CHƯƠNG 11 ĐI TẮT CHẶN ĐƯỜNG
Khi lên đến trên tàu, Kennedy mặc tôi ngồi đấy và đi nhòm ngó các khoang khác vì anh nghĩ rằng chưa biết chừng Phelps cũng có mặt ở đây. Nhưng không thấy bóng dáng ông giám đốc ngân hàng đâu hết. Chúng tôi sẽ đến Tarrytown trước, trừ khi ông ta quyết định lái xe đi.
Mackay đợi sẵn tại sân ga để đón chúng tôi và đưa chúng tôi về ngôi nhà kia. Anh chàng ủy viên công tố quận nhỏ thó trông rõ là đang rất kích động.
"Đêm qua nơi này có được canh chừng cẩn mật không?" Kennedy hỏi, gần như trước khi chúng tôi kịp bắt tay nhau.
"Có... ý tôi là, tôi cứ tưởng là như vậy. Đó chính là điều tôi muốn nói với anh. Sau khi các anh cùng với Manton và Werner rời đi, những nhân viên còn lại của công ty cũng thu dọn đồ đạc và quay về bằng hai chiếc xe của trường quay. Tôi hơi phân vân không biết phải làm gì với Phelps, nhung đích thân ông ta giải quyết hộ tôi bằng cách tuyên bố rằng mình sẽ lên thành phố. Điều tra viên đến và cấp giấy phép loại bỏ thi thể, và nó được mang đi. Tôi tin ngôi nhà và sự hiện diện của cô gái đã chết cũng như tất cả những yếu tố khác khiến cho Phelps bị căng thẳng, bởi vì ông ta tỏ thái độ rất cáu kỉnh và nôn nóng, không chịu đợi xe của mình đến đón, và cuối cùng tôi phải tự mình chở ông ta ra nhà ga."
"Có ai, ít nhất là ai trong số những nghi phạm trong danh sách của chúng ta, ở một mình bên trong căn phòng hay bên trong ngôi nhà không?"
"Trong lúc tôi còn ở đây thì không," Mackay đáp. "Tôi đảm bảo rất kỹ lưỡng điều ấy. Thế rồi, khi tất cả mọi người đã rời đi và trong lúc Phelps đang đợi tôi, tôi cắt cử hai người phụ tá của mình làm nhiệm vụ canh gác đêm ấy. Một người canh bên trong và một người trực bên ngoài. Tôi cứ tưởng đề phòng như vậy là đủ rồi, bởi lẽ anh đã tiến hành điều tra sơ lược."
"Và...", Kennedy gật đầu, muốn anh ta giải thích thật mau chóng.
"Ấy nhưng," Mackay nói thêm, "bất chấp nỗ lực của chúng tôi, đêm qua đã có kẻ nào đó đột nhập vào trong nhà."
Kennedy lẩm bẩm chửi thề. Có vẻ anh tự trách móc bản thân vì đã để sơ suất trong buổi điều tra chiều hôm trước của mình.
"Chuyện xảy ra như thế nào?" Tôi hỏi với giọng hối thúc.
"Mấy người canh gác bảo với tôi là chuyện xảy ra vào khoảng 3 giờ. Người trực bên trong khi ấy đang gà gật trong một chiếc ghế trước lò sưởi phòng khách. Anh ta được cắt cử đứng trực ở vị trí anh ta có thể quan sát cửa dẫn vào thư viện cũng như cầu thang và sảnh tiếp khách. Bất thình lình anh ta bị đánh thức bởi một phát súng và một tiếng kêu vọng lại từ bên ngoài. Anh ta nhảy bật dậy và chạy về phía thư viện. Đúng lúc ấy, cặp rèm treo thổi về phía anh ta, như thể vừa đột ngột bị gió thổi, hay như thể có ai đó vừa vội vã lao vào trong chúng, sau đó lại chui ra. Không chút lưỡng lự, anh ta rút vũ khí, xộc vào trong bức rèm. Không có ai náu mình trong chúng. Thế rồi, với một tay cầm chắc khẩu súng lục, anh ta bật đèn lên. Căn phòng trống không. Nhưng cặp cửa sổ kiểu Pháp ở cuối phòng đã bị mở toang, và nó chính là nguyên nhân khiến cho luồng không khí tạt vào. Anh ta chạy lại và phát hiện ra rằng ổ khóa đã bị cạy ra. Nó thậm chí còn không được cạy cho tử tế."
