làm thế nào mà anh nghe được?”
“Giáo sư Dillard gọi điện thoại đến nhà gặp tôi chưa đầy nửa tiếng trước. Ông Pardee đã tự sát trong phòng bắn cung nhà Dillard vào đêm qua. Ông Pyne đã phát hiện ra xác chết vào sáng nay và thông báo cho giáo sư. Tôi báo tin này cho trung sĩ Heath, và sau đó đến đây. Trong tình huống này tôi nghĩ chúng ta phải có mặt.” Markham dừng lại để châm điếu xì gà. “Có vẻ như vụ án Giám Mục đã kết thúc… Không phải là một cái kết hoàn toàn thỏa đáng, nhưng có lẽ là tốt nhất cho những người có liên quan.”
Vance không bình luận gì ngay. Anh nhấp cà phê một cách lơ đãng, và sau đó đứng dậy lấy nón và gậy của mình.
“Tự sát…,” anh lẩm bẩm, khi chúng tôi đi xuống cầu thang. “Đúng, điều đó hoàn toàn phù hợp. Nhưng, như anh đã nói, không thỏa đáng - không thỏa đáng chút nào…”
Chúng tôi lái xe đến nhà Dillard, và được Pyne đón tiếp. Giáo sư Dillard không mấy hào hứng đi cùng chúng tôi vào phòng khách và rồi chuông cửa vang lên, và Heath, nóng nảy và năng nổ, lăng xăng bước vào.
“Chuyện này sẽ được xử lý ngay thôi, thưa anh,” anh ta đắc chí với Markham, sau nghi thức bắt tay thông thường. “Những con người trầm lặng… anh không bao giờ biết được. Vậy đấy, ai sẽ nghĩ là…?”
“Ô, này, trung sĩ,” Vance kéo dài giọng nói, “đừng nghĩ gì nữa cả. Quá mệt mỏi rồi. Đầu óc - khô cằn như sa mạc - cần được cởi mở.”
Giáo sư Dillard dẫn đường đến phòng bắn cung. Những tấm màn trên tất cả cửa sổ đều được đóng lại, và những bóng đèn điện vẫn đang sáng. Tôi cũng để ý thấy, các cửa sổ đều được đóng.
“Tôi để mọi thứ y nguyên vị trí của chúng,” vị giáo sư giải thích.
Markham bước tới cái bàn trà lớn được đan bằng liễu gai. Thi thể của Pardee đã ngã xuống chiếc ghế đối diện với cửa. Đầu và vai ông ta ngã về phía trước bàn; và cánh tay phải thõng xuống, những ngón tay vẫn còn nắm chặt khẩu súng lục tự động. Có một vết thương ghê rợn nằm ở thái dương phải; và trên bàn dưới đầu ông ta là cả một vũng máu đã khô.
Mắt chúng tôi ngừng lại một lúc trên cái xác, vì một điều đáng kinh ngạc và không thích hợp thu hút sự chú ý của chúng tôi. Những tờ tạp chí nằm trên bàn bị đẩy sang một bên, để lại khoảng trống phía trước xác chết; và trong khu vực trống trải này hiện lên một ngôi nhà cao lớn và đẹp đẽ được làm bằng những lá bài. Bốn mũi tên đánh dấu ranh giới của cái sân, và những que diêm được đặt cạnh nhau làm thành những lối đi trong vườn. Đây là một mô hình sẽ làm những đứa trẻ cảm thấy thích thú; và tôi nhớ lại điều Vance đã nói vào đêm trước về những đầu óc nghiêm túc tìm kiếm thú tiêu khiển trong trò chơi của trẻ con. Có điều gì đó thật khủng khiếp không thể nói nên lời về mô hình bằng những lá bài nằm bên cạnh một xác chết đầy bạo lực.
Vance nhìn xuống hiện trường với đôi mắt buồn bã và bối rối.
“Hic jacet[*] của John Pardee,” anh lẩm bẩm, với phần nào sự kính trọng. “Và đây là ngôi nhà do Jack xây dựng[*]… ngôi nhà bằng những lá bài…”
Anh bước về phía trước như thể để quan sát được kỹ lưỡng hơn; nhưng khi người anh đụng vào cạnh bàn thì tạo nên một va chạm nhẹ, và ngôi nhà mỏng manh bằng những lá bài đổ xuống.
Markham đứng đơ người ra và quay sang Heath.
