Chương 23 PHÁT HIỆN GÂY SỬNG SỐT-(Thứ Hai, 25 tháng Tư; 8.30 p.m.)
Tám ngày đã trôi qua. Tang lễ nhà Drukker diễn ra trong ngôi nhà nhỏ nằm trên đường số 76, tham dự chỉ có nhà Dillard, Arnesson và một ít người từ trường đại học đến bày tỏ lòng thành kính cuối cùng cho một nhà khoa học có công trình nghiên cứu mà họ thật sự ngưỡng mộ.
Vance và tôi ở ngôi nhà này vào buổi sáng lễ tang khi một cô bé mang bó hoa xuân nho nhỏ tự mình hái tới, và nhờ Arnesson đưa chúng cho Drukker. Tôi gần như chờ đợi một lời phản hồi giễu cợt từ anh ta, và bất ngờ khi anh ta nghiêm trang cầm lấy bó hoa và nói bằng giọng gần như trìu mến:
“Chú sẽ lập tức đưa cho chú ấy, Madeleine. Và Humpty Dumpty cám ơn vì cháu đã nhớ đến chú ấy.” Khi đứa bé đã được nữ gia sư của mình dẫn đi, anh ta quay sang chúng tôi. “Cô bé là đứa Drukker thích nhất… Anh bạn này buồn cười thật. Không bao giờ đến nhà hát. Ghét đi du lịch. Thú tiêu khiển duy nhất của anh ta là mua vui cho lũ trẻ.”
Tôi nhắc đến tình tiết này bởi vì, mặc dù có vẻ bình thường, nó được chứng minh là một trong những mối liên kết quan trọng nhất trong sợi xích bằng chứng mà cuối cùng đã làm sáng tỏ, vượt ra khỏi mọi câu hỏi nghi ngờ, điều khó hiểu của vụ án Giám Mục.
Cái chết của Pardee đã tạo ra một tình huống gần như là duy nhất trong biên niên sử tội ác hiện đại. Lời nhận định của Văn phòng Công tố quận chỉ cho biết rằng có khả năng Pardee phạm tội trong các vụ án mạng. Dù cá nhân Markham có nghĩ thế nào đi nữa, anh ta cũng rất đáng kính và công bằng vì không hướng bất kỳ sự nghi ngờ trực tiếp nào lên người khác mà không có bằng chứng rõ ràng. Nhưng làn sóng kinh hoàng nổi lên từ những án mạng kỳ lạ này đã đạt tới mức độ mà anh ta không thể, theo quan điểm về trách nhiệm mà anh ta phải làm cho cộng đồng, cầm lòng nói rằng anh ta tin vụ án đã khép lại. Như thế, trong khi không có lời buộc tội nào đưa ra chống lại Pardee, những án mạng Giám Mục không còn được xem là nguồn gốc của mối đe dọa đên thành phố, và tiếng thở phào nhẹ nhõm vang lên từ khắp mọi nơi.
Trong câu lạc bộ cờ vua Manhattan dường như ít có lời bàn luận về vụ án hơn bất kỳ nơi nào khác ở New York. Các thành viên có lẽ cảm thấy rằng danh dự của câu lạc bộ theo cách nào đó cũng có liên quan. Hoặc có thể là cảm giác về lòng trung thành đối với người đã làm rất nhiều cho cờ vua như Pardee. Nhưng dù nguyên nhân cho sự né tránh của câu lạc bộ về vấn đề này có là gì đi nữa, sự thật vẫn là các thành viên của câu lạc bộ, gần như mọi người, đều đã đến dự tang lễ của Pardee. Tôi không tài nào không ngưỡng mộ lòng kính trọng đó dành cho người bạn kỳ thủ này; vì, dù hành động cá nhân của ông ta có thế nào, ông ta vẫn là một trong những người ủng hộ vĩ đại của trò chơi hoàng gia cổ xưa mà họ say mê[*].
