← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15 TÔI ĐÓNG VAI MỘT THÁM TỬ-

Mặc dù theo dõi Enid và Marilyn, Werner và những người khác là việc rất quan trọng, Kennedy quyết định rằng bây giờ, chuyện làm theo đúng dự tính quay trở lại phòng thí nghiệm với chiến lợi phẩm sau một ngày săn lùng tội phạm của mình còn quan trọng gấp bội.

"Dù các thứ tình cảm đáng nhẽ ra phải là một điều hết sức bình thường trong cuộc đời trên sân khấu của những con người này, tôi thấy ngoài đời thật họ lại đi cảm nhận và thể hiện chúng ra nhiều quá," tôi nhận định sau khi Enid đã cho chúng tôi xuống và lái xe đi. "Chúng xem chừng chẳng nhạt đi chút nào."

"Tôi chẳng hiểu tại sao dân làm phim lại phải đi mua kịch bản," Craig hóm hỉnh bình phẩm. "Họ đâu cần phải làm vậy. Bản thân họ đã sống trong các kịch bản phim rồi đây thôi."

Lúc chúng tôi đã một lần nữa yên vị bên trong phòng thí nghiệm, Kennedy lại chúi đầu một cách đầy nhiệt tình vào công cuộc nghiên cứu anh đã bỏ dở hồi sáng để khẩn cấp đi đến nhà Phelps tại Tarrytown.

Tôi đã hy vọng anh sẽ bàn thêm về mối liên hệ tiềm tàng giữa những con người khác nhau và vụ án này, nhưng anh thậm chí còn không bình phẩm gì về chuyện Enid thú nhận rằng mình đã quen Millard từ rất lâu trước khi anh ta lục đục với Stella Lamar.

Rốt cuộc thì anh có vẻ rất phấn khích vì đã tìm thấy chiếc ống bóng kia, và vô cùng nóng lòng muốn được bắt đầu tiến hành phân tích các mảng chất trông giống như vảy mà nó chứa đựng. Tôi không nói chắc được, nhưng tôi tin rằng có khả năng đây cũng chính là thứ chất đã dây trên chiếc khăn tắm và cặp rèm treo. Nếu đúng là vậy thật thì nhờ phát hiện ra nó dưới dạng này, anh đã nắm trong tay một manh mối mới, cụ thể, giúp xác định bản chất của nó. Bởi thế nên anh mới hào hứng như vậy.

Tôi quan sát quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng và cẩn thận của anh, thầm ước giá mà mình có thể hỗ trợ được gì đó. Nhưng tôi biết kiến thức hóa học và vi khuẩn học của mình hạn hữu đến đâu. Tuy nhiên, tôi vẫn hiểu được rằng anh đang tập trung nghiên cứu các đốm mình đã cắt ra từ tấm rèm treo, đặc biệt phần vết ố nơi đầu kim nhọn từng đâm vào, và cả các mảng cặn đóng cứng lại thành vảy trên mặt trong ống. Anh chế ra các dung dịch từ cả hai thứ ấy, và thí nghiệm với các phản ứng hóa học một lúc. Thế rồi anh tham khảo vài quyển sách chuyên ngành nặng trịch. Mặc dù cực kỳ tò mò, tôi chẳng dám gặng hỏi gì anh, hay khiến anh bị phân tâm theo bất cứ cách nào.

Cuối cùng anh quay sang một cái chuồng nơi anh lúc nào cũng giữ một vài kẻ tử vì đạo rất hữu ích đối với khoa học: mấy con chuột lang. Anh lôi một con thú nhỏ ra và tách nó khỏi những con khác, chuẩn bị tiêm cho nó một chút dung dịch chế ra từ vết ố trên mẩu vải cắt ra từ tấm rèm treo.

Tôi biết công việc phân tích này sẽ rất lâu la và mệt mỏi. Ngồi không đợi Kennedy rút ra được kết luận thì chỉ tổ lãng phí thời gian, thế nên tôi lục lọi tâm trí xem có thứ gì mình tự tiến hành điều tra được trong khi chờ không. Có lẽ là thu thập thêm thông tin về những người chúng tôi theo dõi ban nãy tại trường quay.