“Anh đã thông báo cho bên giám định pháp y chưa?”
“Rồi.” Viên trung sĩ dường như không rời mắt khỏi cái bàn. “Và Burke đến nhanh thôi, trong vụ này chúng ta cần anh ta.” Anh ta đi đến các cửa sổ và kéo màn cửa lên, để cho ánh sáng ban ngày chiếu vào. Sau đó anh ta trở lại với thi thể của Pardee và đứng nhìn nó một cách chăm chú. Đột nhiên anh ta quỳ gối và cúi người xuống.
“Có vẻ như là khẩu súng Colt 38 ở trong tủ dụng cụ,” anh ta nhận xét.
“Không nghi ngờ gì nữa,” Vance gật đầu, lấy hộp thuốc lá của mình ra.
Heath đứng dậy và, đi tới cái tủ, kiểm tra vật dụng trong hộc tủ. “Đúng rồi, tôi nghĩ chính là nó. Chúng ta sẽ đi gặp cô Dillard để xác nhận nó sau khi bác sĩ có mặt ở đây.”
Vào lúc này Arnesson, trong chiếc áo khoác đỏ vàng sáng chói, hào hứng xông vào phòng.
“Trời ơi!” Anh ta kêu lên. “Ông Pyne vừa mới nói với tôi về tin này.” Anh ta tới chỗ cái bàn và nhìn chằm chằm vào xác của Pardee. “Tự tử ư?… Nhưng tại sao ông ta không chọn nhà riêng của mình để thực hiện? Thật vô cùng khinh suất khi ông ta muốn gây rối trong nhà người khác bằng cách này. Giống như mấy kỳ thủ vậy.” Anh ta nhướng mắt nhìn Markham. “Hy vọng điều này sẽ không gây thêm hiểu lầm về chúng tôi. Chúng tôi đã có đủ tai tiếng rồi. Thật là điên đầu. Khi nào các anh sẽ mang thi thể của ông ta đi? Đừng để Belle thấy ông ta.”
“Thi thể sẽ nhanh chóng được chuyển đến cho bên giám định pháp y để kiểm tra,” Markham lạnh lùng trách anh ta. “Và không cần đưa cô Dillard đến đây đâu.”
“Tốt thôi.” Arnesson vẫn đứng nhìn chằm chằm người đàn ông đã chết. Một cái nhìn tiếc nuối và hoài nghi trên gương mặt anh ta. “Thật đáng tiếc! Cuộc sống này thật sự quá sức đối với ông ta. Quá đa cảm - không có sức chịu đựng về tâm lý. Làm nhiều thứ trở nên quá nghiêm trọng. Nghiềm ngẫm về số phận của chính ông ta kể từ khi thế cờ của ông ta tan thành mây khói. Không thể tìm ra được bất kỳ chiến thuật nào khác. Quân giám mục đen đã ám ảnh ông ta; hầu như chiếm trọn tâm trí ông ta từ nước đi của nó. Trời ạ! Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên đâu nếu ý tưởng này làm ông ta muốn hủy hoại chính bản thân mình. Có thể tưởng tượng ra ông ta là một quân giám mục - cố gắng quay trở lại thế giới này trong vỏ bọc kẻ thù của ông ta.”
“Ý tưởng thông minh đấy,” Vance đáp lại. “Nhân tiện, có một ngôi nhà bằng những lá bài trên bàn khi chúng tôi nhìn thấy cái xác lần đầu tiên.”
“Ha! Tôi đã tự hỏi mấy lá bài ở đó làm gì. Dẫu cho ông ta có thể tìm thấy sự khuây khỏa trong lối sống ẩn dật suốt những khoảnh khắc cuối cùng của ông ta… Một ngôi nhà bằng những lá bài ư? Nghe thật ngốc nghếch. Anh có biết câu trả lời không?”
“Không hẳn. ‘Ngôi nhà do Jack xây dựng’ có thể giải thích được điều gì đó.”
“Tôi hiểu rồi.” Arnesson cáu gắt. “Chơi trò chơi trẻ con để kết thúc - thậm chí là tự sát. Ý nghĩ thật lạ lùng.” Anh ta ngáp dài. “Cứ đoán đi trong khi tôi đi thay đồ.” Và anh ta đi lên lầu.