Hành động chính thức đầu tiên của Markham vào ngày hôm sau cái chết của Pardee là bảo đảm việc thả Sperling. Buổi chiều cùng ngày, Sở Cảnh sát chuyển tất cả giấy tờ ghi chép của những án mạng Giám Mục sang một hồ sơ được đánh dấu là “những vụ án xếp xó,” và rút những người canh gác khỏi nhà Dillard. Vance nhẹ nhàng phản đối bước đi sau cùng này; nhưng, theo quan điểm về việc bản báo cáo khám nghiệm tử thi của bên giám định pháp y đã chứng minh những điểm đặc thù về giả thuyết tự tử, nên Markham không thể làm gì khác. Hơn nữa, anh ta hoàn toàn bị thuyết phục rằng cái chết của Pardee đã chấm dứt vụ này; và anh ta chế giễu những nghi ngờ lung tung của Vance.
Trong tuần tiếp theo sau việc phát hiện ra thi thể của Pardee, Vance cố chấp và lơ đãng hơn bình thường. Anh cố gắng làm bản thân hứng thú vào nhiều chuyện khác nhau, nhưng không có kết quả gì. Anh để lộ dấu hiệu của sự cáu gắt; và vẻ ngoài trầm tĩnh gần như kỳ diệu có vẻ đã rời bỏ anh. Tôi có cảm giác rằng anh đang đợi một điều gì đó xảy ra. Cách cư xử của anh không hẳn là mong đợi, nhưng có một sự cảnh giác trong thái độ của anh có lúc đến mức gần như là lo sợ.
Vào ngày sau tang lễ của Drukker thì Vance đã đến gặp Arnesson, và vào Lối thứ Sáu đi cùng anh ta đến buổi diễn “Những bóng ma” của Ibsen - một vở kịch, mà tôi tình cờ biết được anh không thích. Anh biết được rằng Belle Dillard đã đi thăm nhà của một người họ hàng ở Albany một tháng. Như Arnesson giải thích, cô ấy đã bắt đầu để lộ những ảnh hưởng từ tất cả những chuyện đã trải qua, và cần thay đổi không khí. Người đàn ông này rõ ràng không vui trước sự vắng mặt của cô ấy, và tâm sự với Vance rằng họ đã lên kế hoạch kết hôn vào tháng Sáu. Vance cũng biết được từ anh ta rằng bản di chúc của bà Drukker để lại tất cả tài sản cho Belle Dillard và vị giáo sư trong trường hợp con trai của bà chết - một sự thật dường như khiến Vance quá đỗi hứng thú.
Nếu tôi biết, hoặc thậm chí ngờ đến, những chuyện kinh hoàng và khủng khiếp gì đang treo lơ lửng trên đầu chúng tôi vào tuần đó, tôi không biết mình có thể chịu đựng nổi sự căng thẳng đó hay không. Vì vụ án mạng Giám Mục vẫn chưa kết thúc. Sự khủng khiếp tột đỉnh vẫn còn tiếp tục; nhưng thậm chí sự khủng khiếp đó, kinh hoàng và gây choáng váng như vậy, chỉ là một phần của những gì có thể đã xảy ra nếu không nhờ Vance suy luận vụ án thành hai kết luận riêng rẽ, chỉ có một hướng bị loại bỏ vì cái chết của Pardee. Chính khả năng kia, sau này tôi mới biết, đã giữ anh ở lại New York, với sự thận trọng và cảnh giác.
Thứ Hai, ngày 25 tháng Tư, là ngày bắt đầu của sự kết thúc. Chúng tôi ăn tối cùng Markham ở câu lạc bộ Bankers và sau đó đi xem buổi diễn “Die Meistersinger”[*] ; nhưng chúng tôi không được chứng kiến màn ca khúc khải hoàn của Walther[*] vào đêm đó. Tôi nhận thấy khi chúng tôi gặp Markham ở sảnh lớn của tòa nhà Equitable thì anh ta có vẻ lo lắng; và ngay khi chúng tôi ngồi xuống bàn ăn món nướng thì anh ta kể cho chúng tôi nghe về cú điện thoại anh ta nhận được từ giáo sư Dillard chiều hôm đó.
