← Quay lại trang sách

Chương 24 MÀN CUỐI-

(Thứ Ba, 26 tháng Tư; 9 a.m.)

Với phát hiện đáng kinh ngạc này, vụ án mạng Giám Mục bước vào giai đoạn cuối cùng và kinh hoàng nhất của nó. Heath đã được thông báo về phát hiện của Vance; và nhất trí rằng chúng tôi nên gặp nhau ở Văn phòng Công tố quận vào sáng sớm hôm sau để bàn bạc việc này.

Markham, khi từ giã chúng tôi vào đêm đó, trông lo âu và chán nản tới mức mà tôi chưa từng thấy trước đây.

“Tôi không biết có thể làm được gì,” anh ta nói một cách tuyệt vọng. “Không có bằng chứng hợp pháp chống lại người này. Nhưng chúng ta có thể nghĩ ra một vài hướng hành động giúp chúng ta có lợi thế… Tôi không tin vào việc tra khảo, nhưng giờ đây tôi gần như mong rằng chúng ta sẽ dùng đến công cụ thực thi pháp luật.”

Sáng hôm sau, Vance và tôi đến văn phòng của anh ta lúc hơn 9 giờ một chút. Swacker chặn chúng tôi lại và đề nghị chúng tôi ngồi chờ một lát trong phòng tiếp tân. Anh ta giải thích rằng hiện giờ Markham đang bận. Chúng tôi ngồi không lâu thì Heath xuất hiện, dữ tợn, nóng nảy và sưng sỉa.

“Tôi cần trao đổi với anh, anh Vance,” anh ta tuyên bố. “Anh nắm chắc về thông tin trong hoàn cảnh này. Nhưng tôi không hiểu điều mà chúng ta sẽ làm là gì. Chúng ta không thể bắt một gã vì tên hắn có trong một quyển sách.”

“Chúng ta có thể thúc đẩy vấn đề theo cách nào đó,” Vance đáp. “Trong bất kỳ trường hợp nào, bây giờ chúng ta biết được mình đang đứng ở đâu.”

Mười phút sau Swacker ra hiệu với chúng tôi tỏ ý rằng Markham đã rảnh việc.

“Thật tiếc vì để các anh phải chờ đợi,” Markham xin lỗi. “Tôi có một vị khách bất ngờ.” Giọng nói của anh ta chứa đựng sự thất vọng. “Nhiều rắc rối. Và, khá kỳ lạ, nó có liên quan đến khu vực công viên Riverside nơi mà anh Drukker bị sát hại. Tuy nhiên, tôi không thể làm gì được…” Anh ta đẩy một số giấy tờ về phía trước. “Giờ thì vào việc đi.”

“Có rắc rối mới gì ở công viên Riverside?” Vance tình cờ hỏi.

Markham cau mày.

“Hiện tại, chúng ta không phải lo ngại. Một vụ bắt cóc, rất có thể là như thế. Có một bài vắn tắt về nó trong các báo sáng nay, nếu anh quan tâm…”

“Tôi ghét đọc báo lắm.” Vance nói một cách ôn tồn, nhưng với sự nhấn mạnh làm tôi bối rối. “Chuyện gì đã xảy ra?”

Markham sốt ruột hít một hơi thật sâu.

“Một đứa trẻ biến mất ở sân chơi vào ngày hôm qua sau khi nói chuyện với một người lạ mặt. Cha của cô bé đã tới đây để cầu cứu sự giúp đỡ của tôi. Nhưng đây là việc của Cục Tìm người; và tôi cũng đã nói với ông ta như thế. - Bây giờ, nếu tính tò mò của anh đã lắng xuống…”

“Ồ, nhưng nó không như vậy,” Vance cố chấp. “Tôi chỉ đơn giản là muốn nghe chi tiết. Khu vực này của công viên đã mê hoặc tôi một cách lạ lùng.”

Markham ném cho anh một ánh mắt đầy nghi hoặc qua cái nhìn cau mày.