Giáo sư Dillard đứng nhìn Arnesson với cái nhìn đầy đau buồn và lo âu của một người cha. Bây giờ ông ấy quay sang Markham với cử chỉ phiền muộn.
“Sigurd luôn tự bảo vệ mình chống lại những nỗi xúc động. Nó xấu hổ về cảm xúc của chính mình. Đừng quan trọng hóa thái độ vô ý của nó.”
Trước khi Markham có thể đáp lại thì Pyne đã dẫn thám tử Burke vào trong phòng; và Vance đã có cơ hội để hỏi người quản gia về việc phát hiện ra xác của Pardee.
“Chuyện xảy ra như thế nào khi ông vào phòng bắn cung sáng nay?” Anh hỏi.
“Nó khá gần phòng để thức ăn, thưa anh,” người đàn ông đáp lại, “và tôi mở cửa phòng ở chân cầu thang cho thoáng khí. Sau đó, tôi để ý thấy mấy cái màn cửa sổ được kéo xuống…”
“Bình thường, mấy cái màn không được kéo xuống vào ban đêm, phải không?”
“Không, thưa anh - phòng này thì không.”
“Mấy cái cửa sổ thì sao?”
“Tôi luôn luôn để chúng hở một chút vào ban đêm.”
“Ông có để chúng mở vào đêm qua không?”
“Có, thưa anh.”
“Rất tốt. - Và sau khi ông mở cửa phòng lúc sáng nay?”
“Tôi bắt đầu tắt đèn, nghĩ là cô Dillard đã quên tắt đèn vào đêm qua; nhưng ngay sau đó tôi thấy quý ông tội nghiệp này ở trên bàn, tôi đi thẳng lên lầu và báo cho giáo sư Dillard hay.”
“Beedle có biết về thảm kịch này không?”
“Tôi đã nói với nó về việc này ngay sau khi các anh đến.”
“Tối qua ông và Beedle đi ngủ lúc mấy giờ?”
“Lúc 10 giờ, thưa anh.”
Khi Pyne rời khỏi thì Markham hỏi giáo sư Dillard.
“Đây là lúc để ông nói chi tiết mọi chuyện cho chúng tôi trong lúc chúng ta chờ bác sĩ Doremus. - Chúng ta nên lên lầu chứ?”
Burke vẫn ở trong phòng bắn cung, và mấy người chúng tôi vào thư viện.
“Tôi e rằng tôi chỉ có thể nói rất ít về những gì tôi biết cho các anh,” vị giáo sư bắt đầu, tự sắp xếp chỗ ngồi và lấy tẩu thuốc ra. Có một sự dè dặt đáng chú ý trong cử chỉ của ông ấy - một kiểu miễn cưỡng lãnh đạm. “Pardee đến đây vào tối qua sau bữa ăn tối, bề ngoài là nói chuyện với Arnesson, nhưng thật ra thì, tôi nghĩ là, để gặp Belle. Tuy nhiên, Belle, đã xin phép đi ngủ sớm - con bé ấy bị đau đầu - và Pardee ở lại cho tới khoảng 11 giờ rưỡi. Sau đó anh ta ra về; và đó là lần cuối cùng tôi thấy anh ta cho tới khi Pyne mang đến cho tôi tin tức khủng khiếp vào sáng nay…”
“Nhưng nếu,” Vance xen vào, “ông Pardee tới gặp cháu gái ông, ông giải thích thế nào về việc ông ta ở lại cho tới khuya sau khi cô ấy đã đi ngủ?”
“Tôi không giải thích được việc đó.” Ông lão tỏ ra lúng túng. “Mặc dù anh ta cho tôi một ấn tượng rằng có điều gì đó trong tâm trí của anh ta và anh ta mong muốn gặp gỡ ai đó. Thực tế thì, tôi đã tỏ vẻ mệt mỏi trước khi anh ta cuối cùng cũng đứng dậy ra về.”
“Anh Arnesson đã ở đâu trong suốt buổi tối?”
“Sigurd ở đây nói chuyện với chúng tôi khoảng một tiếng đồng hồ hoặc hơn sau khi Belle đã đi nghỉ, và sau đó mới đi ngủ. Suốt buổi chiều nó bận chuyện của nhà Drukker, và mệt phờ ra.”
“Lúc đó là mấy giờ?”
“Khoảng 10 giờ rưỡi.”