Vì một lý do nào đó, tôi không thể gạt bỏ hoàn toàn nghi ngờ đối với ông đạo diễn, Werner; đặc biệt là bây giờ, khi tôi sắp xếp bằng chứng chống lại ông. Đầu tiên, ông là người duy nhất nắm quyền điều khiển hoàn toàn các chuyển động của Stella Lamar. Nếu cô không đưa tay lên trên tấm rèm treo theo cách đã tính toán khiến cho mũi kim chích vào thịt thì chắc chắn việc ông yêu cầu cô thực hiện lại động tác ấy lần nữa, hay thậm chí trực tiếp thay đổi vị trí của cô, cũng chẳng có gì là khác thường. Ông có thể làm chuyện đó trong lúc tập dượt hay khi quay lại, sau khi phân cảnh đã được ghi hình. Tôi biết đây không phải là bằng chứng. Gần như tất cả bọn họ đều quen thuộc với những gì diễn ra trong phân cảnh, có thể đoán được Werner sẽ xử lý nó ra sao. Điều quan trọng là bên cạnh Millard, ông đạo diễn là người nắm rõ các phân cảnh trong kịch bản nhất, đồng thời là người phải tính toán mọi thứ, bao gồm cả vị trí đặt lẫn góc độ của máy quay.

Tất nhiên, còn một vấn đề nữa là việc gài mũi kim lên tấm lụa. Nó chỉ có thể được gài nếu có ai đó đi đến Tarrytown trước những người khác, hay ít nhất phải vào trong phòng khách trước những người khác. Tôi lập tức buộc phải thừa nhận rằng Phelps là người có thể dễ dàng thực hiện điều này nhất. Phelps đã nằng nặc đòi quay phân cảnh bên trong thư viện của mình. Đồng thời, tôi biết rằng ông đạo diễn hoàn toàn có thể vào trong phòng trước bất kỳ ai khác, hoàn toàn có thể ra lệnh cho đội ngũ của mình để họ không gây cản trở gì trong khoảnh khắc ngắn ngủi ông cần.

Điều thứ ba cần cân nhắc là việc ống bóng đã được tìm thấy bên trong xe của McGroarty. Stella, Marilyn, Jack Gordon, Merle Shirley, và Werner đã cùng nhau ngồi xe đến Tarrytown. Werner không quay trở về bằng chiếc xe ấy. Mặc dù dữ kiện này không chứng minh rõ ràng khả năng ông đạo diễn đánh rơi nó, nhưng khi kết hợp cùng với những yếu tố khác, mọi sự nghi ngờ lại được hướng về phía ông.

Rồi còn cả việc chiếc khăn tắm được phát hiện ra bên trong nhà vệ sinh văn phòng của tòa nhà tại trường quay. Mặc dù Kennedy giờ đã nói rằng nó không được sử dụng để chùi mũi kim, mặc dù chúng tôi giờ đã biết rằng mũi kim nằm im trên rèm treo từ buổi sáng lúc Stella chết cho đến tối muộn đêm hôm đó, ấy nhưng Kennedy đã khẳng định chiếc khăn tắm có liên đới đến vụ án theo một cách bí ẩn nào đó; Đúng là đội ngũ diễn viên đôi khi vẫn sử dụng nhà vệ sinh, nhưng rõ ràng Manton, Millard, và Werner, những người có văn phòng ở trên tầng ấy, mới có khả năng là thủ phạm vứt bỏ nó cao hơn. Đối với Manton, tôi chẳng thấy có cớ gì để thực sự nghi ngờ ông ta cả. Trong giai đoạn đầu cuộc điều tra của mình, chúng tôi nhìn chung đã buộc phải loại bỏ Millard. Thế là lại một lần nữa, quá trình phân tích bí ẩn kia đã đưa tôi quay trở lại với Werner.