"Thế còn anh phụ tá trực bên ngoài thì sao?" Kennedy hỏi.
"Phần đó mới kỳ lạ. Anh ta rất đề cao cảnh giác, nhưng với căn nhà lớn thế này thì rất khó canh chừng. Anh ta thề rằng mình chỉ biết có chuyện xảy ra khi nghe thấy một tiếng kim loại lách cách mà về sau anh ta nhận ra là âm thanh gây ra bởi kẻ đột nhập trong lúc hắn đang tìm cách cạy cặp cửa sổ kiểu Pháp. Trong màn đêm Tarrytown tĩnh lặng, nó vang vọng rất to.
Anh ta đi vòng lại từ phía đằng sau, và rồi anh ta chợt thấy bóng dáng một hình hài tối tăm, lấm lét đang lỉnh ra khỏi thư viện. Một người đàn ông. Anh ta giật giọng gọi. Kẻ đột nhập cắm đầu chạy, lao vọt qua bãi cỏ trống vắng và đâm xuyên bụi cây, không buồn che giấu hành tung gì nữa. Phụ tá của tôi lại lớn tiếng gọi và bắt đầu đuổi theo kẻ lạ mặt, và rồi cuối cùng khai hỏa một phát nhưng bị trượt. Khi vào đến bụi cây, anh ta bỗng dưng bị một cành cây sắc quật vào dưới cằm giữa lúc đã thấy được rất rõ hình hài kẻ mình đang săn đuổi và đang nâng vũ khí lên để bắn thêm phát nữa. Khẩu súng lục bị hất văng khỏi tay anh ta, và anh ta bị quăng ngược ra sau, ngã bộp xuống nền đất và choáng váng trong giây lát. Tất nhiên, kẻ đột nhập vào trong thư viện đã trốn thoát."
"Kẻ đột nhập trông như thế nào?" Tác phong của Kennedy có phần hăm hở. Tôi hiểu rằng trong tâm trí anh, vụ án đang bắt đầu lộ dần chân tướng.
Mackay lắc đầu. "Anh phải hiểu là đêm ấy không có trăng, và mọi thứ đều diễn ra rất nhanh chóng.
"Nhưng hắn cao hay thấp hay gầy hay béo? Chắc hẳn anh phụ tá ít nhất cũng đã lờ mờ biết được gì đó về hắn chứ."
"Anh ta là một trong những người phụ tá nghiệp dư của tôi," Mackay miễn cưỡng thừa nhận. "Anh ta nghĩ tên kia không đội mũ, nhưng ngay cả điều đó cũng không thể khẳng định chắc chắn được."
"Có dấu chân, hay dấu vân tay..."
"Không, anh Kennedy à, chúng ta lại xui xẻo rồi. Lúc nhảy ra ngoài hắn đáp xuống một luống hoa bằng cả tay và đầu gối. Dấu chân bị hủy hoại bởi lẽ chân hắn bị trượt, thế nên chỉ còn sót lại duy nhất hai vệt cày xuống không đều nhau. Tuy nhiên, căn cứ trên vết bàn tay của hắn, tôi nhận thấy rằng tên này đi găng tay dày, chắc là bằng cao su."
"Bên trong thư viện có gì bị xáo trộn không?"
"Tôi chẳng để ý thấy gì cả. Đó là lý do tôi gọi điện cho anh ngay lập tức. Tôi hy vọng rằng anh sẽ phát hiện ra điều gì đó."
"Thôi được rồi...", Kennedy thở dài. "Đây là một cơ hội tuyệt vời để truy ra chân tướng sự việc."
"Tôi vẫn chưa kể hết cho anh nghe đâu, anh Kennedy," Mackay nói tiếp. "Có một tên thứ hai, và..."
"Một tên thứ hai ư?" Kennedy vươn thẳng người, ngạc nhiên ra mặt. "Tôi dám thề là toàn bộ vụ việc này là do tay một người duy nhất thực hiện."