“Ông ấy đặc biệt gọi tôi đến gặp ông ấy tối nay,” Markham giải thích; “và khi tôi cố từ chối thì ông ấy nài nỉ. Ông ấy nói rõ sự thật rằng Arnesson sẽ ra ngoài cả buổi tối, và nói rằng một cơ hội tương tự sẽ không xuất hiện cho đến lúc mọi chuyện đã quá muộn. Tôi hỏi ý ông ấy là sao; nhưng ông ấy từ chối giải thích, và nài nỉ tôi đến nhà ông ấy sau bữa tối. Tôi bảo rằng tôi sẽ cho ông ấy biết tôi có đến được hay không.”
Vance lắng nghe bằng niềm hứng thú mãnh liệt nhất.
“Chúng ta phải đến đó, Markham. Tôi đã khá mong chờ một cú điện thoại từa tựa như vậy. Có khả năng chúng ta cuối cùng sẽ tìm ra chìa khóa để mở toang sự thật.”
“Sự thật về cái gì?”
“Tội lỗi của ông Pardee.”
Markham không nói gì thêm, và chúng tôi ăn tối trong im lặng.
Lúc 8 giờ rưỡi chúng tôi bấm chuông nhà Dillard, và được Pyne dẫn thẳng đến thư viện.
Vị giáo sư già chào chúng tôi với vẻ thận trọng lo lắng.
“Thật tốt vì anh đã đến, Markham à,” ông ấy nói, mà không đứng dậy. “Ngồi xuống ghế và châm một điếu xì gà đi. Tôi muốn nói chuyện với anh - và tôi muốn làm việc này từ từ. Thật khó khăn…” Giọng ông ấy bỏ lửng lúc ông bắt đầu nhét thuốc vào tẩu.
Chúng tôi ngồi và chờ đợi. Một cảm giác mong chờ xâm chiếm lấy tôi mà không có lý do rõ ràng, ngoại trừ có lẽ do tôi bắt gặp tâm trạng bối rối thấy rõ của vị giáo sư.
“Tôi không biết nên đề cập đến vấn đề như thế nào,” ông ấy bắt đầu; “vì nó không phải là sự việc hữu hình, mà là ý thức vô hình của con người. Tôi đã vật lộn cả tuần với ý tưởng hơi mơ hồ đang đè nén lên tôi; và tôi không thấy có cách nào để thoát khỏi chúng ngoài cách nói chuyện với anh…”
Ông ấy nhìn lên với vẻ lưỡng lự.
“Tôi muốn bàn luận những ý kiến này với anh khi Sigurd không có mặt hơn, và lúc tối nay nó đã đi xem vở ‘Những kẻ giả vờ’[*] của Ibsen - vở kịch yêu thích nhất của nó, nhân tiện - tôi nắm lấy cơ hội này để gọi anh đến đây.”
“Những ý kiến này liên quan đến điều gì?” Markham hỏi.
“Không có gì rõ ràng. Như tôi vừa nói, chúng rất mơ hồ; nhưng chúng dần trở nên mạnh mẽ rõ rệt… Thật vậy, quá mạnh mẽ,” ông ấy nói thêm, “đến nỗi tôi nghĩ tốt nhất nên để Belle đi xa một thời gian. Đúng là đầu óc con bé đang trong tình trạng bị tra tấn vì tất cả những thảm kịch này; nhưng nguyên nhân thật sự đưa con bé lên phía bắc của tôi chính là tôi bị những nghi ngờ vô hình vây hãm.”
“Nghi ngờ ư?” Markham nghiêng về phía trước. “Nghi ngờ về điều gì?”
Giáo sư Dillard không trả lời ngay.
“Để tôi trả lời câu hỏi đó bằng cách đặt ra câu hỏi khác,” ông ấy đáp lại sau đó. “Anh có hoàn toàn hài lòng trong tâm trí của mình rằng tình huống liên quan đến Pardee là đúng như những gì đã xảy ra không?”