Vẫn còn một điểm chưa được giải quyết - danh tính của kẻ đã ghé thăm Tarrytown lúc đêm hôm. Khi nhắc đến chuyện này, tôi nhớ lại câu nói của Marilyn. Cô đã nói Werner luôn hành xử như vậy mỗi khi có việc phải ra ngoài khuya đêm hôm trước. Mặc dù các giả thuyết của tôi không lý giải được cho sự hiện diện của nhân vật thứ hai, kẻ nấp quan sát, tôi như mở cờ trong bụng khi nhận thấy rằng thêm một lần nữa, mọi manh mối đều quy tội cho ông đạo diễn.

Tôi quyết định sẽ chưa nói cho Kennedy biết về kết luận mình đã rút ra. Tôi không muốn làm anh phân tâm. Ngoài ra, tôi linh cảm rằng anh sẽ bất đồng quan điểm.

"Craig này, anh nghe thử ý kiến này nhé?" Tôi đề xuất. "Hay là bây giờ tôi ra ngoài trong lúc anh còn dở tay và tìm cách mò thêm thông tin về những người này?"

"Tuyệt vời!", anh đáp. "Tôi không thể nói chắc được mình sẽ còn phải bận bịu với công việc phân tích bao lâu nữa. Anh cứ thoải mái làm như vậy đi, Walter. Tôi sẽ ở nguyên đây, hay, nếu không, tôi sẽ để lại một mẩu ghi chú để anh tìm được tôi."

Thế là tôi bắt tay vào thực hiện công việc tìm kiếm của mình, quyết tâm tiến hành thật chậm rãi và cẩn thận, không để bất cứ manh mối đầy hứa hẹn nhưng sai lệch nào dẫn mình đi lạc lối. Căn cứ vào những gì chúng tôi đã được nghe kể lúc buổi sáng, tôi biết rằng Werner hiện sẽ đang làm việc tại trường quay. Tôi quyết định sẽ ghé thăm căn hộ của ông trong lúc ông đi vắng.

Nhờ cuốn niên giám điện thoại, tôi phát hiện ra ông sống lại Whistler Studios, cách không xa phần giữa mạn Tây nơi có công viên Central Park - một tòa nhà mới xây, như tôi nhớ là gần như chỉ toàn các nghệ sĩ và nhà văn sinh sống. Trong lúc vội vã bước dọc ga tàu điện ngầm, sau đó quay người và bước về phía Đông, hướng của công viên, tôi động não tìm cớ để được lên nhà. Khi bước vào sảnh tiếp tân tầng dưới, tôi được cậu tiếp tân nói cho biết là ông đạo diễn có thuê một phòng ở tầng trên cùng, đủ cao để nhìn qua mái của những tòa nhà kế bên và ngắm thẳng được vào khoảng không gian rộng rãi phía đằng sau, với đường sá và cảnh vật xanh tốt, sông hồ và cây cối.

"Nhưng bác Werner đang không có nhà," cậu ta nói thêm với vẻ ngờ vực, không buồn gọi lên phòng ông ta kiểm tra.

"Tôi biết mà," tôi vội vã đáp. "Tuy nhiên, tôi đã nhắn với ông ấy là mình sẽ gặp ông ấy ở đây chiều nay." Tôi đánh liều nói tiếp, nở kèm một nụ cười đầy ngụ ý, "Tôi đoán đêm qua ông ấy về nhà khá muộn nhỉ?"

"Dạ vâng," cậu thanh niên mỉm cười nhăn nhở, bất chợt trở nên thân thiện. Cậu ta diễn giải câu bình phẩm của tôi đúng như tôi đã dự kiến. Cậu ta tin rằng Werner và tôi đã ra ngoài cùng nhau. "Em nhớ mà," cậu ta tự nói, "bởi vì đêm qua em phải làm tăng ca trực, xui xẻo thế chứ. Chắc là tầm sau 4 giờ. Em đang gần ngủ gục đến nơi thì nghe thấy tiếng xe taxi đỗ lại trước cửa."

