6: Khi Maria về nhà 1
Có tiếng gõ cửa. Naoko tưởng Takase lên thông báo giờ ăn tối như mọi khi, thế nhưng đứng trước cửa lại là Enami với vẻ mặt căng thẳng.
“Tôi qua vì có điều thắc mắc.” Anh ta nói. "Chuyện đó… chuyện chốt cửa sổ ấy, các em đã thử tìm hiểu chưa?
Enami có vẻ khá bận tâm đến vấn đề căn phòng kín.
“Rồi ạ. Nhưng không khả quan lắm.”
“Vậy à…”
Anh ta nhìn xuống với vẻ hơi thất vọng.
“À… mời anh vào.”
Naoko nép người qua một bên, mời Enami. Anh ta ngập ngừng một chút, nói “Anh xin phép.” rồi bước vào.
Ở phòng khách, Makoto đang nhìn tấm bản đồ khu nhà khách. Anh ta hướng mắt về phía tấm bản đồ và mấy bài đồng dao để lộn xộn trên bàn.
“Cậu Koichi cũng thường xuyên làm thế này.” Anh ta nói giọng cảm khái.
Sau khi Naoko dẫn tới phòng ngủ, anh ta tiến thẳng đến phía cửa sổ, quan sát cấu tạo chốt cửa. Có vẻ như anh ta nghĩ rằng đây là điểm mấu chốt của vấn đề.
“Quả nhiên là cửa sổ bên này cũng có cấu tạo dạng chốt giống cửa sổ phòng anh.” Anh ta vừa vặn chốt vừa lẩm bẩm.
“Tôi nghĩ không thể dùng chỉ hay dây thép để khóa cửa từ bên ngoài được đâu.”
Đột nhiên, Makoto đến bên cạnh Naoko và nói. “Vì tòa nhà này được xây ở xứ lạnh, nên người ta thiết kế cửa sổ hoàn toàn không có khe hở để gió không lọt qua được.”
“Có vẻ là vậy nhỉ?”
Anh ta đứng dậy, biểu cảm như muốn từ bỏ.
“Chỉ là… tôi nghĩ có một cách. Cách này tôi đã đọc trong một cuốn sách nào đó. Đầu tiên hung thủ gài chốt cửa ở vị trí có thể rơi xuống rồi dùng tuyết hay vật gì đó chặn lại, sau đó ra khỏi phòng. Khi cửa đóng lại, tuyết sẽ tan ra và chốt tự rơi xuống nhờ sức nặng của chính nó…”
“Một phương pháp khá quen thuộc nhỉ. Nhưng loại chốt này rất khít, nếu chỉ nhờ sức nặng của chính nó thì chắc không tự rơi xuống được đâu.”
Nghe cách nói của Makoto thì có vẻ như cô ấy đã thử cách đó rồi. Như muốn giấu đi sự ngượng ngùng, Enami vừa gãi đầu vừa đi ra xa khỏi cửa sổ.
“Có phải từ đầu đến cuối chốt cửa sổ đều được đóng đúng không? Khó thật đấy. Hai người có ý tưởng gì không?”
“Có lẽ hung thủ ra ngoài bằng đường cửa chính.”
Câu nói của Makoto khiến Enami mở to mắt.
“Có cách để ra ngoài bằng cửa chính sao?”
“Dùng khóa dự phòng chẳng hạn.”
“Quả là thế, nhưng hình như cảnh sát cũng đã điều tra việc đó rồi.”
“Tôi nghĩ khả năng đó là rất thấp. Hơn nữa, xét về mặt cơ học thì có lẽ không thể.”
“Ừ, đúng thế.”
Enami khoanh tay trước ngực, gật gù vẻ đồng tình. “Tôi cũng sẽ thử nghĩ lại một lần nữa. Nếu nảy ra ý tưởng nào hay tôi sẽ thông báo cho các cô ngay.”
“Cảm ơn anh.”
Naoko cúi đầu. Anh ta nói với cô giọng chân thành.
“Anh trai cô là một người tốt. Cũng giống tôi, cậu ấy rất mê trinh thám. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau rất nhiều. Mọi chuyện sẽ ổn thôi, nhất định sẽ có phương án hợp lý nào đó.”
Sau đó anh ta rời khỏi phòng. Thấy anh ta đã khép cửa lại, Makoto lầm bầm giọng chán nản “Phòng kín à?” Naoko hiểu rõ tâm trạng của cô ấy, đang bị chuyện ám hiệu chiếm hết tâm trí, thế nhưng bí ẩn này cũng không thể không giải quyết.
Lại có tiếng gõ cửa. Lần này là Takase.
2:Bầu không khí sau bữa tối trong sảnh chờ vô cùng căng thẳng, mọi người đều cảm thấy nặng nề và khó xử. Vẫn như mọi khi, một nhóm bắt đầu tụ tập chơi poker, Bác sĩ và Kamijo thì xếp những quân cờ, thế nhưng chẳng ai tập trung được vào việc của mình. Nakamura và Furukawa không tham gia mấy trò này, họ là những người đầu tiên trở về phòng để thoát khỏi bầu không khí ngột ngạt ấy. Kurumi và Takase nói còn chút việc rồi lẩn đi đâu mất. Phu nhân dạy Naoko và Makoto chơi Domino. Nếu buộc phải nói ra, thì chỉ có mỗi vẻ hoạt bát của Phu nhân là hầu như không thay đổi.
“Cậu định thế nào?”
Khi mọi người đang nhìn vào những lá bài, Bếp trưởng lớn tiếng hỏi. Ánh mắt anh ta trước tiên hướng về phía Ông chủ đang ngồi đối diện, sau đó dồn vào hai người đàn ông đang ngồi ở quầy lễ tân, chăm chú dò xét thái độ của từng người trong phòng.
“Thế nào là thế nào?” Ông chủ nói với giọng thản nhiên.
“Còn thế nào nữa?” Bếp trưởng có vẻ tức giận thực sự. “Tại sao mấy người này lại ở lại đây?”
“Chịu.” Ông chủ vẫn điềm nhiên chơi bài. “Cậu thử hỏi khách trọ xem, từng người từng người một ấy? Tại sao họ lại nghỉ trọ ở nhà khách này.”
“Tôi nói một chút được không?” Enami cất giọng xen vào giữa hai người. “Có lẽ các vị ấy vẫn còn nhiều việc phải điều tra đúng không? Thử nghĩ xem, nếu bây giờ họ về xong sáng sớm mai lại tới thì cũng rất vất vả.”
“Đúng đấy. Chúng ta đừng quá bận tâm.”
Shibaura cũng đồng tình với Enami nên Bếp trưởng không nói gì thêm nữa.
Hai người gồm cảnh sát trưởng Muramasa và cậu hình sự trẻ tuổi Nakabayashi, nguyên nhân của cuộc đấu khẩu vừa rồi, vẫn điềm nhiên hút thuốc như thể hoàn toàn chẳng nghe thấy mấy người lời qua tiếng lại. Sắc mặt không chút thay đổi. Naoko nhìn tình hình xung quanh, không khỏi thán phục.
“Ơ, bác lại thắng nữa rồi.” Phu nhân hớn hở, cất giọng nói vô tư.
Hơn mười giờ, thấy hai viên cảnh sát về phòng, Naoko và Makoto cũng đứng dậy. Phu nhân thoáng giận dỗi nhưng sau khi Naoko hứa ngày mai sẽ tới thăm thì có vẻ cũng nguôi nguôi.
Tới trước cửa phòng Thánh Paul, hai người đưa mắt nhìn nhau rồi gật đầu như thể xác nhận lần cuối. Naoko gõ cửa với vẻ mặt căng thẳng. Cô không muốn hai người bọn Nakamura ở phòng bên cạnh chú ý, vì vậy khi âm thanh tiếng gõ cửa vang lên khá to, cô hơi giật mình.
Người mở cửa là Nakabayashi. Vì anh ta lười cao, để râu mọc quanh miệng lên tới tận mang tai nên từ trước tới giờ Naoko không nhận ra, lúc này cô mới thấy anh ta có khuôn mặt rất trẻ thơ. Anh ta mở to mắt nhìn hai người một hồi, cuối cùng mới “A” lên như sực nhớ ra chuyện gì.