“Được thôi,” anh ta đồng ý. “Một bé gái năm tuổi, tên là Madeleine Moffat, đang chơi cùng lũ trẻ vào khoảng 5 giờ rưỡi chiều hôm qua. Cô bé trèo lên gò đất cao gần bức tường chắn, và một lát sau, khi nữ gia sư của cô bé đi tìm, thì lại nghĩ rằng cô bé đã leo xuống gò đất ở phía bên kia, đứa trẻ đã không được tìm thấy. Chỉ có một đầu mối gợi ý là hai trong số những đứa trẻ khác nói rằng chúng thấy một người đàn ông nói chuyện với cô bé ngay trước khi cô bé mất tích; nhưng, dĩ nhiên, bọn trẻ không thể miêu tả được hắn. Cảnh sát đã được thông báo, và đang điều tra. Và đó là tất cả những gì về vụ này.”

“‘Madeleine.’” Vance lặp lại cái tên một cách đăm chiêu. “Này, Markham; anh có biết là đứa nhỏ này quen biết anh Drukker không?”

“Biết chứ!” Markham ngồi thẳng lên một chút. “Cha của cô bé đã nói rằng cô bé thường hay đến những bữa tiệc ở nhà anh ta…”

“Tôi đã từng thấy cô bé.” Vance đứng dậy, hai tay để trong túi, nhìn xuống sàn nhà. “Một sinh vật nhỏ nhắn đáng yêu… mái tóc quăn vàng hoe. Cô bé mang một bó hoa cho anh Drukker trong đám tang của anh ta vào buổi sáng… Và bây giờ cô bé mất tích sau khi được nhìn thấy đã nói chuyện với một người đàn ông lạ mặt…”

“Cái gì đang diễn ra trong đầu anh vậy?” Markham đột ngột hỏi.

Vance dường như không nghe thấy câu hỏi.

“Tại sao cha cô bé lại tới cầu cứu anh?”

“Tôi có biết chút ít về Moffat nhiều năm rồi - ông ta có dính dáng đến chính quyền thành phố một lần. Ông ta điên cuồng - tham lam mọi thứ. Sự gần gũi với vụ án mạng Giám Mục đã làm ông ta sợ hãi một cách quá đáng… Nhưng xem này, Vance; chúng ta không đến đây để thảo luận về đứa trẻ mất tích của nhà Moffat…”

Vance ngẩng đầu lên: có một cái nhìn sửng sốt kinh hoàng trên gương mặt anh.

“Đừng nói - ôi, đừng nói nữa…” Anh bắt đầu đi lên đi xuống, trong khi Markham và Heath nhìn anh trong sự im lặng đầy ngạc nhiên. “Đúng - đúng; chính là nó,” anh thì thầm với chính mình. “Đúng thời cơ… tất cả đều phù hợp…”

Anh xoay người, và tới chỗ Markham chộp lấy tay anh ta.

“Đi ngay - nhanh lên! Đây là cơ hội của chúng ta - chúng ta không thể chờ thêm một phút nào nữa.” Anh rõ ràng lôi kéo và dẫn Markham về phía cửa. “Tôi đã lo sợ điều gì đó giống như thế này trong cả tuần qua…”

Markham giật mạnh tay ra khỏi sự kìm kẹp của anh.

“Tôi sẽ không ra khỏi văn phòng này, Vance à, cho đến khi anh giải thích.”

“Đó là một màn khác trong vở kịch - màn cuối đấy! Ồ, tin tôi đi mà.” Có một cái nhìn trong ánh mắt của Vance mà tôi chưa từng thấy trước đây. “Bây giờ là ‘quý cô Muffet nhỏ’. Cái tên không giống hệt nhau, nhưng điều đó không quan trọng. Nó khá giống cho trò chơi của Giám Mục; hắn sẽ giải thích tất cả với báo chí. Có lẽ hắn vẫy tay ra hiệu cho đứa trẻ tới gò đất, và ngồi xuống bên cạnh cô bé. Và giờ cô bé biến mất - biến mất trong sợ hãi…”

Markham di chuyển về phía trước với phần nào sửng sốt; và Heath, mắt anh ta như muốn lồi ra, nhảy qua cửa. Tôi tự hỏi cái gì đang diễn ra trong đầu họ trong suốt mấy giây bị Vance thúc giục nài nỉ. Liệu họ có tin lời giải thích của anh về tình tiết này không? Hay họ chỉ sợ là không điều tra được gì, bởi vì khả năng mong manh về một trò đùa ghê tởm khác được thực hiện bởi Giám Mục? Dù họ tin tưởng hay hoài nghi, họ đều chấp nhận tình huống như Vance hiểu ra; và một lúc sau chúng tôi có mặt ở sảnh, gấp rút tiến về phía thang máy. Theo đề nghị của Vance chúng tôi đã đón thám tử Tracy từ văn phòng chi nhánh của Cục Điều tra ở tòa nhà Tòa án Hình sự.