"Chẳng hiểu ông ấy gọi taxi từ công ty nào nhỉ?" Tôi nói với giọng thản nhiên. "Tôi đang định bắt một chiếc lên khu thượng...", tôi dừng lại. Tôi không muốn sa lầy vào trong một mê trận những lời dối trá và về sau sẽ không thể thoát ra được.

"Em không biết," cậu ta đáp. "Trông giống như taxi hãng Maroon, ở chỗ trước khách sạn Central Park tại dãy nhà kế bên, nhưng em không chắc."

"Có lẽ tôi sẽ chưa lên trên tầng vội," cuối cùng tôi nói. "Tôi cần phải đi gọi một cú điện thoại đã. Nếu ông Werner mà vào đây, bảo với ông ấy là tôi sẽ quay trở lại sau."

Tôi biết rất rõ rằng Werner sẽ không quay về, nhưng tôi tin rằng câu lừa gạt ấy có thể lát nữa sẽ giúp mình lên được trên tầng và vào trong căn hộ. Trong khi ấy, tôi có việc khác phải giải quyết. Cậu thanh niên gật đầu chào lúc tôi băng qua cánh cửa lưới sắt và ra ngoài phố. Chưa đầy năm phút sau, tôi đã có mặt tại bốt của công ty taxi Maroon, nằm bên cổng chính khách sạn Central Park.

Ông nhân viên điều độ xe ở đây là một người rất thích chuyện trò, và may mắn thay, tôi vớ được ông này đúng lúc ít khách nhất trong buổi chiều. Sau khi bỏ một chiếc tẩu thuốc ra và đẩy lùi một chiếc mũ tơi tả ra đằng sau một quả đầu hói trọi, ông ta lôi ra bản danh sách kiểm kê ngày hôm qua. Trước mặt tôi là bản ghi tất cả những lần gọi taxi, cùng với tên của tài xế, địa chỉ người gọi, và điểm đến. Mặc dù không gian trong bốt vừa chật chội vừa kín mít, chưa kể lại còn bị mùi khói chiếc tẩu ông kia làm cho ô uế hết lên, tôi bắt đầu hăm hở đọc lướt danh sách.

Đêm hôm ấy khá bận rộn, kể cả lúc gà còn chưa gáy, và khối lượng công việc của tôi khá nặng nề. Tuy nhiên, càng đến gần cuối danh sách thì hy vọng của tôi càng tàn lụi đi. Khi xem xong hết, tôi chẳng thấy bất cứ một cuộc gọi nào có khả năng là do Werner thực hiện cả. Có mấy chuyến lái đến và chở đi từ nhà ga Grand Central. Chắc đây chính là phương tiện ông dùng để đi đến Tarrytown. Trong tất cả các chuyến ấy, danh sách ghi tên khách sạn Central Park ở cột bên kia chứ không phải Whistler Studios. Tôi buộc phải từ bỏ manh mối này, và cảm thấy đau xé ruột. Chắc tôi không có khiếu làm thám tử, bởi lẽ tôi thiếu chút nữa là đã bỏ cuộc ngay tại đó, sẵn sàng quay về với phòng thí nghiệm và Kennedy.

Nhưng tôi nhớ lại ý định ban đầu của mình và quay trở lại Whistler Studios. Tôi tự luận rằng kiểu gì thì kiểu, sẽ khó có chuyện Werner gọi xe từ một nơi gần nhà nếu ông muốn giữ bí mật về chuyến đi của mình. Vào được trong nhà của ông là việc quan trọng hơn. Tại đó, nhiều khả năng tôi sẽ phát hiện ra thứ gì có giá trị. Tôi tự hỏi liệu mình có nên cạy cửa vào không, hay nếu mà thử làm thì liệu tôi có thành công không.

Mọi chuyện hóa ra dễ dàng hơn tôi tưởng. Rõ ràng chuyến ghé thăm đầu tiên của tôi đã giúp mở đường cho tôi. Cậu tiếp tân đích thân dẫn tôi lên thang máy mà không cần gọi điện hỏi, đưa tôi đến cửa phòng Werner, bấm chuông, và nói chuyện với cậu người hầu da đen ra mở cửa. Khi nhận thấy trong căn hộ có cậu người hầu này, tôi lấy làm mừng mình đã không thử tìm cách cạy cửa. Tôi cứ tưởng đây là một căn hộ trống không.