“Và ông nói,” Vance tiếp tục, “là ông Pardee làm ông có ấn tượng như thể ông ta đang bị căng thẳng thần kinh phải không?”
“Không hẳn là căng thẳng.” Giáo sư lấy tẩu thuốc, cau mày. “Anh ta có biểu hiện phiền muộn, gần như là u sầu.”
“Ông có thấy là ông ta đang sợ hãi điều gì đó không?”
“Không; chí ít là không như thế. Anh ta giống như một người đã phải trải qua một nỗi bất hạnh quá lớn và không thể rũ bỏ được những ảnh hưởng của nó.”
“Khi ông ta ra ngoài ông có đi với ông ta đến sảnh không, hay là, ông có chú ý tới hướng đi của ông ta không?”
“Không. Ở đây chúng tôi luôn đối đãi với Pardee rất thân mật. Anh ta nói chúc ngủ ngon và rời khỏi phòng. Tôi nghĩ điều đó là bình thường khi anh ta tự ra cửa đi về.”
“Cùng lúc đó ông có về phòng mình không?”
“Khoảng mười phút. Tôi ở lại hơi lâu để sắp xếp những giấy tờ mà tôi đang làm dở dang.”
Vance im lặng - rõ ràng anh bối rối trước một số tình tiết trong câu chuyện; và Markham đảm nhận việc thẩm vấn.
“Tôi nghĩ rằng,” anh ta nói, “thật là thừa thãi nếu hỏi ông có nghe được bất kỳ tiếng động nào vào đêm qua khi phát súng được bắn ra.”
“Mọi thứ trong ngôi nhà này đều yên tĩnh,” giáo sư Dillard đáp. “Và không có bất kỳ âm thanh nào của phát súng được phát ra từ phòng bắn cung đến tầng này. Có hai tầng cầu thang, chiếm toàn bộ chiều dài của sảnh dưới và hành lang, và có ba cửa ở giữa. Hơn nữa, những bức tường của căn nhà cũ kỹ này đều rất dày và chắc chắn.”
“Và không ai,” Vance bổ sung, “ở ngoài đường có thể nghe được tiếng súng, vì cửa sổ phòng bắn cung đã được đóng cẩn thận.”
Vị giáo sư gật đầu và nhìn anh với ánh mắt dò xét.
“Đó là sự thật. Tôi thấy anh cũng nhận ra trường hợp đặc biệt này. Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao Pardee nên đóng các cửa sổ lại.”
“Đặc điểm của vụ tự tử này sẽ không bao giờ có lời giải thích thỏa đáng,” Vance tình cờ quay lại. Sau một lúc tạm dừng, anh hỏi: “Ông và ông Pardee đã nói gì trong suốt một giờ trước khi ông ta rời khỏi?”
“Chúng tôi nói rất ít. Tôi ít nhiều có liên quan đến một bài báo mới của Millikan[*] trên tạp chí vật lý về chất kiềm, và tôi cố gắng khiến anh ta hứng thú với nó; nhưng trong tâm trí anh ta, như tôi đã nói, là mối bận tâm đáng lưu ý, và anh ta tự giải trí với bàn cờ vua trong phần lớn thời gian.”
“À! Vậy sao? Đó là điều thú vị nhẩt.”
Vance liếc nhìn bàn cờ. Nhiều quân cờ vẫn đứng trong các ô; và anh nhanh chóng đứng dậy rồi đi đến chỗ cái bàn nhỏ. Sau một lúc anh trở lại và ngồi xuống ghế.
“Hết sức kỳ lạ,” anh lẩm bẩm, và thong thả châm điếu thuốc. “Ông ta rõ ràng đã cân nhắc về cái kết của trận đấu với Rubinstein trước khi ông ta đi xuống cầu thang vào tối qua. Những quân cờ được sắp xếp một cách chính xác như khi ông ta chấp nhận thua cuộc - với quân giám mục đen quen thuộc chiếu hết chỉ sau năm bước.”
Ánh mắt đầy ngạc nhiên của giáo sư Dillard di chuyển đến bàn cờ.
“Quân giám mục đen,” ông ấy thấp giọng lặp lại. “Có khi nào cái gì đó đã ám ảnh tâm trí anh ta tối qua không? Khó có thể tin rằng một thứ quá tầm thường cũng có thể ảnh hưởng đến anh ta một cách kinh khủng như thế.”