“Ý của ông là tính xác thực trong vụ tự tử của ông ta à?”
“Điều đó và cả tội lỗi người ta gán cho anh ta nữa.”
Markham trầm ngâm ngồi tựa ra sau.
“Ông không hoàn toàn hài lòng sao?” Anh ta hỏi.
“Tôi không thể trả lời câu hỏi đó.” Giáo sư Dillard nói gần như cộc lốc. “Anh không có quyền hỏi tôi. Tôi chỉ muốn chắc rằng các cơ quan chức năng, có tất cả dữ liệu trong tay, đã tin rằng vụ việc kinh khủng này là một điều mù tịt.” Vẻ quan tâm sâu sắc hiện lên trên gương mặt ông ấy. “Nếu tôi biết đó là sự thật, nó sẽ giúp tôi đẩy lùi những mối nghi ngờ mơ hồ đã ám ảnh tôi ngày đêm trong tuần vừa qua.”
“Và nếu tôi nói rằng tôi không thỏa mãn thì sao?”
Đôi mắt của vị giáo sư già nhuốm vẻ xa xăm, đau buồn. Đầu ông ấy hơi gục về phía trước, như thể gánh nặng buồn phiền nào đó đột nhiên đè xuống ông ấy. Một lát sau ông ấy nhấc vai lên và hít một hơi thật sâu.
“Điều khó khăn nhất trên thế gian này,” ông ấy nói, “là biết bổn phận của một người nằm ở đâu; vì bổn phận là một cơ chế của trí óc, và con tim cứ mãi xen vào và tàn phá quyết tâm của một người. Có lẽ tôi đã sai khi gọi anh đến đây; vì, sau tất cả, tôi cũng chỉ có sự nghi ngờ mơ hồ và ý tưởng mập mờ để bám vào mà thôi. Nhưng có thể mối lo âu của tôi dựa trên nền tảng sâu thẳm nào đó của sự tồn tại của ai đó mà tôi không biết… Anh có hiểu tôi nói gì không?” Có sự lảng tránh trong lời nói của ông ấy, không nghi ngờ gì về bóng dáng của sự lo âu đang rình rập tâm trí ông ấy.
Markham đồng cảm gật đầu.
“Không có bất cứ lý do gì để chất vấn kết quả của bên giám định pháp y.” Anh ta đưa ra lời nhận định bằng giọng nói gượng gạo. “Tôi có thể hiểu sự gần gũi của những thảm kịch này có thể đã tạo ra một bầu không khí có lợi cho sự ngờ vực. Nhưng tôi nghĩ ông không cần đa nghi thêm nữa đâu.”
“Tôi thật lòng hy vọng anh đúng,” giáo sư lẩm bẩm; nhưng rõ ràng ông ấy không hài lòng. “Giả sử, Markham…” ông ấy bắt đầu nói, và rồi dừng lại. “Ừ, tôi hy vọng anh đúng,” ông ấy lặp lại.
Vance điềm tĩnh ngồi hút thuốc qua cuộc thảo luận không thỏa mãn này, nhưng anh lắng nghe bằng sự tập trung lạ thường, và giờ anh lên tiếng.
“Hãy cho tôi biết, giáo sư Dillard, nếu có bất cứ điều gì - dù mơ hồ đến mức nào - đã làm ông cảm thấy bất định?”
“Không - không có.” Câu trả lời nhanh chóng bật ra và với chút nghị lực. “Tôi đơn thuần đang thắc mắc - thử kiểm tra mọi khả năng thôi. Tôi không dám quá tin tưởng mà không có chút bảo đảm nào đó. Logic thuần túy rất tốt cho các nguyên tắc không đích thân chạm vào chúng ta. Nhưng nơi mà sự an toàn của chính mình có liên quan đến đầu óc không hoàn hảo của con người thì đòi hỏi dấu hiệu trực quan.”