“Chuyện này nghiêm trọng rồi,” anh giải thích. “Bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra.”

Chúng tôi xuất hiện ở lối vào đường Franklin, và trong một vài phút chúng tôi đi đến khu phố trên bằng xe của công tố viên quận, bỏ qua quy định về tốc độ và lờ đi các tín hiệu giao thông. Gần như không ai nói lời nào trong chuyến đi quan trọng này; nhưng khi chúng tôi xoay xở qua những con đường quanh co của Công viên Trung tâm thì Vance nói:

“Tôi có thể sai lầm, nhưng chúng ta phải mạo hiểm. Nếu chúng ta chừ đợi bức thông điệp, nó sẽ là quá muộn. Chúng ta không cần phải biết vào lúc này; và đó là một cơ hội của chúng ta…”

“Anh mong tìm thấy gì?” Giọng Markham khô khốc và có chút ngờ vực.

Vance lắc đầu một cách chán nản.

“Ồ, tôi không biết. Nhưng nó sẽ là một cái gì đó đầy hiểm độc.”

Khi chiếc xe lắc lư dừng lại trước cửa nhà Dillard thì Vance liền nhảy ra ngoài và chạy lên mấy bậc thang trước chúng tôi. Pyne đáp lại tiếng chuông cửa liên tục của anh.

“Anh Arnesson đâu?” Anh hỏi.

“Ở trường đại học, thưa anh,” ông lão quản gia đáp; và tôi có thể hình dung được có sự sợ hãi trong ánh mắt của ông ta. “Nhưng anh ta sẽ về nhà sớm vào bữa trưa.”

“Vậy cho chúng tôi gặp giáo sư Dillard ngay lập tức.”

“Xin lỗi, thưa anh,” Pyne nói với anh; “nhưng giáo sư cũng đã ra ngoài rồi. Ông ấy tới Thư viện Công cộng…”

“Ông ở nhà một mình sao?”

“Đúng vậy, thưa anh. Beedle đi chợ rồi.”

“Vậy thì càng tốt.” Vance nắm lấy người quản gia và hướng ông ta về cầu thang phía sau. “Chúng tôi sẽ lục soát căn nhà, ông Pyne à. Ông dẫn đường đi.”

Markham bước tới trước.

“Nhưng, Vance, chúng ta không thể làm thế!”

Vance quay người.

“Tôi không có hứng thú với việc anh có thể làm gì hoặc không thể làm gì. Tôi sẽ lục soát căn nhà… Trung sĩ, anh đi với tôi chứ?” Có một cái nhìn kỳ lạ trên khuôn mặt anh.

“Anh hoàn toàn đúng!” (Tôi chưa bao giờ thích Heath nhiều như lúc này.)

Việc tìm kiếm bắt đầu ở tầng hầm. Mọi hành lang, mọi tủ quần áo, mọi tủ bếp và không gian trống nào cũng đều được kiểm tra. Pyne, hoàn toàn sợ hãi bởi sự không khoan nhượng của Heath, hành động như người dẫn đường. Ông ta mang chìa khóa và mở những cánh cửa cho chúng tôi, và thậm chí đề xuất vài nơi mà nếu không thì chúng tôi đã bỏ qua. Viên trung sĩ đắm mình trong cuộc đi săn với đầy năng lượng, mặc dù tôi chắc chắn là anh ta chỉ có một ý niệm mơ hồ đối với mục đích của công việc. Markham đi theo chúng tôi với sự phản đối; nhưng anh ta, cũng thấy được sự quả quyết đầy động lực của Vance; và anh ta hẳn đã nhận ra rằng Vance có lý lẽ biện hộ mạnh mẽ nào đó cho việc cư xử liều lĩnh của anh.