“Xin đừng quên, thưa ông,” Vance nhắc nhở ông ấy, “rằng quân giám mục đen là biểu tượng cho sự thất bại của ông ta. Nó tượng trưng cho sự đổ vỡ trong những hy vọng của ông ta. Những nhân tố ít uy lực nhưng đã thúc đẩy người đàn ông này kết thúc cuộc sống của mình.”
Vài phút sau Burke thông báo với chúng tôi rằng chuyên viên giám định pháp y đã đến. Rời khỏi vị giáo sư, chúng tôi đi xuống phòng bắn cung một lần nữa, nơi bác sĩ Doremus bận bịu với việc kiểm tra thi thể của Pardee.
Ông ta nhìn lên khi chúng tôi bước vào và vẫy tay chiếu lệ. Tính cách vui vẻ thường ngày của ông ta đã biến mất.
“Khi nào thì chuyện này kết thúc vậy?” Ông ta càu nhàu. “Tôi không thích cái không khí quanh đây. Những kẻ sát nhân - cái chết vì sốc - vụ tự tử. Đủ khiến bất cứ ai sợ hãi. Tôi sẽ nhận một công việc tốt lành, yên ổn ở phòng mổ xác.”
“Chúng tôi tin rằng,” Markham nói, “đây là kết thúc.”
Doremus nháy mắt. “Được quá! Chỉ vậy thôi, đúng chứ? - Giám Mục tự tử sau khi làm cả vùng này tơi tả. Có vẻ hợp lý. Hy vọng rằng anh đúng.” Ông ta lại cúi xuống cái xác, kéo thẳng các ngón tay, ném khẩu súng lục lên bàn.
“Vũ khí của anh đấy, trung sĩ.”
Heath bỏ vũ khí vào túi mình.
“Ông ta chết bao lâu rồi, bác sĩ?”
“À, từ nửa đêm, hay gần đó. Có thể sớm hơn, có thể trễ hơn. - Còn câu hỏi ngớ ngẩn nào khác không?”
Heath cười gượng. “Có bất cứ nghi ngờ nào về việc tự sát không?”
Doremus trừng mắt nhìn viên trung sĩ.
“Như thế nào đây? Một vụ đánh bom của xã hội đen sao?” Sau đó ông ta trở nên chuyên nghiệp. “Vũ khí ở trong tay ông ta. Vết thuốc súng ở thái dương. Lỗ đạn hợp với khẩu súng, và ở bên phải. Vị trí của cơ thể tự nhiên. Không có bất kỳ khả nghi nào. - Sao vậy? Có nghi ngờ gì à?”
Markham là người trả lời.
“Là ngược lại, bác sĩ à. Mọi thứ từ góc nhìn của chúng tôi về trường hợp này đều là tự sát.”
“Vậy thì đây là vụ tự sát. Tôi sẽ kiểm tra kỹ hơn. - Này, trung sĩ, giúp tôi một tay.”
Khi Heath giúp nhấc thi thể của Pardee đến chỗ ghế dài để kiểm tra chi tiết hơn, chúng tôi đến phòng khách có cuộc gặp gỡ ngắn với Arnesson.
“Nhận định là gì?” Anh ta hỏi, ngã người vào cái ghế gần nhất. “Tôi nghĩ rằng không có nghi vấn gì về hành động của ông ta.”
“Tại sao anh lại đưa ra vấn đề này, anh Arnesson?” Vance hỏi.
“Không vì lý do gì cả. Một lời bình luận vu vơ. Có rất nhiều thứ kỳ lạ diễn ra quanh đây.”
“Ồ, rõ ràng là thế.” Vance phả ra vòng khói thuốc. “Không; bên giám định pháp y dường như nghĩ rằng không hề có vấn đề gì. Nhân tiện, có phải ông Pardee gây cho anh ấn tượng là có khuynh hướng tự vẫn vào tối qua?”
Arnesson cân nhắc. “Thật khó nói,” anh ta kết luận. “Ông ta không bao giờ có một tâm hồn vui vẻ. Nhưng tự tử ư?… Tôi không biết. Tuy nhiên, anh nói không có nghi vấn gì về điều đó, vậy thì chỉ đơn giản là thế thôi.”
“Được, được. Và làm cách nào đề tình hình mới này phù hợp với công thức của anh?”