“Các cô đến có việc gì à?”
“Chúng tôi có chuyện muốn nhờ.”
Naoko vừa nói vừa nhìn trộm vào bên trong. Sau lưng Nakabayashi, thân hình nhỏ bé của Muramasa đang tiến lại gần.
“Chủ động gõ cửa phòng đàn ông, các cô táo tợn thật đấy.”
Tay hình sự nói một câu bông đùa tẻ ngắt.
“Chúng tôi muốn xem tấm thẻ treo tường.”
“Tấm thẻ treo tường?”
“Dù thế nào, có thể cho chúng tôi vào được không?”
Makoto liếc một cái về phía sảnh chờ rồi nhỏ giọng nói như thể đây là chuyện không thể tiết lộ ra ngoài. Cô nhấn mạnh không muốn để người khác chú ý. Cách nói đó có vẻ có tác dụng, hai viên cảnh sát do dự một chút rồi nhường lối cho bọn cô vào.
“Chúng tôi muốn xem nội dung bài đồng dao trên tấm thẻ treo tường.”
Nói xong, Naoko tiến tới trước tấm thẻ trang trí, bắt đầu chép lại bài đồng dao vào cuốn sổ tay mang theo. Hai tay hình sự mất một lúc ngạc nhiên không nói nên lời, chỉ đứng đằng sau cô. Thế nhưng, khi ngòi bút của Naoko bắt đầu chuyển động, Muramasa cũng cất tiếng hỏi Makoto.
“Bài đồng dao này có ý nghĩa gì sao?”
Makoto không trả lời ngay. Có lẽ cô đang suy tính nên giải thích thế nào. Cuối cùng, từ đầu tiên mà cô lựa chọn để nói ra là một từ hết sức nhẹ nhàng với thực tế: “Câu thần chú.”
“Câu thần chú?” Cảnh sát trưởng ngơ ngác. “Là cái gì thế?”
“Thì là… một câu thần chú.”
Makoto giải thích cực kỳ ngắn gọn về việc mỗi căn phòng của nhà khách này đều có treo một tấm thẻ trang trí, trên đó khắc những bài đồng dao Mẹ Ngỗng cùng ý nghĩa của nó. Hai viên cảnh sát không hiểu đồng dao Mẹ Ngỗng là cái gì, có nghe về câu thần chú tới hạnh phúc cũng chẳng hiểu mô tế, thế nên họ hoàn toàn lúng túng. Nakabayashi khổ sở phát biểu cảm tưởng.
“Dạo gần đây thịnh hành nhiều trào lưu kỳ lạ nhỉ?”
“Anh trai tôi đã tìm hiểu về ý nghĩa của câu thần chú này. Nói cách khác, câu thần chú này là một dạng ám hiệu.”
Chép xong bài đồng dao, Naoko quay lại phía hai cảnh sát.
“Ám hiệu?”
Quả nhiên, gương mặt cả hai bỗng trở nên nghiêm túc khi nghe thấy từ này.
“Ám hiệu ấy có ý nghĩa gì?”
Naoko giải thích cho hai viên cảnh sát nghe về mối liên quan giữa số đá quý của Kawasaki và ám hiệu. Trước đó, cô và Makoto đã thống nhất cần phải kể chuyện này cho cảnh sát nghe. Thế nhưng hai người không rõ lắm về vụ việc hai năm trước nên mới hào hứng đến vậy, chứ hai viên cảnh sát nghe đến đoạn giấu đá quý thì chỉ tủm tỉm cười chế giễu.
“Nhìn mặt hai vị cứ như muốn nói không thể có chuyện đó đâu ấy nhỉ?”
Ở bên cạnh, Makoto có vẻ cáu. Cô nói giọng cứng rắn. “Như kiểu chúng tôi đang kể truyện cổ tích vậy.”
“Không phải vậy.”
Muramasa vội vã xua tay lắc đầu. “Tôi nghĩ chuyện đó có thể xảy ra lắm chứ. Là tôi khâm phục sự sáng tạo của các cô thôi. Quả thực là số đá quý khi đó vẫn chưa được tìm thấy mà. Chỉ là tôi không nghĩ rằng sự việc đó và cái chết của anh trai cô Naoko có liên quan đến nhau… Đương nhiên, đó cũng chỉ là ý kiến của cá nhân tôi thôi.”
“Nhưng sự thực là anh trai tôi đã tìm hiểu về ám hiệu này.” Naoko bực dọc nói. “Chính vì thế, chỉ cần chúng tôi làm như anh Koichi, tìm hiểu về những bài đồng dao trên các tấm thẻ trang trí, nhất định sẽ phát hiện được điều gì đó.”
“Đó là quyền của các cô.”
Muramasa nhẹ nhàng đáp. Giọng điệu khiến cho người nghe có cảm giác ông ta muốn nói “Các cô thích chơi trò thám tử thì cứ việc.”
“Thế nhưng mà nhé, việc chúng tôi kết luận anh trai cô tự sát dựa trên rất nhiều bằng chứng. Đó là kết quả điều tra rất nhiều điều như động cơ, mối quan hệ với người khác và đặc biệt là tình trạng hiện trường khi đó. Vậy nên nếu các cô muốn phủ định kết luận đó, thì cần phải đưa ra được những giải thích có tính thuyết phục về những dữ liệu ấy.”
“Ví dụ như vấn đề phòng kín ấy hả?”
Ông ta lạnh lùng đáp lại câu hỏi của Makoto.
“Đúng thế. Phòng kín cũng là một trong số đó. Kết quả tổng hợp lời khai của tất cả mọi người đã chứng tỏ rằng người khóa cửa phòng Hara Koichi chỉ có thể chính là cậu ấy mà thôi. Nếu hai cô phản đối, thì phải đưa ra được giải đáp thỏa đáng cho điều bí ẩn đó. Trong trường hợp này, quan trọng là tính thỏa đáng nhé.”
Nói cách khác, những xuyên tạc vô lý hay những lý giải chỉ mang tính ngẫu nhiên sẽ không được chấp nhận.
“Có một vị khách đã nói cho chúng tôi nghe một chuyện rất thú vị.”
Makoto nhớ ra chuyện Enami kể ban trưa, liền nói lại với cảnh sát. Tức là hung thủ trốn trong phòng ngủ, thoát ra ngoài theo đường cửa sổ. Sau đó, bằng một phương pháp nào đó, khóa chốt cửa sổ lại từ bên ngoài. Ban đầu Muramasa mặt mày cực kỳ nghiêm trọng, ông ta hỏi.
“Vậy đã tìm ra phương pháp chốt cửa lại từ bên ngoài chưa?”
“Chưa.”
Nghe Makoto trả lời, ông ta lập tức quay trở lại trạng thái thản nhiên.
“Quả nhiên là vậy. Trường hợp đó, phía cảnh sát chúng tôi chắc cũng đã điều tra rồi.”
“Thế nhưng tôi nghĩ đó cũng được coi là một khả năng.”
“Tinh thần chiến đấu là điều quan trọng nhỉ. Nhân tiện, vị khách đã nói chuyện đó với hai cô là ai thế? Nếu được có thể nói tên…”
“Là anh Enami.”
Naoko trả lời. Muramasa làm khẩu hình ngạc nhiên.
“Vị đó là một nhà khoa học nhỉ? Nghe đâu cũng khá nổi tiếng trong công ty nhờ những ý tưởng độc đáo. Thế nhưng tính cá nhân lại quá mạnh nên chả được mấy ai ủng hộ.”
Enami tới nhà khách này từ hai năm trước, khi vụ án đầu tiên xảy ra. Vì mối liên quan này mà quả nhiên anh ấy cũng đã bị điều tra thân phận.
“Được rồi, như đã nói ban sáng, trước mắt chúng tôi sẽ dồn toàn lực để bắt được hung thủ của vụ án lần này. Trong quá trình đó, nếu phát hiện ra có mối liên quan nào với các vụ án đã xảy ra trước đây, thì đương nhiên chúng tôi cũng sẽ điều tra đến cùng. Các cô hiểu giùm điều đó được không?”
“Tôi hiểu.” Naoko miễn cưỡng đáp.