“À, phải.” Vance nhìn lên, và tôi nghĩ mình đã nhận ra sự thấu hiểu giữa hai người đàn ông khác hẳn nhau này.
Markham đứng dậy để chào từ biệt; nhưng giáo sư Dillard nài nỉ anh ta nán lại thêm chút nữa.
“Sigurd sẽ về đây trong chốc lát. Nó sẽ muốn gặp lại anh. Như tôi đã nói, nó đang xem ‘Những kẻ giả vờ’ nhưng tôi chắc là nó sẽ về thẳng nhà… Nhân tiện, anh Vance,” ông ấy nói tiếp, quay đầu khỏi Markham; “Sigurd kể với tôi rằng anh đã đi xem ‘Những bóng ma’ cùng nó vào tuần trước. Anh có cùng niềm đam mê Ibsen với nó à?”
Một cái nhướng mày nhẹ của Vance nói cho tôi biết rằng anh phần nào khó hiểu trước câu hỏi này; nhưng khi anh trả lời lại không có dấu hiệu của sự bối rối trong giọng nói.
“Tôi có đọc Ibsen khá nhiều; và có thể đôi chút không biết rằng ông ấy là một thiên tài sáng tác đỉnh cao, vì tôi thất bại trong việc tìm kiếm ở ông ấy hình tượng thẩm mỹ hay chiều sâu triết học đã làm nên đặc trưng của vở ‘Faust’ của Goethe[*], chẳng hạn.”
“Tôi có thể thấy rằng anh và Sigurd sẽ thường xuyên bất đồng ý kiến.”
Markham từ chối lời mời ở lại lâu hơn nữa, và ít phút sau chúng tôi đi bộ xuống đại lộ West End trong không khí mát mẻ của tháng Tư.
“Anh nên ghi chú lại, Markham thân mến,” Vance quan sát, với một chút đùa giỡn, lúc chúng tôi rẽ sang đường số 72 và tiến đến công viên, “rằng có những người khác ngoài người cộng tác khiêm tốn của anh đang bị ám ảnh bởi sự nghi ngờ về ý muốn tự tử của ông Pardee. Và tôi nên bổ sung thêm rằng giáo sư không hài lòng với sự tin chắc của anh chút nào đâu.”
“Trạng thái đa nghi của ông ấy cũng dễ hiểu thôi.” Markham nhận xét. “Những án mạng này có liên quan khá chặt chẽ đến ngôi nhà của ông ấy.”
“Đó không phải là lời giải thích. Quý ông cao tuổi đó có những nỗi sợ. Và ông ấy biết chuyện gì đó mà ông ấy không kể cho chúng ta.”
“Tôi không có cảm giác đó.”
“Ôi, Markham… Markham thân mến! Anh không lắng nghe rõ câu chuyện ngập ngừng, miễn cưỡng của ông ấy sao? Cứ như thể ông ấy đang cố truyền đạt gợi ý nào đó cho chúng ta mà không thật sự nói ra thành lời. Chúng ta có nhiệm vụ phải đoán ra. Đúng rồi! Đó là lý do ông ấy nài nỉ anh đến gặp ông ấy khi Arnesson đã chắc chắn ở buổi diễn phục hưng Ibsen…”
Vance đột ngột ngừng nói và đứng yên như phỗng. Một vẻ kinh ngạc hiện lên trong mắt anh.
“Ôi, trời ơi! Ôi, trời đất ơi! Vậy đó là lý do tại sao ông ấy hỏi tôi về Ibsen!… Ôi trời! Tôi thật là ngốc nghếch!” Anh nhìn chằm chằm Markham, và cơ hàm anh căng ra. “Sự thật cuối cùng!” Anh nói với sự nhẹ nhàng ấn tượng. “Và không phải anh hay cảnh sát hay tôi là người phá vụ án này: mà là một nhà soạn kịch người Na Uy đã chết hai mươi năm rồi. Vì Ibsen là chìa khóa mở cánh cửa bí ẩn.”
Markham nhìn anh như thể anh bỗng nhiên mất trí; nhưng trước khi anh ta kịp nói thì Vance đã vẫy một chiếc taxi.