Dần dần chúng tôi lục soát lên phía trên căn nhà. Thư viện và phòng của Arnesson đều được chúng tôi kiểm tra cẩn thận. Căn phòng của Belle cũng đã được xem xét kỹ lưỡng, và gần như sự chú ý được đặt vào những căn phòng không được sử dụng ở tầng ba. Ngay cả những khu của người hầu ở tầng bốn đều được kiểm tra kỹ càng. Nhưng không có gì khả nghi được phát hiện. Mặc dù Vance đã kiềm chế sự háo hức của mình thì tôi vẫn có thể nói về một sự căng thẳng bồn chồn mà anh đang chịu đựng bởi sự gấp rút không mệt mỏi thúc đẩy anh tìm kiếm.

Cuối cùng chúng tôi đến một cánh cửa bị khoá ở phía sau hành lang trên.

“Nó dẫn tới đâu?” Vance hỏi Pyne.

“Đến một căn phòng nhỏ trên gác mái, thưa anh. Nhưng nó không bao giờ được sử dụng…”

“Mở nó ra.”

Người đàn ông dò dẫm một lát trong chùm chìa khóa của ông ta.

“Dường như tôi không thấy chìa khóa, thưa anh. Nó lẽ ra phải ở đây…”

“Lần cuối ông có nó là khi nào?”

“Tôi không nhớ, thưa anh. Theo như tôi biết là không ai đến căn phòng gác mái này nhiều năm rồi.”

Vance lùi lại và lấy đà.

“Đứng qua một bên, ông Pyne.”

Khi người quản gia di chuyển ra khỏi thì Vance tông cửa với một lực rất mạnh. Có tiếng cót két và biến dạng trên cửa gỗ; nhưng cửa vẫn khoá.

Markham tiến về trước và giữ chặt hai vai anh.

“Anh điên rồi!” Anh ta la lên. “Anh đang phạm luật đấy.”

“Luật với lệ!” Có sự châm biếm gay gắt trong lời vặn lại của Vance. “Chúng ta đang đối phó với một con quái vật nhạo báng tất cả luật lệ. Anh có thể chiều theo hắn nếu anh muốn, nhưng tôi sẽ lục soát căn phòng gác mái này cho dù điều đó dẫn đến việc tôi phải trải qua phần đời còn lại trong tù. - Trung sĩ, hãy mở cánh cửa đó ra!”

Một lần nữa tôi được trải nghiệm cảm giác thích thú dành cho Heath. Không một chút do dự, anh ta đứng sẵn sàng và tông mạnh vai mình vào ván cửa ngay trên tay nắm. Có một mảnh gỗ bung ra vì chốt khóa bị giật mạnh qua khỏi cái gờ. Cánh cửa lúc lắc vào trong.

Vance, thoát khỏi gọng kìm của Markham, chạy vấp lên các bậc thang và chúng tôi theo sau anh. Không có tia sáng nào trong căn phòng gác mái này, và chúng tôi dừng lại một chút ở đầu cầu thang để đôi mắt quen dần với bóng tối. Sau đó Vance quẹt diêm và, mò mẫm về phía trước, kéo tấm màn cửa sổ lên tạo ra âm thanh lách cách. Ánh sáng mặt trời ùa vào, làm hiện ra một căn phòng nhỏ, vuông vức mỗi bề 10 foot[*], bừa bộn với đầy đồ vật linh tinh. Không khí nặng nề và ngột ngạt, và một lớp bụi dày phủ trên mọi thứ.

Vance nhanh chóng nhìn xung quanh, và một sự thất vọng hiện trên gương mặt anh.

“Đây là nơi còn lại duy nhất,” anh bình luận, với sự bình tĩnh trong tuyệt vọng.

Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng căn phòng, anh bước đến góc gần cửa sổ nhỏ và nhìn chăm chú xuống cái vali méo mó nằm dựa một mặt vào tường. Tôi nhận thấy nó đã được mở chốt và quai của nó treo toòng teng. Nghiêng người qua anh mở nắp ra sau.

“A! Đây này, ít nhất, có cái gì đó cho anh đây, Markham.”

Chúng tôi tụ lại chỗ anh. Trong cái vali là một máy đánh chữ Corona cũ. Một tờ giấy để trong bao thư; và trên đó được đánh máy, bằng những ký tự kiểu élite màu lam nhạt, có hai dòng:

Quý cô Muffet nhỏ

Ngồi trên gò đất nhỏ

Tại chỗ này người đánh máy rõ ràng đã bị gián đoạn, hoặc vì một lý do gì đó mà không thể hoàn thành bài đồng dao Mẹ Ngỗng.