“Vậy thì, chúc ngủ ngon. Thiếu ngủ là ảnh hưởng đến nhan sắc lắm đấy.”
Thế nhưng khi ông ta định giơ tay mở cửa thì Makoto liền đứng chặn trước mặt.
“Các ông có manh mối nào về hung thủ của vụ án lần này chưa?”
“Cô…”
Nakabayashi xẵng giọng, nhưng Muramasa liền dỗ dành.
“Chúng tôi có thể khẳng định hung thủ là người đang trọ lại trong nhà khách này. Nói một cách thô thiển thì là chuột đã ở trong rọ.”
“Nói vậy, để dồn nó vào đường cùng nên các ông mới ngủ lại qua đêm ở đây sao?”
“Chúng tôi chưa có quân cờ nào dồn được nó vào đường cùng cả. Tình hình bây giờ mới chỉ có một quân xe thôi, còn lại toàn quân tốt. Thôi, muộn rồi.”
Muramasa vòng ra phía sau Makoto, nhanh chóng mở cửa. Tay còn lại chỉ ra phía hành lang.
“Hình như các cô muốn nói chuyện thêm chút nữa, nhưng thật tiếc, chúng tôi còn vài việc phải làm. Hôm nay đến đây thôi.”
Makoto và Naoko nhìn nhau thở nhẹ ra.
“Chúc ngủ ngon.” Naoko nói.
Viên cảnh sát gật đầu rồi đóng cửa lại.
Bài đồng dao Thánh Paul:
Upon Paul’s steeple stands a tree
As full of apples as may be;
The little boys London Town
They run with hooks to pull them down:
And then they run from hedge to hedge
Until they come to London Brigde.
Trên tháp chuông của Thánh Paul có một cái cây
Trĩu trịt những trái táo;
Những cậu bé của thành phố London
Cần những chiếc móc để hái chúng xuống:
Lấy được táo rồi liền ba chân bốn cẳng chạy từ hàng rào này tới hàng rào khác
Và cuối cùng chạy tới Cầu London.
Đây là bài đồng dao chép lại từ phòng của cảnh sát trưởng Muramasa. Naoko và Makoto im lặng nhìn phần lời thơ của bài đồng dao này một lúc. Người lên tiếng trước là Makoto.
“Có vẻ anh Koichi đã nói mấu chốt để giải được ám hiệu là phải đọc bài đồng dao trong các phòng đúng trình tự, nhưng cụ thể phải xử lý thế nào mới được nhỉ?”
“Xử lý?”
“Tức là ám hiệu này thuộc loại nào ấy. Ví dụ như có loại ám hiệu chữ cái gốc được thay thế bằng một chữ cái khác chẳng hạn. Loại ám hiệu đó đã xuất hiện trong Những hình nhân nhảy múa của Sherlock Holmes hay Bọ cánh vàng của Poe. Thế nhưng trong trường hợp này, vì chỉ cần sắp xếp các bài đồng dao Mẹ Ngỗng như nó vốn có nên chắc chắn không thể nào là loại ám hiệu đó được.”
Tuy không đến mức hâm mộ cuồng nhiệt, nhưng Makoto cũng là người thích truyện trinh thám. Vừa nãy thay vì nói là Những hình nhân nhảy múa của Conan Doyle thì cô ấy lại nói thành của Sherlock Holmes, nên chẳng biết liệt vào kiểu người hâm mộ gì.
“Ngoài ra còn có kiểu ám hiệu gì khác?”
“Để xem nào. Còn có kiểu thay đổi trật tự từ để tạo thành câu. Lấy ví dụ đơn giản, một câu để nguyên như thế rồi viết ngược lại, hoặc sau khi viết ngay ngắn theo hàng ngang thì chép lại theo chiều dọc chẳng hạn. Thế nhưng kiểu đó cũng không thể áp dụng cho ám hiệu lần này.”
“Còn kiểu khác nữa không?”
“Chèn từ dư thừa vào giữa các từ vựng hoặc những từ đơn cấu thành một câu văn để làm cho toàn thể đoạn văn nghe như không có ý nghĩa.”
“Ừm, cách này cũng không đúng nhỉ. Phải là kiểu có ý nghĩa.”
“Đúng thế. Nếu là một trong ba cách mà tớ vừa nói đến thì đoạn văn ám hiệu hoàn thiện phải hoàn toàn không có ý nghĩa, hoặc phải thấy các dãy ký hiệu đơn lẻ. Thế nên những cách đó không phù hợp với ám hiệu lần này.”
“Không có loại nào mà ám hiệu hoàn thiện là đoạn văn có nghĩa sao?”
“Từ mục đích ban đầu mà nói, thì bản thân câu văn ám hiệu không cần có ý nghĩa. Thế nhưng không phải là không có những ám hiệu như thế. Có loại ám hiệu, nhìn lướt qua thì chỉ là những câu văn bình thường xếp cạnh nhau, nhưng khi nhặt những chữ đầu tiên hoặc những chữ cuối cùng của từng dòng đem ghép lại thì từ khóa được giấu đi sẽ xuất hiện. Như kiểu trò tìm chữ ấy. Đây, tớ có một ví dụ thế này.”
Nói xong, Makoto viết vào sổ bài thơ Iroha§, lần lượt bảy chữ cái một dòng, sau đó khoanh vào chữ cái cuối cùng của từng dòng.
I ro ha ni ho he to
chi ri nu ru wo wa ka
Yo ta re so tsu ne na
Ra mu u wi no o ku
Ya ma ke fu ko e te
A sa ki yu me mi shi
We hi mo se su
“Nếu ghép các chữ cái cuối cùng lại sẽ thành toka nakute shisu. Từ toka này là toga, có nghĩa là tội lỗi. Nói cách khác, ta sẽ biết được câu văn được giấu đi trong bài thơ này là không có tội vẫn chết. Từ đó suy ra tác giả của bài thơ đưa ra câu chuyện về một người vô tội bị tử hình.”
“Tuyệt quá.”
Nghe Makoto giải thích xong, Naoko trầm trồ. Hai thứ cảm xúc cùng dâng lên trong cô. Một nửa là ngạc nhiên vì bài thơ Iroha từ trước đến nay tưởng như không có gì nhưng lại ẩn chứa một bí mật như thế, nửa còn lại là khâm phục sự hiểu biết của Makoto.
“Tớ hoàn toàn không biết điều này đấy.”
“Câu chuyện này quá nổi tiếng, rất nhiều người biết. Khi giải thích về mánh ẩn từ thì kiểu gì cũng sẽ được đem ra làm ví dụ, chỉ cần là người đọc tiểu thuyết trinh thám thì chắc ai cũng biết. Vậy nên cậu đừng khen quá, tớ thấy ngại lắm.”
“Gì thế, cậu thật là…”
“Vì vậy, trường hợp này tớ nghĩ có lẽ khả thi nhất là phương thức ám hiệu giấu từ khóa. Thật ra tớ cũng đã thử sắp xếp theo rất nhiều cách, nhưng mà…”
Makoto lấy trong túi ra cuốn sổ tay của mình. Từ khi tới đây, vì không biết sẽ có chuyện gì xảy ra nên hai người lúc nào cũng mang theo mấy dụng cụ ghi chép kiểu này. Trong số của cô ấy, tên từng căn phòng của nhà khách Mẹ Ngỗng được viết thành một hàng theo trật tự.
“Tớ đã thử lấy các chữ cái đầu và các chữ cái cuối rồi, nhưng chẳng ra nghĩa gì cả. Vậy nên chuyện anh Koichi từng nói chỉ cần đọc theo đúng thứ tự, tớ vẫn chưa hiểu được. Nói cách khác, tớ hoàn toàn không hiểu cách xử lý ám hiệu này.”
“Hả…”
“Tớ đã nghĩ nếu thử xem bài Thánh Paul thì sẽ tìm ra được gợi ý nào đó, nhưng có vẻ suy nghĩ ấy hơi ngây thơ.”
Giọng Makoto nghe mệt mỏi một cách lạ thường. Có lẽ cô cảm thấy bồn chồn, bực dọc với suy nghĩ phải giải được ám hiệu càng sớm càng tốt, dù chỉ là một giây một phút cũng được, nhưng ngay cả chút đầu mối cũng không thể nắm bắt. Nhìn bạn mình như vậy, Naoko cảm thấy rất đau lòng. Bởi cô chính là nguyên nhân khiến Makoto phải lao tâm khổ tứ đến vậy.