Cậu da đen với giọng dễ nghe, phong thái lịch sự, và được đào tạo tử tế cúi chào tôi, dẫn tôi vào trong một căn phòng nhỏ và đặt một hộp thuốc lá lớn lên trên chiếc bàn bên cạnh tôi, cùng với cả một hộp giữ ẩm chứa đầy xì gà chất lượng hảo hạng. Tôi lấy một điếu xì gà, để cậu ta châm lửa cho mình và liếc nhìn xung quanh.

Nơi này trái ngược hẳn với căn hộ của Manton. Chẳng có gì lòe loẹt, bóng bẩy, hay đẹp ngoạn mục ở đây hết. Đồ nội thất bên trong rất lộng lẫy, sang trọng, mọi thứ đều hết sức có gu, bộc lộ rõ chúng được sắp đặt bởi bàn tay một người nghệ sĩ. Nó có chút gì đó hơi khác thường, thể hiện bản tính bồn chồn của chủ nhân mình. Ngay cả cậu người hầu cũng hao hao người chủ của cậu ta, cứ lượn lờ xung quanh để đảm bảo tôi được thoải mái, thậm chí còn mang đến cho tôi một chồng những tờ tạp chí mới nhất. Tôi hy vọng cậu ta không đọc được các suy nghĩ trong đầu tôi, bởi lẽ tôi đang thầm nguyền rủa con người này. Tôi muốn được ở một mình. Bình thường thì tôi sẽ thích như thế này lắm, nhưng giờ tôi đã trở thành một thám tử, và tôi cần phải lục lọi xung quanh, và phải thực hiện việc đó thật nhanh chóng.

Điện thoại chợt đổ chuông, kéo cậu người hầu ra ngoài hành lang tí hon của căn hộ và mang đến cho tôi cơ hội mình hằng mong đợi.

Có vẻ Phelps gọi đến để gửi cho Werner một lời nhắn, và tôi không tài nào biết nó là gì, bởi vì cậu người hầu là người nghe điện thoại. Tôi băn khoăn tự hỏi Phelps gọi điện đến đây làm gì. Tại sao ông ta không gọi đến trường quay? Sự tình có vẻ thật kỳ lạ.

Tuy nhiên, tôi không lãng phí thời gian suy đoán chuyện đó. Ngay khi được bỏ lại một mình, tôi nhảy bật dậy và xộc tới bên một chiếc bàn viết, một món đồ cổ được chạm khắc đã được tôi chú ý ngay từ lúc bước vào đây, và được tôi ngắm nghía từ vị trí ngồi trên chiếc ghế bành. Nó không bị khóa, và tôi mở nó ra không chút ngần ngại. Với một bên tai dỏng lên để cảnh báo lúc cậu thanh niên da màu kia cúp máy, ban đầu tôi nhìn chồng giấy tờ văn học khổng lồ kia với ánh mắt đầy sự bất lực. Rõ ràng không có thời gian để rà soát hết cái mớ ấy.

Tôi kiểm tra sơ sịa mớ giấy tờ, cẩn thận không gây xáo trộn chúng, với hy vọng sẽ nhìn thấy một cái tên hay thứ gì đó có khả năng là một manh mối ngẫu nhiên, nhưng tôi kém may mắn hơn lần Kennedy tình cờ nhìn vào bàn của Manton chiều hôm trước. Vì nghe thấy cậu người hầu vẫn đang nghe điện thoại, tôi thò tay xuống và mở ngăn kéo trên cùng của bàn ra. Có thể trong này, vận may của tôi sẽ khá khẩm hơn. Vừa mới liếc qua được một cái là tim tôi đã giật thột rồi.