"Chúng không đi cùng nhau," anh ủy viên công tố quận giải thích. "Đó là lý do tôi không nhắc đến cả hai cùng một lúc. Nhưng phụ tá của tôi nói rằng lúc bị cành cây quật cho ngã lăn, anh ta không thể nhúc nhích được gì trong mấy giây. Tôi đoán là do bị sốc thần kinh. Và lúc còn đang bất động trong tư thế ngồi, với hai tay chống đằng sau, ngay khi mới ngã xuống, anh ta để ý thấy một kẻ lạ mặt thứ hai nấp bên trong bụi cây.
Chắc chắn một điều là tên thứ hai theo dõi tên thứ nhất. Trong lúc anh phụ tá chậm rãi đứng dậy, tên kia bắt đầu đuổi theo kẻ đã đột nhập vào trong nhà. Nhưng đúng lúc ấy, chợt có tiếng đề điện của xe vang lên, theo sau là tiếng rừ rừ của một động cơ và tiếng bánh răng nghiến lạch cạch. Tên thứ nhất lăn bánh bỏ chạy trên con đường tăm tối. Tên thứ hai lầm bầm, tỏ vẻ thù hằn thấy rõ.
Đến lúc đó, phụ tá của tôi đã lấy lại được hơi. Khẩu súng lục của anh ta đã bị văng mất, nhưng anh ta vẫn gần như không chút do dự nhào vào tên thứ hai, và bọn họ nện nhau túi bụi mấy phút liền trong bóng tối. Không may, đó lại là một trận chiến không cân sức. Kẻ đột nhập có vẻ là một người đô con, sức lực như bò mộng. Hắn cũng đã trốn thoát, không để lại bất cứ dấu vết gì để giúp ta xác định danh tính."
"Miêu tả anh nhận được cũng chẳng hơn gì tên thứ nhất à?"
"Không may là không. Chiều cao trung bình, người hơi vâm, khỏe như một gã phu bến tàu - chỉ có vậy thôi."
"Anh có chắc là phụ tá của mình không cường điệu hóa không vậy?"
"Chắc chắn! Anh ta là con trai của một trong những gia đình tử tế nhất tại đây, hay chơi thể thao và còn là một vận động viên nữa. Tôi biết anh chàng này rất thích một cuộc vui, hay cơ hội tham gia một chuyến phiêu lưu, thế nên tôi đã kéo anh ta và một người bạn đến làm phụ tá của mình lúc gặp họ giữa phố, trên đường qua nhà Phelps ngay sau khi tấn thảm kịch xảy ra."
Kennedy chìm vào trong suy nghĩ. Nhân vật tự mình đi theo dõi kia là ai vậy nhỉ? Còn ai có thể quan tâm đến vụ án này ngoài giới chức trách nữa đây? Xem chừng có ai đó biết nhiều hơn Mackay, hơn cả Kennedy. Bất kể đây có là ai, người ấy cũng không buồn móc nối gì với chúng tôi cả. Bí ẩn đã lại có thêm một góc độ mới, và chúng tôi càng điều tra thì nó càng trở nên khó dò hơn.
Tại ngôi nhà, đầu tiên Kennedy cẩn thận làm một vòng khám xét bên ngoài, nhưng chẳng tìm thấy gì. Mackay đã tăng gấp đôi lượng người canh gác và cho người hầu của Phelps rời nhà hết để không bị ai gây cản trở.
Khi đã vào đến bên trong, tôi để ý thấy Kennedy trông có vẻ không muốn phải tiến hành thêm cuộc rà soát tỉ mẩn nào bên trong thư viện nữa. Anh cẩn thận dùng kính lúp soi xét chỗ khung cửa sổ kiểu Pháp, lần tìm dấu vân tay. Sau khi chẳng phát hiện ra gì, anh quay thẳng về chỗ cặp rèm treo.
Anh đứng trầm ngâm quan sát chúng mấy giây liền. Thế rồi anh bắt đầu tiến hành kiểm tra lớp vải hết sức kỹ lưỡng với chiếc kính lúp bỏ túi, khởi đầu với mặt vải bên mạn thư viện.