“Tối nay đến đây thôi, giờ thì đi ngủ đã.”
Naoko cảm thấy mình mà nói ra những lời an ủi Makoto thì thật kỳ quặc, nhưng cô biết, nếu mình không nói ra thì không biết đến bao giờ Makoto mới chịu rời khỏi chiếc bàn này. Như đoán được suy nghĩ của cô, Makoto cười nhẹ.
“Ừ, cần phải cho đầu óc nghỉ ngơi một chút.”
Hai người di chuyển vào phòng ngủ.
Không biết đã bao nhiêu phút trôi qua kể từ khi tắt đèn. Trong bóng tối, Naoko vẫn mở mắt. Từ khi đến nhà khách này, cô rất khó ngủ. Thế nhưng tối nay không chỉ có vậy. Nếu là bình thường cô đã nghe thấy tiếng thở đều đặn từ giường bên rồi, vậy mà nãy giờ cô chỉ nghe thấy âm thanh trở mình. Đã rất nhiều lần cô đi du lịch cùng Makoto, nhưng chưa lần nào thấy cô ấy như thế này.
“Makoto.”
Cô thử gọi nhỏ. Makoto ngừng trở mình.
“Gì cơ?” Tiếng trả lời rành rọt.
“Chuyện vừa nãy cậu kể rất thú vị.”
“Chuyện vừa nãy?”
“Không có tội vẫn chết.”
“À.” Makoto cười nhẹ. “Có gì to tát đâu.”
“Nhưng rất thú vị đấy.”
“Cậu thích là tốt rồi.”
“Cậu còn biết chuyện gì khác nữa không?”
“Chuyện khác?”
Cô nghe tiếng ga giường sột soạt. Hình như Makoto cựa mình. Naoko tưởng tượng chắc bạn mình đang nằm gối đầu lên cả hai tay. Đó là thói quen của cô ấy mỗi lần vừa nằm vừa suy nghĩ. Một lúc sau có tiếng trả lời.
“Tớ từng nghe một câu chuyện rất thú vị về một loại ám hiệu chuyển đổi vị trí mà các từ ngữ được sắp xếp lộn xộn khiến cho người khác không sao hiểu nổi văn bản gốc. Loại ám hiệu này được sử dụng khá phổ biến từ xưa ở châu Âu, có một học giả đã sử dụng loại ám hiệu này để công bố nghiên cứu của mình.”
“Ông ấy đã làm một việc cầu kỳ nhỉ.”
“Có lẽ ông ấy thích chơi đùa. Đó là học giả tên Huygens người Hà Lan. Nghe nói ông đã tách văn bản gốc ra thành các ký tự alphabet, rồi sắp xếp lại theo trật tự ABC. Vì thế, ám hiệu sau khi được hoàn thành là một sản phẩm có tới tám chữ A xếp liền nhau, sau đó là năm chữ C xếp liền nhau. Hình như đó là luận văn khi ông phát hiện ra quỹ đạo của sao Thổ.”
“Bản gốc có nội dung gì thế?”
"Bản gốc được viết bằng chữ La tinh, tớ chỉ biết bản dịch sang tiếng Nhật thôi. Đó là Mỏng, phẳng, chưa chạm vào bất cứ điểm nào và được bao quanh bởi một vòng nghiêng so với đường nằm ngang."
“Đó là vành đai sao Thổ à?”
“Hình như thế.”
“Ừm…”
Naoko thử hình dung trong đầu hình dạng mơ hồ đó rồi bất giác nói. “Sao tớ thấy nguyên văn câu đó đã như một ám hiệu rồi ấy.”
“Công nhận…”
Không gian lại chìm vào im lặng. Đúng lúc Naoko chuẩn bị nói chúc ngủ ngon, thì cô nghe thấy âm thanh giật phăng chăn từ giường bên cạnh. Cô thấy lờ mờ hình dáng Makoto ngồi bật dậy vội vã xỏ dép. Hơi thở của cô ấy có phần gấp gáp.
“Cậu sao thế?”
“Tớ nghĩ là mình đã hiểu.” Makoto nói. “Tớ nghĩ là mình giải được ám hiệu rồi.”
Naoko cũng bật dậy. Vì Makoto đã bật đèn nên trong khoảnh khắc, trước mắt cô trắng lóa.
Hai người lại ngồi đối diện nhau bên chiếc bàn trong phòng khách, trước mặt là bài đồng dao Thánh Paul.
Trên tháp của Thánh Paul có một cái cây.
“Đơn giản lắm. Bài đồng dao này không phải là ám hiệu hay gì cả đâu.”
Nói câu ấy xong, Makoto cắn chặt răng, nhìn bài đồng dao.
“Cứ thế mà đọc thôi. Không cần xử lý gì hết.”
“Cứ thế mà đọc là sao?”
Makoto chỉ vào mấy chỗ trong bài đồng dao được chép trong cuốn sổ tay và nói.
“Tháp của Thánh Paul, hàng rào và Cầu London. Nhìn ba từ này, Naoko liên tưởng đến cái gì?”
Naoko ngỡ ngàng đọc lại bài đồng dao một lần nữa. Makoto đã nói vậy thì chắc chỉ cần nhìn những từ ấy là có thể lập tức liên tưởng được thôi. Tháp Thánh Paul, hàng rào, Cầu London… Vậy nhưng dù đã đọc đi đọc lại mấy lần, trong đầu Naoko vẫn chẳng có ý tưởng nào lóe lên cả.
“Naoko có biết tu viện Thánh Paul không?”
Nghe Makoto hỏi, cô khẽ lắc đầu.
“Vậy thì có lẽ hơi khó. Tu viện Thánh Paul là một công trình với tòa tháp cao, nói cách khác, nó nổi tiếng với một mái nhà nhọn cao. Nhắc đến mái nhà nhọn, cậu liên tưởng đến cái gì?”
“Mái nhà nhọn…”
Khung cảnh đó hiện lên trong mắt Naoko. Không phải một hình ảnh tưởng tượng mà là một hình ảnh cô đã nhìn thấy trong thực tế. Hơn nữa, còn nhìn thấy rất gần đây… Cô há miệng như để hít một hơi thật sâu.
“Mái của tòa biệt lập.”
Căn phòng mà vợ chồng Bác sĩ đang ở là một tòa biệt lập, mái của nó nhọn một cách dị thường.
“Đúng thế. Vậy còn hàng rào và Cầu London?”
Đến đây thì đơn giản rồi. Naoko trả lời ngay.
“Tường gạch và cây cầu phía sau nhỉ? Nói cách khác, những từ chỉ địa điểm ở đây dùng để thay thế cho những khu vực trong nhà khách này đúng không?”
Cuối cùng thì Naoko cũng hiểu tại sao Makoto nói đơn giản.
“Ra là vậy. Không phải ám hiệu, mà ám chỉ thì đúng hơn. Bài đồng dao Mở đầu cũng vậy. Trong lòng đất trắng, một hạt mầm đen. Để giải được câu đố này, cần phải học hỏi thôi. Có lẽ ám chỉ muốn giải được ý nghĩa câu thần chú thì phải học đồng dao Mẹ Ngỗng Hiện tại tớ vẫn chưa hiểu hạt mầm đen là chỉ thứ gì.”
“Không phải ám hiệu, mà là ám chỉ… cứ thế mà đọc là có thể hiểu được nhỉ?”
“Tức là bài đồng dao này có thể đọc như thế này đúng không.”
Makoto cầm cuốn sổ trên tay, đọc như hát.
“Lấy cắp quả táo từ tòa biệt lập, mang đến bức tường gạch rồi tới cây cầu.”
“Thật là kỳ diệu.”
“Kỳ diệu đúng không?” Makoto vui vẻ đáp. “Nói cách khác, tớ nghĩ rằng điều này ám chỉ thứ tự thực hiện các hành động. Trước tiên cần đi tới tòa biệt lập, men theo bờ tường là có thể đi tới cây cầu…”
“Ở tòa biệt lập, lấy cắp trái táo, điều này có nghĩa là gì nhỉ?”