Bên trong một khoang ngăn kéo, tôi thấy một mũi kim tiêm - thực ra là hai mũi - và một chai gì đó. Trên bàn là một ống bơm mực bút. Ống này mới, chưa bao giờ được sử dụng. Tôi với qua, bóp phần bọng phình nhỏ của nó, mở nắp chai, nhét đầu kính vào, hút lên một ít thứ chất đựng bên trong, đặt ống bơm với phần bọng nằm dưới vào trong túi áo gile của mình, và đậy nắp chai lại. Tiếp theo tôi lấy một trong hai mũi kim tiêm và nhét vào túi. Theo như cảm nhận của tôi, cả hai đều giống hệt nhau.

Thế rồi tôi nghe thấy một câu tạm biệt vang lên trong hành lang. Tôi vội vã đóng ngăn kéo bàn lại. Lúc nghe thấy tiếng cách của tai nghe điện thoại được đặt lên móc thì tôi phóng đi được nửa đường. Trước khi cậu da màu kia kịp quay trở lại, tôi đã ngồi vào trong ghế của mình, đầu óc quay cuồng hết lên.

Quả là một may mắn bất ngờ! Tuy nhiên, tôi không hề trông đợi sẽ chứng minh được rằng Werner là thủ phạm bởi một phương thức đơn giản như thế này. Nếu ông đạo diễn mà đúng là thủ phạm sát hại ngôi sao điện ảnh, ông ta sẽ đủ thông minh để không để bất cứ thứ gì có khả năng kết tội bản thân vạ vật lung tung. Từ trước đến giờ, tôi luôn phản đối giả thuyết Poe đề ra trong tác phẩm "Lá thư bị đánh cắp *". Tôi tin rằng ngoại trừ trong các tác phẩm văn học hư cấu, những nơi hiển nhiên không phải là chốn thích hợp để ẩn giấu gì hết. Trên thực tế, kết luận tôi rút ra được chỉ là Werner thực chất là một con nghiện. Kennedy sẽ có thể rất dễ dàng cho tôi biết bản chất của thứ thuốc dựa trên mẫu vật này. Thông qua việc xác minh Werner sở hữu các mũi kim tiêm kia, tôi đã bổ sung được thêm một luận điểm vào trong mạch phỏng đoán của mình. Nó cho thấy rằng ông ta biết cách sử dụng chúng. Ngoài ra, còn phải cân nhắc đến cả tác động tâm lý của nó đối với hành vi của ông ta. Đã có nhiều vụ án mạng được thực hiện tài tình chẳng kém gì vụ sát hại Stella Lamar mà nguyên nhân đằng sau chỉ đơn thuần là kiểu hành vi ấy chứ không có bất kỳ động cơ thật sự nào hết, và chúng cũng xảy ra khá thường xuyên.

Bây giờ, khi nhớ lại phong thái lúc nào cũng bồn chồn của Werner, tôi tin chắc rằng cái người sử dụng mũi kim tiêm kia không ai khác ngoài ông ta. Có phải là do áp lực cao trong công việc của ông ta không? Có khi nào vì liên tục bị căng thẳng cao độ, ông ta đã buộc phải tìm đến với hình thức thư giãn kích động tột bậc này để giải tỏa không?

Vì hoan hỉ trong lòng, mới đầu tôi nổi hứng muốn tiếp tục thử thách vận may của mình. Tôi tự hỏi liệu mình có thể phát hiện ra một ống bóng khác, giống với thứ anh tài xế McGroarty đã nhặt được bên trong xe của mình hay không. Lúc người hầu của Werner giải thích với điệu bộ như thể đang bao biện rằng cú điện thoại vừa rồi được gọi đến từ một cửa hàng gần đó, và cậu ta sẽ phải rời tôi tầm mười hay mười lăm phút gì đấy, tôi trấn an cậu rằng chuyện ấy không thành vấn đề, và tôi sẽ giết thời gian với một tờ tạp chí. Ngay khi cậu ta vừa bước ra khỏi cửa, tôi lập tức bật dậy và bắt đầu lục soát mọi ngóc ngách trong các phòng thật tỉ mẩn.