Tôi nhớ lại phân cảnh đầu tiên bên trong bản thảo mà Kennedy đã khăng khăng yêu cầu tôi đọc. Tôi nhớ lại sự nghi ngờ đã chợt lóe lên trong óc trước khi luồng suy nghĩ của cả Kennedy lẫn của tôi bị bức thông điệp của Mackay gây phân tán. Stella Lamar đã thọc cánh tay trần của mình qua lớp rèm này. Một mũi kim khéo léo giấu kín bên trong các nếp gấp sẽ có thể dễ dàng gây ra vết xước chết người kia. Thứ Kennedy đang tìm kiếm chính là vết tích mũi kim tẩm độc. Vì nắm rõ kiểu của anh, tôi có thể khẳng định chắc chắn là như vậy.
Tôi nhìn từ trên xuống dưới lớp lụa dày đang treo lủng lẳng, tìm kiếm vệt sáng lấp lóe của một mảnh thép mỏng, giống như những gì Kennedy đã làm trước khi bắt đầu cuộc rà soát bằng kính lúp của anh. Tấm lụa nhung dày tuyệt đẹp ấy mang một sắc thẫm kỳ lạ, rất giống với màu nâu đen có vân của lớp gỗ. Cả độ dày của chất liệu cũng như sắc màu nhờ nhờ của cặp rèm treo giúp nó trở thành một công cụ hết sức lý tưởng đối với mục đích mà cả Kennedy lẫn tôi đều tin nó đã bị tận dụng để phục vụ. Một mũi kim tí hon sẽ có thể ẩn kín bên trong các nếp gấp của chúng mấy ngày liền. Chắc chắn một điều là cặp mắt trần của tôi chẳng thấy được gì cả.
Cuối cùng, Kennedy thốt lên một tiếng, báo hiệu cho chúng tôi biết rằng anh đã phát hiện ra điều gì đó. Tôi tiến lại gần, và Mackay cũng làm tương tự.
"Thật may mắn là hôm qua không ai trong chúng ta động chạm gì đến cặp rèm treo này," anh nhận định, đồng thời hơi nhếch mép cười thỏa mãn. "Không thì chưa biết chừng nằm ở chỗ Stella Lamar hiện thời không chỉ có mỗi một cái xác đâu."
Cả Mackay lẫn tôi đều cực kỳ cẩn thận không chạm vào phần lụa Kennedy đang chỉ. Có hai lỗ nhỏ, gần như tàng hình, bên trong chất lụa đan khít. Quanh một lỗ là một phần bạc màu rất nhỏ. Cách đó chưa đầy một phân, tôi thấy hai đốm màu nâu đỏ sẫm li ti.
"Thế tức là sao?" Tôi hỏi, mặc dù tự mình có thể đoán được chúng là gì.
"Các vệt thẫm màu là máu, vết bạc màu là chất độc từ mũi kim."
"Thế còn mũi kim thì sao?"
Anh nhún vai. "Riêng phần đó thì tôi đã bị tên thủ phạm biết dùng khoa học của chúng ta đi tắt chặn đường, Walter ạ! Mũi kim gài trong rèm treo suốt ngày hôm qua. Không may là tôi không nghiên cứu kỹ bản thảo, không nghĩ cảnh bên rèm treo của cô Lamar có gì quan trọng hết."
"Kẻ đột nhập vào đây đêm hôm qua..."
"Đã lấy mũi kim đi, nhưng...", giọng anh nghe cứ như thể đang thấy thích thú, "... hắn không loại bỏ được dấu vết của nó. Anh thấy đấy, Walter à, xét cho cùng, ngay cả tên tội phạm thuần thục khoa học nhất cũng không thể đi tắt chặn đường một thám tử trường phái chuyên khoa học. Chẳng có gì trên đời này không lưu lại một dấu vết không thể lẫn vào đâu được phía đằng sau, miễn là anh biết cách diễn giải nó. Đối với tôi, cái lỗ trên mặt vải cũng hữu ích chẳng kém gì bản thân mũi kim."
Bất thình lình, chúng tôi bị một giọng nói từ phía sau ngắt ngang.
"Có tìm thấy gì không?"
Tôi giật mình quay người lại và bắt gặp Emery Phelps. Ông giám đốc ngân hàng trông háo hức ra mặt.
"Có!" Kennedy nhìn thẳng vào mặt ông ta, không chút nao núng, trông chẳng hề ngạc nhiên. Anh dò xét mặt Phelps một cách không buồn giấu giếm. "Vâng," anh lặp lại, "từng chút một, chân tướng thủ phạm đang dần lộ ra trước mắt chúng ta."