“Có nghĩa là chìa khóa giải mã nằm ở đó, chắc vậy.”
Sự tự tin đã trở lại trong ánh mắt Makoto.
3:Giờ ăn sáng ngày hôm sau, họ nghe thấy giọng Muramasa đang thẩm vấn Takase. Những khách trọ khác muốn tránh viên cảnh sát trưởng nhỏ con này nên chọn bàn càng xa càng tốt, còn bọn Naoko lại muốn thu thập thêm thông tin nên cố ý chọn bàn kế bên. Có vẻ Muramasa cũng chẳng bận tâm lắm nếu hai cô nghe được chút gì đó.
“Căn chòi nhỏ để nướng than ấy ạ?”
Đầu tiên, giọng Takase vang tới. Muramasa khẽ gật đầu.
“Dạo gần đây chắc chắn không có ai lui tới… Nhưng có vấn đề gì với căn chòi đó sao?”
“Cậu Takase cũng không tới đó à?”
“Không ạ.”
“Trong số những khách trọ ở đây, có ai biết chỗ đó không?”
“Ừm… tôi không nói cho ai biết về căn chòi đó, nhưng nếu có khách trọ nào đi dạo vòng vòng quanh đây thì tôi nghĩ có thể họ sẽ biết.”
“Vậy à? Cảm ơn cậu.”
Muramasa cảm ơn Takase xong, hướng về phía bọn Naoko làm dấu chữ V đầy hàm ý.
Sau bữa sáng, kế hoạch là Makoto sẽ xuống phố mua tuyển tập đồng dao Mẹ Ngỗng còn Naoko sẽ tới phòng vợ chồng Bác sĩ. Cô dự định sẽ nhờ Takase đưa xuống phố.
“Ơ…”
Ở hành lang, khi lấy đôi sneaker từ trên giá giày xuống, Makoto thốt lên. Vị trí để giày của cô đã bị thay đổi.
“Giày của tớ cũng bị thế.”
Naoko với đôi giày đi tuyết từ trên cao xuống. Cô tuyệt đối không để giày ở vị trí đó.
“À, nói mới nhớ, tối qua cảnh sát có xem xét khu vực đó.”
“Xem giày?” Makoto hỏi Takase.
“Vâng, không hiểu là họ điều tra gì.”
Hai người Naoko đưa mắt nhìn nhau rồi lắc đầu. Quan sát giày thì liệu có thể biết được điều gì nhỉ?
“Căn chòi nướng than ấy nằm ở đâu thế?”
Makoto hỏi Takase khi leo vào trong chiếc wagon.
“Ở vách núi bên kia.” Cậu trả lời. “Đi qua cầu là thấy.”
“Ra vậy.”
Makoto nhìn về phía Naoko, vẻ mặt như đã hiểu ra điểm mấu chốt.
“Buổi tối hôm diễn ra bữa tiệc, Oki vì muốn đi qua cây cầu mà bị rơi xuống vực, cảnh sát đặt ra nghi vấn liệu anh ta đi qua cây cầu đó để làm gì. Sau đó, có lẽ họ đã tìm thấy căn chòi nướng than. Hình như có dấu vết ai đó gần đây đã vào căn chòi ấy.”
“Không biết anh Oki đến mấy nơi như căn chòi nướng than đó để làm gì nhỉ?”
“Nếu làm sáng tỏ điều đó có lẽ vụ án này sẽ giải quyết được.”
“Khi nào có thời gian, tôi cũng muốn thử đến đó.”
“Tùy cô, nhưng tôi thấy vô ích thôi. Bây giờ việc nên làm chỉ có một.”
“Tôi biết chứ.”
“Thật sự là anh Oki bị giết sao?” Takase hỏi. Có vẻ cậu cũng nhận ra tình hình khác lạ.
“Nếu có hung thủ.”
Nói câu ấy xong, Makoto đã yên vị trong chiếc wagon. Sau khi tiễn bạn, Naoko không quay lại phòng mình mà đi thẳng tới phòng vợ chồng Bác sĩ. Có khi hai bác ấy đi dạo rồi cũng nên, Naoko nghĩ vậy. Thế nhưng ngay khi gõ cửa, cô đã nghe tiếng đáp lại vô cùng tươi vui của Phu nhân. Nhìn thấy cô, Phu nhân càng vui vẻ hơn.
“Bác pha trà ngay đây.”
Không thấy bóng dáng Bác sĩ. Phu nhân liền nói, ông ấy đang ngâm mình trong phòng tắm. Hai người tán gẫu một hồi trong hương trà thoang thoảng. Sau đó, Naoko bắt đầu đi vào chuyện ám hiệu.
“Anh trai cháu có nói lộ ra điều gì về mấy bài đồng dao Mẹ Ngỗng không ạ? Mấy lời linh tinh cũng được.”
“Để xem nào…”
Phu nhân quay lại nhìn tấm thẻ trang trí treo tường, vẻ mặt như đang suy nghĩ.
“Bác nhớ cậu ấy đã đứng đây nhìn bài đồng dao này rất lâu, nhưng chẳng nói lời nào cả. Lần nào cũng thế, chỉ nhìn xong rồi về.”
“Vậy ạ?”
Việc anh Koichi có trong tay cuốn Tuyển tập đồng dao Mẹ Ngỗng vụt hiện lên trong đầu Naoko. Trong cuốn sách đó, chắc chắn bài đồng dao Cầu London cũng xuất hiện. Vậy tại sao anh trai vẫn phải cất công sang tận căn phòng này để nhìn tấm thẻ? Có khi nào bài đồng dao khắc trên tấm thẻ này có điểm gì đó khác với bình thường? Nếu vậy thì có thể hiểu được. Nhưng mà điểm khác nhau đó là gì nhỉ?
Cuối cùng, ánh mắt cô dừng lại tại một điểm trên tấm thẻ trang trí. Đó là câu thơ đầu tiên của bài đồng dao Cầu London.
London Brigde is broken down.
Broken down, broken down,
London Brigde is broken down,
My fair lady.
“… London Brigde is broken down sao?”
Ánh mắt Naoko dừng lại ở dấu chấm câu cuối dòng đầu tiên. Cụm từ giống hệt ở dòng thứ ba dùng dấu phẩy, tại sao chỉ có dòng này sử dụng dấu chấm? Cô đứng lên, tiến lại gần quan sát kỹ hơn chút nữa. Quả nhiên là dấu chấm.
“Chỗ này… chẳng phải rất lạ sao?”
Naoko quay lại phía Phu nhân, bà nheo nheo mắt nhìn vào chỗ Naoko chỉ.
“À, chỗ đó hả? Bác nghĩ chỉ đơn giản là lỗi thôi. Có lẽ họ muốn khắc dấu phẩy nhưng lại khắc nhầm thành dấu chấm.”
Không, không thể có lỗi như thế được, Naoko nghĩ. Không tấm thẻ trang trí nào có lỗi như thế này cả. Quan trọng nhất, họ không thể tự nhiên sửa dấu phẩy thành dấu chấm. Có ý đồ gì đó ẩn sau việc này, Naoko tin chắc vậy. Chắc hẳn anh Koichi cũng chú ý tới điểm này. Tại sao dấu phẩy lại thành dấu chấm? Để làm rõ điều đó, anh ấy đã ghé thăm căn phòng này rất nhiều lần.
Đột nhiên, trong đầu Naoko hiện lên một bài đồng dao. Đó là khi nào nhỉ, chuyện mà Bác sĩ kể, anh Koichi nói hạt mầm đen thì sao? ấy. Hạt mầm đen… chẳng phải là muốn nói đến dấu phẩy và dấu chấm hay sao? Và cả bài đồng dao Mở đầu nữa.
Trong lòng đất trắng,
Một hạt mầm đen.
Để giải được câu đố này,
Cần phải học hỏi thôi.
Là vậy sao? Naoko cảm thấy người mình run lên. Ý nghĩa của bài đồng dao này chỉ đơn giản là bảo người ta hãy tìm hiểu về đồng dao Mẹ Ngỗng thôi. Anh Koichi cũng đã nhận ra điều này.