“Tiêu tan toàn bộ phương trình, tất nhiên rồi. Không còn cần thiết để nghiên cứu.” Mặc dù nói thế, anh ta vẫn có vẻ không chắc chắn. “Cái mà tôi không thể hiểu được,” anh ta nói thêm, “là tại sao ông ta lại chọn phòng bắn cung. Có rất nhiều nơi trong ngôi nhà của ông ta cho felo-de-se[*].”
“Có một khẩu súng rất tiện trong phòng bắn cung,” Vance gợi ý. “Và điều đó khiến tôi nhớ rằng: trung sĩ Heath muốn cô Dillard nhận diện hung khí, chỉ là vấn đề thủ tục.”
“Dễ thôi. Nó ở đâu?”
Heath đưa nó cho anh ta, và anh ta bắt đầu bước ra khỏi phòng.
“Ngoài ra” - Vance chặn anh ta lại - “anh có thể hỏi cô Dillard xem có phải cô ấy đã để những lá bài trong phòng bắn cung.”
Arnesson quay lại sau vài phút và thông báo với chúng tôi rằng khẩu súng này là vật để trong ngăn kéo tủ dụng cụ, và không chỉ những lá bài được để trong ngăn kéo bàn ở phòng bắn cung mà Pardee còn biết chúng ở đó.
Bác sĩ Doremus xuất hiện ngay sau đó và lặp lại kết luận của ông ta rằng Pardee đã tự bắn chính mình.
“Đó sẽ là báo cáo của tôi,” ông ta nói. “Không thể thấy bất cứ điều gì nữa. Chắc chắn, rất nhiều vụ tự sát là giả - nhưng đó là lĩnh vực của các anh. Ít ra chẳng có gì đáng ngờ ở đây.”
Markham gật đầu với vẻ hài lòng rõ ràng.
“Chúng tôi không có lý do gì để nghi ngờ những phát hiện của ông, bác sĩ à. Thực ra, vụ tự sát hoàn toàn phù hợp với những gì chúng tôi đã biết. Điều này đưa toàn bộ vụ Giám Mục điên khùng này đến một kết luận hợp lý.” Anh ta đứng lên như thể đã trút bỏ được gánh nặng. “Trung sĩ, tôi sẽ để anh sắp xếp việc chuyển cái xác để khám nghiệm tử thi; nhưng tốt hơn anh nên đến câu lạc bộ Stuyvesant sau đó. Cảm ơn Chúa hôm nay là Chủ nhật! Điều đó cho chúng ta thêm thời gian để rà soát lại.”
Tối đó tại câu lạc bộ Vance, Markham và tôi ngồi ở phòng chờ. Heath đến rồi đi, và một thông báo cẩn thận được công bố cho cánh nhà báo về vụ tự sát của Pardee và cho biết vụ án Giám Mục đã kết thúc. Vance nói rất ít trong cả ngày hôm đó. Anh từ chối đưa ra bất kỳ ý kiến nào về cách dùng từ của thông báo chính thức, và thậm chí chỉ miễn cưỡng xuất hiện để thảo luận về giai đoạn mới của vụ án này. Nhưng giờ anh đã nói lên những nghi ngờ rõ ràng đang chiếm giữ tâm trí mình.
“Nó quá dễ dàng, Markham à - quá mức dễ dàng. Có hương vị của một vẻ ngoài hào nhoáng trong đó. Hợp lý một cách hoàn hảo, anh thấy đó, nhưng không hề thỏa đáng. Tôi không thể hình dung chính xác việc Giám Mục của chúng ta lại chấm dứt sự hài hước điên rồ của hắn bằng cách vô vị như thế. Chẳng có gì dí dỏm khi làm nổ tung bộ não của một người - nó khá là tầm thường, anh biết không. Cho thấy một việc thiếu tính độc đáo. Nó không xứng đáng với sự gian xảo của những án mạng Mẹ Ngỗng.”
Markham không hài lòng.
“Anh đã tự mình giải thích tội ác phù hợp với những khả năng về tâm lý của Pardee; và với tôi điều đó xuất hiện rất hợp lý, tạo nên trò đùa khủng khiếp và cuối cùng là cái chết của ông ta, ông ta đã xong việc của chính mình rồi.”