“Tôi sẽ cho anh thấy ý tôi muốn nói gì khi chúng ta đến nhà,” anh nói, lúc chúng tôi chạy sang hướng đông qua Công viên Trung tâm. “Không thể tin được, nhưng đó là sự thật. Và tôi phải đoán ra nó từ lâu rồi; nhưng ý nghĩa của chữ ký trên những bức thông điệp đó bị che khuất bởi những ý nghĩa khả thi khác…”
“Nếu mà đang giữa mùa hè thay vì mùa xuân,” Markham phẫn nộ bình luận, “tôi sẽ nghĩ rằng cái nóng đã ảnh hưởng đến anh rồi.”
“Tôi biết ngay từ đầu có ba người có thể phạm tội,” Vance tiếp tục. “Về mật tâm lý, mỗi người đều có khả năng là kẻ sát nhân, với điều kiện tác động cảm xúc của hắn đã làm phá vỡ thế cân bằng tinh thần của hắn. Nên không có gì để làm ngoài chờ đợi một dấu hiệu nào đó làm nổi bật sự nghi ngờ. Anh Drukker là một trong ba nghi can của tôi, nhưng anh ta đã bị sát hại; vậy là còn lại hai. Rồi ông Pardee được cho là tự tử, và tôi công nhận rằng cái chết của ông ta tạo ra kết luận hợp lý rằng ông ta là người có tội. Nhưng có một mối nghi ngờ đang ăn mòn tâm trí tôi. Cái chết của ông ta không thuyết phục; và ngôi nhà bằng những lá bài đó quấy rầy tôi. Chúng ta rơi vào bế tắc. Vì thế tôi lại chờ đợi, và quan sát khả năng thứ ba của mình. Giờ tôi biết ông Pardee vô tội, và ông ta không tự bắn chính mình. Ông ta bị sát hại - cũng như Robin, Sprigg và Drukker. Cái chết của ông ta là một trò đùa tàn nhẫn khác - ông ta là một nạn nhân bị ném ra trước mặt cảnh sát theo tinh thâfn của trò đùa hiểm ác. Và tên sát nhân đã cười nhạo sự khờ khạo của chúng ta từ đó đến nay.”
“Dựa vào lập luận gì mà anh lại đi đến một kết luận tuyệt diệu đến vậy?”
“Đã không còn là vấn đề của lập luận nữa. Cuối cùng tôi đã có lời giải cho những tội ác; và tôi biết ý nghĩa của chữ ký ‘Giám Mục’ trên những bức thông điệp rồi. Tôi sẽ cho anh xem một bằng chứng kinh ngạc và không thể chối cãi sớm thôi.”
Ít phút sau đó chúng tôi đến căn hộ của anh, và anh dẫn chúng tôi đi thẳng vào thư phòng.
“Bằng chứng đã ở đây từ lâu ngay trong tầm tay.”
Anh đi đến giá sách nơi để những quyển kịch của mình, và lấy xuống quyển II tuyển tập tác phẩm của Henrik Ibsen[*]. Quyển sách gồm có vở “Người Viking ở Helgeland” và “Những kẻ giả vờ”; nhưng cái đầu tiên trong hai vở kịch này Vance không quan tâm. Lật sang “Những kẻ giả vờ” anh tìm đến trang dramatis personae[*] được ghi, và đặt quyển sách lên bàn trước mặt Markham.
“Đọc bảng phân vai những nhân vật trong vở kịch yêu thích của Arnesson đi,” anh bảo.
Markham, im lặng và bối rối, kéo quyển sách về phía mình; và tôi nhìn ghé qua vai anh ta. Đây là những gì chúng tôi thấy:
#
HÅKON HÅKONSSON[*], vua của Na Uy.
INGA XỨ VARTEIG[*], mẹ của ông ta.
CÔNG TƯỚC SKULE[*].
QUÝ BÀ RAGNHILD, vợ của Skule.