“Cháu xin phép một chút.” Naoko nói xong liền bắt đầu chép lại bài đồng dao. Chép xong, cô lại xin phép Phu nhân cho mình được lên xem bài đồng dao trên tầng hai. Ở bài đồng dao Mẹ Ngỗng Già này cô cũng phát hiện một dấu chấm bất thường. Đó là dấu chấm ở vị trí cuối cùng dòng thứ hai.
Old Mother Goose,
When she wanted to wander.
Would ride through the air
On a very fine gander.
Dấu chấm xuất hiện ở vị trí này còn sai cả về mặt ngữ pháp. Naoko tin rằng đây là một gợi ý cực quan trọng để giải được ám hiệu.
Chép xong bài đồng dao, cô cảm ơn Phu nhân rồi ra khỏi phòng.
Từ cửa khu nhà biệt lập, cô đi ra ngoài, thử vòng về phía sau nhà khách. Miệng lẩm bẩm nhẩm lại đoạn sau của bài Thánh Paul.
Lấy được táo rồi liền ba chân bốn cẳng chạy từ hàng rào này tới hàng rào khác
Và cuối cùng chạy tới Cầu London.
Hàng rào được nhắc đến ở đây đã được các cô suy luận chính là tường rào của nhà khách này. Cứ đi men theo hàng rào, mặc nhiên sẽ vòng ra được phía sau nhà khách nơi đó có cây cầu đá. Thế nhưng xung quanh cầu đã bị rào lại bằng dây thừng, không thể tiến gần như trước kia nữa.
Tiếp theo là bài Humpty Dumpty.
Humpty Dumpty ngồi trên bờ tường,…
Naoko nhìn lại phía sau. Toàn bộ nhà khách Mẹ Ngỗng được bao quanh bởi tường rào. Nếu làm đúng theo lời bài đồng dao, thì phải leo lên trên bức tường ở chỗ này. Leo lên tường rồi làm gì nữa? Lẽ nào lại ngã một cú từ trên tường rào xuống đúng như bài đồng dao? Ngồi trên tường rào… liệu có thể nhìn thấy gì nhỉ?
Suy nghĩ đó mới chỉ lóe lên nhưng đã rất thu hút Naoko. Thử leo lên tường chỗ nhìn ra cây cầu đá, rồi thử ngắm phong cảnh từ đó xem sao… Biết đâu lại giải được ám hiệu cũng nên. Quyết định xong, cô tiến lại gần bức tường.
Tường cao chừng hai mét. Ở bên cạnh có chồng sẵn các viên gạch nên Naoko dùng đó làm bệ đỡ leo lên luôn. Phong cảnh từ trên tường nhìn xuống thật tuyệt vời. Vì thời tiết xấu nên không thể nhìn xa được, nhưng chỉ cần vậy thôi phong cảnh đã như một bức tranh thủy mặc rồi. Tuy vậy đó không phải là điều mà Naoko tìm kiếm. Thứ cô cần là gợi ý để giải được ám hiệu kìa. Nhưng thứ có thể nhìn thấy từ vị trí này chỉ có núi tuyết, cây cầu đá hỏng và đáy vực sâu dưới chân.
“Một tư thế ngồi cực kỳ gan dạ nhỉ.”
Cô nghe thấy giọng nói từ phía dưới. Nhìn xuống thì bắt gặp Kamijo đeo một cặp kính râm sẫm màu đang ngước lên nhìn cô.
“Cô nhìn gì thế?”
“Không có gì ạ.”
Lúc cô định leo xuống thì anh ta vừa đưa mắt nhìn ra xa vừa nói.
“Anh trai cô cũng hay làm như thế này lắm.”
Cô không leo xuống nữa.
“Anh trai em? Anh ấy nhìn gì vậy ạ?”
“Ừm, cậu ấy đã nhìn gì vậy nhỉ? Tôi nghĩ cậu ấy không phải loại người cất công leo lên tường chỉ để ngắm cảnh.”
“Anh Kamijo.”
Naoko cất giọng nói đã dịu lại một chút, anh ta cũng nghiêm túc nhìn cô.
“Hình như anh biết chuyện gì đó phải không? Nói cách khác, chuyện… về cái chết của anh trai em.”
Thế nhưng anh ta chỉ xua xua tay đầy khoa trương.
“Đừng đánh giá tôi quá cao. Tôi chẳng biết gì hết. Tôi chỉ là một vị khách chẳng biết gì.”
Nói xong, anh ta lại tiếp tục đi.
Makoto trở về trước giờ chiều, quà mang về là bộ đồng dao Mẹ Ngỗng và khuôn mặt có chút phờ phạc.
“Hoàn toàn không có.”
Quay trở lại phòng, vừa đặt bộ sách lên bàn, cô vừa làu bàu. Hình như cô ấy đang nói đến cuốn Mẹ Ngỗng.
“Trước tiên, những bài đồng dao truyền miệng của nước Anh không phải là đối tượng nghiên cứu của các nhà chuyên môn Nhật Bản. Hầu như không ai lấy nó làm đề tài luận văn tốt nghiệp, thậm chí có thể nói là hoàn toàn không. Vậy nên tài liệu tham khảo cũng không có luôn. Không còn cách nào khác, tớ đành phải mua cuốn sách chỉ in nội dung các bài đồng dao thôi. Dù vậy cũng phải đi tới ba hiệu sách mới mua được.”
“Vất vả cho cậu rồi.”
Naoko vừa cảm ơn Makoto, vừa lật lướt qua thật nhanh mấy trang sách. Bộ sách có tổng cộng bốn quyển, do Tanikawa Shuntaro dịch.
“À, đúng rồi. Trên đường trở về đây, tớ phát hiện ra một điều rất thú vị.”
Makoto lấy ra một trong số bốn quyển, mở trang đã gấp mép sẵn. Trên đó là bài đồng dao Cầu London.
“Lúc trước Phu nhân kể là vì bao lần bắc cầu qua sông mà cầu vẫn hỏng, nên người ta cứ thay thế dần vật liệu xây cầu, cuối cùng cây cầu được xây bằng đá, đúng không? Thế nhưng bài đồng dao trong sách này có chút khác biệt. Cây cầu được xây dựng bằng vàng bạc, và để không bị lấy cắp, người ta đã phải cho người canh gác suốt đêm không ngủ.”
Build it up with silver and gold,
Silver and gold, silver and gold,
Build it up with silver and gold,
My fair lady.
[…]
Set a man to watch all night,
Watch all night, watch all night,
Set a man to watch all night,
My fair lady.
[…]
Hãy xây bằng vàng và bạc,
Vàng và bạc, vàng và bạc,
Hãy xây bằng vàng và bạc,
Cô gái đáng yêu của tôi.
[…]
Cử một người canh gác suốt đêm,
Gác suốt đêm, gác suốt đêm,
Cử một người canh gác suốt đêm,
Cô gái đáng yêu của tôi."
[…]
“Ô, đúng thế thật. Tại sao Phu nhân lại có thể nhầm lẫn thế được nhỉ?”
Gương mặt vô cùng tự tin của bà khi kể chuyện này hiện lên trong đầu Naoko.
“Nghe đâu Cầu London có một bài tám khổ và một bài mười hai khổ. Chuyện mà Phu nhân kể có lẽ là bài tám khổ. Bài đó có vẻ trung thành với sự thực lịch sử hơn. Cây cầu London có một quá khứ đen tối đáng sợ, tượng trưng cho điều đó có lẽ là bài mười hai khổ.”
“Quá khứ đen tối đáng sợ?”
“Chuyện này không liên quan, nhưng mà…” Makoto nói thêm. “Ngày xưa, người ta thường mượn sự trợ giúp của người bị hiến tế để xây dựng những công trình khó như bắc cầu, xây thành…”
“Người bị hiến tế?”
“Đó là nghi thức thi công chôn những người còn sống vào dưới móng công trình. Một trong những phương thức để giải trừ điều xấu ấy. Không riêng gì nước Anh, tập quán tương tự xuất hiện ở rất nhiều nơi trên thế giới.”
“Chôn sống sao!? Thật tàn ác!”
“Ở phương Tây, người bị hiến tế này là những người canh gác. Vậy nên khi cầu London được hoàn thành cũng tức là người hiến tế đã bị chôn sống. Có vẻ bài đồng dao này thể hiện bi kịch khi ấy.”