“Có lẽ anh đúng,” Vance thở dài. “Tôi vẫn chưa có bất kỳ lý lẽ sáng giá nào để tranh luận với anh. Chỉ là, tôi thất vọng. Tôi không muốn bị mất hứng, đặc biệt là khi chúng không phù hợp với ý tưởng của tôi về tài năng của nhà soạn kịch. Cái chết của ông Pardee ngay lúc này quá mức rõ ràng - nó xóa sạch mọi thứ quá gọn gàng. Có quá nhiều công dụng trong đó, và có quá ít sự tưởng tượng.”
Markham cảm thấy anh ta có thể khoan dung.
“Có lẽ trí tưởng tượng của ông ta bị vắt kiệt trong những vụ sát hại. Vụ tự sát của ông ta có thể được coi là hạ màn khi vở kịch kết thúc. Trong bất cứ sự kiện nào, đây không phải là vấn đề đáng ngạc nhiên. Bị đánh bại, thất vọng và chán nản - cản trở tất cả tham vọng của một người - là nguyên nhân tạo nên việc tự sát từ thời xa xưa.”
“Chính xác. Chúng ta có một động cơ hợp lý, hoặc lời giải thích, cho vụ tự sát của ông ta, nhưng không có động cơ cho những án mạng.”
“Ông Pardee yêu Belle Dillard,” Markham tranh luận; “và chắc hẳn ông ta biết rằng Robin từng cầu hôn cô ấy. Ngoài ra, ông ta rất ghen tị với Drukker.”
“Còn vụ sát hại Sprigg thì sao?
“Chúng ta không có dữ liệu về điều đó.”
Vance lắc đầu.
“Chúng ta không thể tách rời tội ác với động cơ. Chúng đều xuất phát từ một động lực cơ bản: chúng bị kích thích bởi một cảm xúc mạnh mẽ duy nhất.”
Markham thở dài sốt ruột.
“Thậm chí nếu vụ tự sát của ông Pardee không liên quan đến những vụ giết người kia, chúng ta đang ở trong một ngõ cụt, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.”
“Phải, phải. Một ngõ cụt. Thật đáng buồn. Dường như đó là lời an ủi cho phía cảnh sát. Dù gì điều đó cũng khiến họ lơ là trong một thời gian. Nhưng đừng hiểu sai sự khác thường của tôi. Cái chết của ông Pardee chắc chắn có liên quan đến những án mạng. Liên quan khá mật thiết nữa, tôi nghĩ thế.”
Markham chậm rãi lấy điếu xì gà ra khỏi miệng và quan sát Vance cẩn thận một hồi lâu.
“Có bất kỳ nghi ngờ nào trong đầu anh,” anh ta hỏi, “về việc Pardee đã tự sát à?”
Vance ngập ngừng trước khi trả lời.
“Tôi có thể cảm nhận được khi biết,” anh kéo dài giọng, “tại sao ngôi nhà bằng những lá bài đó sụp đổ quá dễ dàng khi tôi chồm người về phía bàn…”
“Thế à?”
“… và tại sao nó không đổ xuống khi đầu và vai của Pardee ngã về phía trước bàn sau khi ông ta tự bắn chính mình.”
“Chẳng sao cả,” Markham nói. “Chấn động đầu tiên có thể đã làm nới lỏng các lá bài”, đột nhiên anh ta nheo mắt lại. “Anh đang ám chỉ rằng ngôi nhà bằng những lá bài đã được dựng lên sau khi ông Pardee chết?”
“Ồ, ông bạn thân mến à! Tôi không thỏa mãn với những lời ám chỉ. Tôi chỉ đang nói ra sự tò mò mãnh liệt của tôi thôi, anh biết đó.”
Chú Thích:
[*] “Ngôi nhà do Jack xây dựng” là tựa của một bài đồng dao phổ biến, cũng được in trong tập đồng dao Mẹ Ngỗng.
[*] Robert Andrews Millikan (1868 - 1953): nhà vật lý thực nghiệm người Mỹ. Ông được trao Giải Nobel vật lý vào năm 1923 nhờ phương pháp đo chính xác điện tích điện tử thông qua thí nghiệm giọt dầu Millikan và nghiên cứu của ông về hiệu ứng quang điện, ông cũng là người nghiên cứu về các bức xạ vũ trụ.
[*] Tiếng Latin: việc tự tử.
[*] Di chúc của Pardee để lại một số tiền lớn cho việc tài trợ môn cờ vua; và vào mùa thu cùng năm đó, giải đấu tưởng nhớ Pardee được tổ chức tại Cambridge Springs.