SIGRID, em gái của Skule.
MARGRETE[*] , con gái của Skule.
GUTHORM INGESSON.
SIGURD RIBBUNG.
NICHOLAS ARNESSON, Giám mục Oslo.
NÔNG DÂN DAGFINN, thống chế của Håkon.
IVAR BODDE, giáo sĩ của ông ta.
VEGARD VAERADAL, một quân lính của ông ta.
GREGORIUS JONSSON, nhà quý tộc.
PAUL FLIDA, nhà quý tộc.
INGEBORG, vợ của Andres Skialdarband.
PETER, con trai của bà ta, một giáo sĩ trẻ.
SIRA VILIAM, giáo sĩ của Giám mục Nicholas.
QUÝ ÔNG SIGARD XỨ BRABANT, một thầy thuốc.
JATGEIR SKALD, một người Iceland.
BÅRD BRATTE, một thủ lĩnh đến từ vùng Trondhiem.
#
Nhưng tôi nghi rằng không một ai trong chúng tôi đọc quá dòng:
#
NICHOLAS ARNESSON, Giám mục Oslo.
#
Mắt tôi dán chặt vào cái tên đó với một sự mê hoặc khủng khiếp. Và rồi tôi nhớ ra… Giám mục Arnesson là một trong những nhân vật phản diện độc ác nhất trong văn học - một kẻ tàn bạo cay độc, kẻ đã bóp méo tất cả giá trị lành mạnh của cuộc sống thành những trò hề ghê tởm.
Chú Thích:
[*] Trong số những tác phẩm opera của Wagner, đây là tác phẩm mà Vance yêu thích. Anh ta lúc nào cũng khăng khăng rằng nó là tác phẩm opera duy nhất có dạng cấu trúc của một bản giao hưởng; và rất nhiều fan anh ta biểu lộ sự nuối tiếc rằng nó đã không được soạn thành một bản giao hưởng thay vì sự chuyển thể thành kịch vớ vẩn.
[*] Wilhelm Richard Wagner (1813 - 1883): nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng, đạo diễn kịch và nhà lý luận âm nhạc người Đức nổi tiếng bởi các tác phẩm opera.
Walther và Eva là hai nhân vật chính trong tác phẩm opera “Die Meistersinger von Nuremberg” (Những danh ca Nuremberg) của ông.
[*] Pretenders (Những kẻ giả vờ), tên gốc tiếng Na Uy là Kongs-Emnerne, là một vở kịch được viết bởi Henrik Ibsen vào năm 1863 và được trình diễn vào năm 1864. Nội dung vở kịch xoay quanh cuộc xung đột lịch sử giữa vua Na Uy Håkon Håkonsson và cha vợ của ông, Earl Skule Bårdsson.
[*] Johann Wolfgang von Goethe (1749 - 1832) được coi là một trong những vĩ nhân trong nền văn chương thế giới. Ông là một nhà thơ, nhà viết kịch, tiểu thuyết gia, nhà khoa học, họa sĩ của Đức. Hầu hết các tác phẩm của ông trường tồn với thời gian, một trong số đó là kịch thơ Faust gồm 2 phần, tác phẩm này là một trong những đỉnh cao của nền văn chương thế giới.
[*] Bộ của Vance là ấn bản độc quyền của William Archer, được Charles Scribner’s Sons xuất bản.
[*] Tiếng Latin: những nhân vật trong vở kịch.
[*] Håkon Håkonsson (1204 - 1263): vua của Na Uy trong giai đoạn 1217 - 1263, triều đại của ông kéo dài đến 46 năm.
[*] Inga xứ Varteig (khoảng 1185 - 1234): mẹ của vua Håkon. Varteig là một vùng đất thuộc hạt Østfold, Na Uy.
[*] Công tước Skule Bårdsson (1189 - 1240): một nhà quý tộc người Na Uy.
[*] Margrete Skulesdatter (1208 - 1270): con gái của Skule Bårdsson và là vợ của vua Håkon vào năm 1225.
[*] 3m.