“Một bài đồng dao u ám nhỉ…”
Naoko thử đọc bài đồng dao. Bỏ qua những suy nghĩ về ám hiệu mà chỉ quan tâm đến câu từ, quả nhiên cô cảm nhận được tính thần bí và sự đáng sợ rợn người, dường như khuấy động cả năng lực tưởng tượng.
“Thôi, ngoài lề vậy là đủ rồi.”
Makoto kết thúc câu chuyện, xua đi nỗi cảm thương đang dâng lên trong Naoko.
“Nói cách khác, trong bài đồng dao Cầu London này, từ chôn cất bao hàm trong đó không được biểu hiện ra. Coi đó là một ám hiệu và giải ra sẽ thành có thứ gì đó được chôn phía dưới cây cầu.”
“Tức là đá quý được chôn phía dưới cây cầu đúng không.”
Naoko hào hứng nói, nhưng Makoto vội đưa tay phải ra để cô dịu lại.
“Tớ nghĩ không đơn giản vậy đâu. Nhưng có lẽ đâu đó cạnh cây cầu thôi, không thể nhầm được.”
“À, đúng rồi, cậu nói tớ mới nhớ.”
Naoko nói với Makoto chuyện dấu chấm và dấu phầy trong bài đồng dao khắc trên tấm thẻ trang trí ở phòng của vợ chồng Bác sĩ. Đặc biệt, cô tin chắc rằng Koichi cũng chú ý đến điểm đó.
“Quả nhiên, hạt mầm đen à… Không biết nó có ý nghĩa gì nhỉ?”
Như một thám tử thực thụ, Makoto đan hai tay vào nhau, một tay chống dưới cằm.
Sau đó, Naoko và Makoto dành khoảng một tiếng đọc đồng dao Mẹ Ngỗng. Hai người nghiên cứu thật kỹ những bài xuất hiện trong các phòng của nhà khách. Thế nhưng càng đọc họ càng hoang mang bởi nội dung kỳ dị trong những bài đồng dao đó, nên không tìm ra được gợi ý nào giúp ích cho việc giải ám hiệu.
“Bài này có vẻ cũng có ý nghĩa, nhưng tớ không sao hiểu nổi.”
Makoto đưa cho Naoko xem bài đồng dao Jack và Jill.
Jack and Jill went up the hill
To fetch a pail of water;
Jack fell down anh broke his crown,
And Jill came tumbling after.
Jack và Jill leo lên đồi
Để múc một thùng nước thật đầy;
Jack ngã vỡ đầu,
Jill cũng trượt ngã theo sau.
Bài đồng dao này có lẽ bắt nguồn từ thần thoại Mặt trăng của Bắc Âu. Trong câu chuyện, hai đứa trẻ Hyuki và Bill đã bị thần Mặt trăng bắt cóc khi đang đi múc nước. Cũng có thuyết cho rằng vốn dĩ việc đi múc nước mà lại leo lên đồi đã là kỳ lạ rồi.
“Jack và Jill là phòng của anh Enami nhỉ?”
“Đúng thế, có lẽ phải qua đó xem một lần.”
Makoto lấy đầu ngón tay gõ gõ xuống tấm bản đồ.
“À, tớ cũng có một điểm thắc mắc.”
Nói rồi Naoko đưa cho Makoto xem trang sách mình đang đọc. Đó là bài đồng dao Chú ngỗng với câu Chú ngỗng, chú ngỗng. Đương nhiên, trong cuốn sách này, bài đồng dao đó cũng được gộp với bài Ông lão chân dài.
“Những bài đồng dao trên tấm thẻ trang trí ở mỗi phòng ấy, tại sao lại phải cất công đưa về nguyên bản nhỉ? Nếu chỉ đơn giản là muốn nắm được ý nghĩa thì bản thân bài đồng dao như hiện tại cũng đủ rồi.”
“Ừ, lạ thật đấy. Xét điều kiện tạo ra ám hiệu, thì cần phải mang bài đồng dao Chú ngỗng tới căn phòng đó. Thế nhưng vì căn phòng đó có hai tầng nên kiểu gì cũng phải chuẩn bị hai bài đồng dao. Vậy nên họ đành miễn cưỡng tách bài đó làm hai… cậu thấy lý do đó thế nào?”
Makoto nói ra điều đó với vẻ hoàn toàn không tự tin.
Hôm nay, họ cũng ăn trưa ở nhà khách. Quả nhiên không có ai ở sảnh chờ cả. Có lẽ khách trọ không thích bị mấy tay hình sự xét nét, vậy nhưng đến cả hai viên cảnh sát cũng không thấy bóng dáng đâu. Trong sảnh chờ chỉ có Kurumi và Bếp trưởng với thân hình đồ sộ đang ngồi trên ghế.
“Thật là một điều trớ trêu trong đời.”
Bếp trưởng vừa mang bánh mì nướng kẹp thịt xông khói và cà phê đến cho hai người vừa làu bàu.
“Trong cuộc đời này, đàn ông và đàn bà nhiều như sao trên trời, thế nhưng chính những người đàn ông tốt và những người đàn bà tốt lại chẳng có người để yêu thương. Hai cái người này là chị em tốt khăng khăng bám dính lấy nhau, nên hai người đàn ông tốt lại thành ra thừa thãi.”
“Tôi cũng đang định nói điều đó đấy.” Kurumi nói mà mắt vẫn không rời khỏi cuốn tạp chí tuần.
“Cơ thể tôi bằng hai người bình thường. Vậy nên, tính ra là vừa xinh. Đấy, đó cũng là một điều trớ trêu nữa.”
Anh ta nhét bàn tay to béo vào túi quần, lôi ra một mẩu giấy.
“Từ giờ đến tháng Hai năm sau, có nhiều người đặt phòng quá. Vừa nãy lại có điện thoại đặt phòng. Lúc thì quảng cáo cỡ nào khách cũng không ào ào tới, vậy mà chỉ vì vụ tai nạn đó lên báo mà người quan tâm tăng vùn vụt. Điều này cũng thật mỉa mai. Hay là phút huy hoàng cuối cùng trước khi tàn lụi nhỉ?”
“Tàn lụi?” Vẫn đang nhồm nhoàm miếng bánh mì nướng kẹp thịt xông khói trong miệng, Makoto ngẩng đầu lên hỏi.
“Nhà khách này sẽ đóng cửa sao?” Naoko cũng tiếp lời.
“Ông chủ ấy mà…” Bếp trưởng lại nhét mảnh giấy vào túi. “Anh ấy nói là không muốn tiếp tục nữa. Mà tôi cũng không muốn ép.”
“Chắc anh ấy mệt mỏi quá rồi.” Kurumi lên tiếng.
“Có lẽ vậy.” Bếp trưởng cũng thừa nhận.
“Chúng tôi đã từng chắc chắn không thể nào đến nông nỗi này. Mặc dù nghĩ là không thể nhưng lại đến nông nỗi này mất rồi, vậy nên phải đưa ra kết luận thôi. Dù sao thì cũng sắp đến thời điểm bỏ cuộc được rồi.”
“Vậy mọi người định làm gì với nơi này?” Makoto thấp giọng hỏi.
“Phá đi là xong. Chắc cũng chẳng ai mua về dùng nữa đâu.”
“Ông chủ và Bếp trưởng sẽ tách ra làm riêng sao?”
Kurumi hỏi bằng giọng buồn buồn, nhưng Bếp trưởng lại cười rất sảng khoái.
“Tôi và hắn không rời xa nhau được đâu. Là một cặp rồi. Cũng như hai cô ấy.”
Bếp trưởng nhìn về phía hai người Naoko.
“Chắc chắn có kiểu kết hợp như thế nhỉ? Cái này chẳng logic tí nào. Dù có mỗi người một nơi, dù có xa cách thế nào, thì vẫn có một điểm mốc mà cả hai cùng hiểu và thế là lại gắn kết với nhau. Nói cách khác, tôi và hắn, dù là một sự kết hợp cọc cạch nhưng chỉ cần gắn kết với nhau thì lại ăn khớp một cách kỳ lạ.”