“Thông điệp mới của Giám Mục dành cho báo chí,” Vance nhận xét. Sau đó đưa tay vào cái vali, anh lấy ra một xấp giấy trắng và bao thư. Ở bên dưới, cạnh cái máy, đặt một quyển sổ bìa da màu đỏ với những tờ giấy màu vàng. Anh đưa nó cho Markham với một thông báo ngắn gọn:

“Những tính toán của Drukker về thuyết lượng tử.”

Nhưng vẫn có một cái nhìn thất bại trong mắt anh; và anh lại lục soát căn phòng lần nữa. Ngay sau đó anh đi tới cái bàn trang điểm cũ đứng dựa vào tường đối diện cửa sổ. Khi anh cố gắng nhìn phía sau nó thì anh đột ngột lùi lại và, ngẩng đầu lên, hít mũi vài lần. Tại thời điểm đó anh đã bắt gặp một vật trên sàn nhà ngay chân mình, và đá nó về phía giữa phòng. Chúng tôi nhìn xuống nó với vẻ kinh ngạc. Đó là một chiếc mặt nạ phòng hơi độc được sử dụng bởi các nhà hoá học.

“Lùi lại, mọi người!” Anh ra lệnh; và lấy một tay bịt mũi và miệng lại rồi đẩy bàn trang điểm ra khỏi tường. Ngay đằng sau nó là một tủ nhỏ cao khoảng ba foot[*], đặt âm tường.

Anh giật mạnh mở nó ra và nhìn vào bên trong, rồi đóng sầm lại ngay lập tức.

Nói ngắn gọn về những gì tôi thấy bên trong cái tủ, tôi có thể nhìn thoáng qua những thứ bên trong nó một cách rõ ràng. Nó được gắn hai cái kệ. Kệ dưới có vài quyển sách đang mở. Kệ trên có một cái bình Erlenmeyer[*] để đứng được kẹp bởi thanh sắt, một đèn cồn, một ống ngưng tụ, một cốc thủy tinh, và hai cái chai nhỏ.

Vance quay lại và nhìn chúng tôi với vẻ thất vọng.

“Chúng ta có thể đi rồi: chẳng còn gì ở đây nữa.”

Chúng tôi quay lại phòng khách, để thám tử Tracy đứng gác ở cửa dẫn đến phòng gác mái.

“Có lẽ, sau tất cả, anh có lý do chính đáng cho việc lục soát của mình,” Markham thừa nhận, quan sát Vance một cách nghiêm túc. “Tuy nhiên, tôi không thích những phương pháp như vậy. Nếu chúng ta không tìm ra được cái máy đánh chữ…”

“Ồ, thế đấy!” Vance, lo lắng và bồn chồn, đi tới cửa sổ nhìn ra bãi tập bắn cung. “Tôi không tìm kiếm cái máy đánh chữ - cũng không phải quyển sổ ghi chép. Chúng quan trọng thế sao?” Cằm anh hạ thấp, và mắt anh nhắm lại trong một trạng thái mệt mỏi của sự thất bại. “Mọi thứ đều đi sai hướng - lập luận của tôi đã sai. Chúng ta quá trễ rồi.”

“Tôi giả vờ như không biết anh đang cằn nhằn về cái gì,” Markham nói. “Nhưng ít nhất anh đã cung cấp cho tôi một loại bằng chứng đó. Giờ thì tôi có thể bắt giữ Arnesson khi anh ta từ trường đại học trở về.”

“Phải, phải; dĩ nhiên. Nhưng tôi không nghĩ về Arnesson, họặc việc bắt giữ hung thủ, hay thắng lợi của Văn phòng Công tố quận. Tôi đang hy vọng…”

Anh ngừng nói và xác định lại.

“Chúng ta chưa muộn! Tôi nghĩ chưa đủ xa…” Anh nhanh chóng đi đến cổng vòm. “Chúng ta phải lục soát nhà Drukker… Nhanh lên!” Anh như vừa đi vừa chạy xuống hành lang, Heath ở phía sau anh, và Markham với tôi theo sau.