Naoko đánh rơi chiếc thìa. Dù nghe thấy âm thanh kim loại chạm xuống nền nhà nhưng ánh mắt cô vẫn hướng vào không trung.
“Naoko, sao thế?”
“Này, tôi nói gì không phải à?”
Vẻ mặt Naoko vẫn thẫn thờ. Makoto lay lay vai bạn, nhờ vậy ánh mắt Naoko mới dần ngưng đọng lại.
“Makoto, tớ hiểu rồi.”
“Hiểu? Hiểu cái gì?”
“Em ăn xong rồi, cảm ơn mọi người.”
Naoko đứng dậy rồi vội vàng bước đi, để lại phần bánh mì kẹp thịt xông khói vẫn còn hơn một nửa cùng tách cà phê chưa hề động đến. Makoto cũng luống cuống chạy theo. Bếp trưởng và Kurumi sững sờ, chỉ biết cúi đầu đáp lễ rồi bối rối nhìn theo bóng hai cô gái.
Về đến phòng, Naoko cố nén cảm giác phấn khích. Cô lật cuốn sổ tay tìm bài đồng dao Chú ngỗng và bài Ông lão chân dài.
“Đây rồi.”
Naoko khẽ thốt lên, mở trang đó ra và đặt cuốn sổ lên trên bàn.
Goosey, goosey gander,
Whither shall I wander?
Upstairs and downstairs
And in my lady’s chamber.
Chú ngỗng, chú ngỗng,
Tôi sẽ đi đâu đây?
Đi lên rồi đi xuống
Rồi vào phòng vợ tôi.
Sing a song of Old father Long Legs,
Old father Long Legs
Can’t say his prayers;
Take him by the left leg,
And throw him down stairs.
Hãy hát khúc ca ông lão chân dài,
Ông lão chân dài
Cả lời nguyện cầu cũng không thể nói được;
Tóm lấy chân trái của lão,
Rồi quăng lão xuống dưới tầng.
“Tớ hỏi cậu làm sao thế, Naoko.”
Makoto đột nhiên xuất hiện đằng sau, nhìn chăm chăm vào cuốn sổ của cô. Naoko chỉ tay vào hai bài đồng dao này.
“Trong phòng của anh chị Shibaura, bài đồng dao tầng một và tầng hai đi liền với nhau. Phòng của vợ chồng Bác sĩ có cấu trúc giống hệt bên đó, phải chăng các bài đồng dao trong phòng họ cũng có thể ghép với nhau theo cách tương tự?”
“Phòng của vợ chồng Bác sĩ… ý cậu là đem ghép bài Cầu London và bài Mẹ Ngỗng Già với nhau à?”
“Đúng thế đấy.”
“Ghép như thế nào?”
“Ở vị trí có dấu chấm và dấu phẩy ấy.”
Naoko đánh dấu vào các vị trí có dấu chấm và dấu phầy trong từng bài đồng dao.
“Từ trước tới giờ, tớ cứ nghĩ chỉ đơn giản là đem ghép hai bài đồng dao lại với nhau theo thứ tự trước sau, thế nhưng không phải vậy. Quy tắc ghép được thể hiện trong bài Chú ngỗng. Mốc đánh dấu là vị trí dấu chấm và dấu phẩy. Với bài này, chúng ta sẽ xóa câu Sing a song of old father Long Legs, ở vị trí có dấu phẩy đầu tiên của bài Ông lão chân dài, sau đó đem ghép với phần còn lại của bài Chú ngỗng là hoàn thiện.”
Naoko chìa bài đồng dao được Shibaura Sakiko chép ra cho Makoto xem.
Goosey, goosey gander,
Whither shall I wander?
Upstairs and downstairs
And in my lady’s chamber.
Old father Long Legs
Can’t say his prayers:
Take him by the left legs,
And throw him down stairs.
“Ý cậu là bài cầu London và Mẹ Ngỗng Già cũng được ghép theo cách như vậy?”
“Có thể sẽ không đơn giản như vậy, nhưng cứ thử làm xem sao.”
Naoko mở trang đã ghi chú lại hai bài đồng dao đó ra.
London Brigde is broken down.
Broken down, broken down,
London Brigde is broken down,
My fair lady.
Old Mother Goose,
When she wanted to wander.
Would ride through the air
On a very fine gander.
"Tương tự bài Ông lão chân dài, ta sẽ xóa câu Old Mother Goose đến hết dấu phẩy đầu tiên của bài Mẹ Ngỗng Già đi, sau đó ghép với toàn bộ phần còn lại của bài Cầu London…"
London Brigde is broken down.
Broken down, broken down,
London Brigde is broken down,
My fair lady.
When she wanted to wander.
Would ride through the air
On a very fine gander.
“Tớ hoàn toàn chẳng hiểu gì cả.”
“Chờ chút… Trong bài Chú ngỗng , hai bài đồng dao được đem ghép lại, bài nào ở cuối câu đầu tiên cũng có một dấu chấm đúng không? Vậy nên, các câu còn lại sau dấu chấm ấy của mỗi bài xóa đi cũng được. Đúng thế, đó là lý do vì sao cả bài Cầu London lẫn Mẹ Ngỗng Già đều có một dấu chấm bất thường.”
“Nếu vậy thì… xem nào, mỗi bài chỉ còn lại một câu thôi nhỉ?”
Makoto chép hai dòng thơ đó ra.
London Brigde is broken down
When she wanted to wander
“Câu này cậu cũng dịch được đúng không?”
"Để xem… Khi cô ấy đi ra ngoài, cầu London bị hỏng?"
Makoto nói xong, Naoko liền vỗ tay.
“Chính xác. Chỉ có vậy thôi. Chẳng lẽ cậu không thấy nó rất giống một ám hiệu sao?”
“Giống. Nhưng… ý nghĩa mù mờ quá.”
“Không vội vàng được đâu.”
Naoko nói giọng vui vẻ. Dường như cô rất tự tin với suy luận của mình.
“Bài đồng dao tiếp theo tất nhiên là bài Mill rồi đúng không? Khi gió thổi cối xay sẽ quay, Khi gió lặng cối xay sẽ dừng. Bài đồng dao nói lên một sự thật cực kỳ hiển nhiên nhỉ?”
“Ở đây.”
Makoto tìm thấy bài đồng dao đó trong cuốn Mẹ Ngỗng.
When the wind blows,
Then the mill goes;
When the wind drops,
Then the mill stops.
“Tớ chịu, phải làm gì với bài này?”
“Có vẻ như nếu chỉ chăm chăm vào ý nghĩa thì không ổn.”
“Đúng vậy nhỉ. Nhìn chung là ta đã tìm ra cách ghép bài Cầu London và Mẹ Ngỗng Già dựa vào bài Chú ngỗng và Ông lão chân dài, tham khảo bài này có thể biến đổi hình thức ám hiệu thêm một chút nữa chăng.”
“Biến đổi hình thức ám hiệu thêm một chút à…? Nhưng mà bài này có vẻ chấm phẩy không có gì bất thường cả.”
“Chắc chắn phải có dấu hiệu khác chứ.”
Naoko nhìn kỹ từng chữ trong câu thơ hai người vừa tìm ra. London Brigde is broken down, When she wanted to wander và mấy câu trong bài Mill. Chắc chắn phải có một chiếc chìa khóa nào đó được giấu bên trong. Cuối cùng ánh mắt cô dừng lại ở một chữ. Đó là chữ when, nghĩa là khi.
_“When_ chính là từ chìa khóa chăng?”
Cô vừa nói ra câu đó, Makoto liền đồng tình. “Tớ cũng nghĩ vậy.”
"Trong câu nào cũng có cụm Khi… thì… Tuy nhiên ở bài Mill thì trái ngược với vế khi gió thổi còn có một vế ngược nghĩa khi gió lặng."
“Vậy thì chẳng phải bọn mình cũng nên thử viết lại câu văn này theo cách tương tự hay sao?”
“Viết lại?”
“Ví dụ như thế này.”
Naoko viết câu sau lên cuốn sổ:
When she wants to wander,
Then London Brigde is broken down;
When she does not want to wander,
Then London Brigde is not broken down.
_“Khi cô ấy đi ra ngoài, cầu London hỏng. Khi cô ấy không đi ra ngoài, cầu London không hỏng…_ Kiểu