Chúng tôi theo anh xuống cầu thang phía sau, băng qua phòng bắn cung và ra bãi tập. Chúng tôi không biết, và tôi không tin có bất kỳ ai trong chúng tôi đoán ra, những gì đang diễn ra trong đầu anh; nhưng một vài kích thích bên trong anh đã truyền qua chúng tôi, và chúng tôi nhận ra rằng chỉ có sự sống còn đây cấp bách mới có thể lay động anh một cách mạnh mẽ ra khỏi thái độ bàng quan và điềm tĩnh bình thường của anh.

Khi chúng tôi đến hiên lưới nhà Drukker, anh đi lọt qua tấm lưới kim loại bị tháo và tiếp tục cuộc rượt đuổi. Cửa phòng bếp, trước sự kinh ngạc của chúng tôi, đã bị mở khóa; nhưng Vance dường như mong đợi điều này, vì anh không ngần ngại vặn tay nắm và mở nó ra.

“Khoan đã!” Anh ra lệnh, dừng lại một chút ở hành lang phía sau. “Không cần lục soát cả căn nhà đâu. Nơi có khả năng nhất… Đúng rồi! Đi thôi… trên lầu… đâu đó giữa ngôi nhà… có khả năng là tủ đựng quần áo… nơi mà không ai có thể nghe thấy…” Vừa nói anh vừa dẫn đường lên cầu thang phía sau, qua phòng bà Drukker và xem xét, và từ đó đi tiếp đến tầng ba. Có hai cánh cửa ở hành lang trên - một cái ở tận cuối, và một cánh cửa nhỏ hơn nằm giữa ở phía tường bên phải.

Vance đi thẳng đến cái thứ hai. Có một chìa khóa nhô ra từ ổ khóa, và xoay nó, anh mở cửa ra. Chỉ có bóng tối mờ ảo trước mắt chúng tôi. Vance khựng lại một giây, rồi dò dẫm bên trong.

“Nhanh lên, trung sĩ. Đèn pin của anh.”

Trước khi anh kịp nói thêm một từ nào nữa thì ánh sáng đã chiếu xuống sàn của tủ quần áo. Thứ mà tôi cảm nhận được là sự ớn lạnh kinh hoàng. Tiếng thốt lên nghẹn ngào bật ra từ Markham; và một tiếng huýt sáo nhẹ nhàng bảo tôi rằng Heath quá kinh hoàng khi thấy cảnh này. Trước mặt chúng tôi ở trên sàn, trong sự yếu ớt, câm lặng, đang nằm đó là bé gái đã mang hoa đến cho Humpty Dumpty vào buổi sáng hôm tang lễ của anh ta. Mái tóc vàng của cô bé rối bời; khuôn mặt nhợt nhạt, và có những vệt nước mắt dài đã chảy ra và khô lại trên má của cô bé.

Vance cúi xuống và áp tai lên tim cô bé. Rồi anh dịu dàng kéo cô bé vào vòng tay của mình.

“Quý cô Muffet nhỏ tội nghiệp,” anh thì thầm, và đứng dậy đi về hướng cầu thang phía trước. Heath đi trước anh, chiếu đèn soi đường để không ai bị vấp ngã. Đến hành lang dưới anh dừng lại.

“Mở chốt cửa ra, trung sĩ.”

Heath sốt sắng làm theo lời anh, và Vance bước ra ngoài vỉa hè.

“Hãy tới nhà Dillard và đợi tôi ở đó,” anh nói vọng lại. Và ôm chặt đứa bé trước ngực, anh bắt đầu băng qua đường số 76 tới ngôi nhà mà tôi thấy có một bảng bằng đồng đề tên một bác sĩ.

Chú Thích:

[*] 0,9 m.

[*] Richard August Carl Emil Erlenmeyer (1825 - 1909): nhà hóa học người Đức. Bình Erienmeyer, còn được gọi là bình hình nón hoặc bình tam giác, là loại bình chứa dùng trong phòng thí nghiệm; được đặt theo tên của nhà hóa học Emil Erlenmeyer, người đã sáng tạo ra nó vào năm 1860.

[*] Tôi thú nhận là cái tên Rhazis lạ lẫm với tôi; và khi tra cứu sau đó tôi phát hiện ra điều mà Vance nhắc đến không xuất hiện trong Kinh Thánh Anh giáo, mà trong quyển thứ hai của bộ sách Maccabees trong thứ kinh.