Nhưng dần dần, một cảm giác sợ hãi và lo lắng xâm chiếm lấy tôi. Giả sử Werner quay trở về nhà bất thình lình thì sao? Cậu thanh niên da màu không có vẻ gì là ngạc nhiên khi tôi muốn đợi, một dấu hiệu nhỏ cho thấy rằng khả năng ấy hoàn toàn có thể xảy ra. Thêm nữa, tôi không tài nào đoán nổi khi nào cậu người hầu da đen sẽ quay trở lại, bất thình lình bước vào và bắt quả tang tôi. Tôi tử tế lắm cũng chẳng phải là một thám tử giỏi. Tôi không biết bằng chứng về thuốc độc sẽ được giấu ở đâu để mà tìm, và tôi cũng chẳng thể tìm kiếm được nhanh vì e ngại sẽ để lại những dấu tích quá rõ ràng phía sau, làm lộ tẩy những gì mình đã thực hiện. Trán của tôi toát đầm đìa mồ hôi. Dần dần, một cơn run rẩy lan tỏa khắp tứ chi tôi, và truyền xuống đến tận những ngón tay của tôi.

Xét cho cùng, nếu các nghi ngờ của tôi mà chính xác thì quan trọng nhất là phải làm sao để Werner không biết gì đến chúng. Nếu tôi mà vô tình khiến cho con người này phát hoảng và cao chạy xa bay thì chết dở. Cuối cùng, nhận ra sự liều lĩnh của mình, tôi quay trở về ghế ngồi, nhặt bừa một tờ tạp chí lên. Tôi chỉ vừa suýt soát kịp lúc. Một âm thanh khe khẽ lọt vào tai tôi, và lúc ngước lên nhìn thì tôi thấy cậu người hầu đã đi được nửa đường vào trong căn phòng rồi. Bước chân của cậu ta nhẹ nhàng đến mức tôi chẳng tài nào nghe ra nổi.

"Chắc tôi sẽ không đợi thêm nữa đâu," tôi nhận định, đồng thời đứng dậy và hơi dãn người, như thể mình ngồi im từ nãy đến giờ. "Một lát nữa tôi sẽ gọi điện lên, có thể sẽ quay lại sau khi đã liên hệ được với ông Werner."

"Tôi sẽ nói ai mới ghé nhà đây, thưa ông?", cậu ta hỏi, giọng chỉ hơi đớt âm dân da đen.

Tôi đặc biệt không muốn đánh động Werner. Tôi không thể dùng lại lời giải thích mà cậu tiếp tân dưới tầng đã tự luận ra từ câu bình phẩm của tôi, rằng tôi là một người bạn đêm hôm trước đã cùng với ông đạo diễn đi ra ngoài. Tôi cần đánh liều tin tưởng vào việc cậu người hầu của Werner và cậu tiếp tân sẽ không so sánh những gì họ nghe được với nhau, và cậu tiếp tân sẽ chẳng nói gì với ông đạo diễn khi ông ta về đến nhà.

"Tôi là một người bạn cũ đến từ bờ Tây," tôi giải thích, tỏ vẻ đang tiết lộ bí mật cho thanh niên da đen này. "Tôi muốn làm ông ấy ngạc nhiên, thế nên là...", tôi dúi nửa đô vào trong bàn tay hồ hởi đón nhận của cậu ta, "... hy vọng cậu sẽ chẳng nói gì cho đến khi tôi đã gặp ông ấy..."

Cậu ta mỉm cười rạng rỡ. "Vâng, thưa ông! Ông cứ tin tưởng George!"

Khi xuống dưới tầng tôi tự hỏi liệu mình có thể khóa miệng cậu thanh niên ban nãy tiếp đón tôi không. Thế rồi tôi phát hiện ra rằng cậu ta đã nghi trực. Cực kỳ khó có khả năng cậu ta xuất hiện tại đây cho đến ngày hôm sau. Tôi mỉm cười và vội vã bước ra ngoài phố.

Một khi đã ra đến bên ngoài, tôi mới thực sự thấu hiểu mình vừa liều lĩnh như thế nào. Tôi bất thình lình nhận ra rằng nếu Werner mà vô tội và biết về chuyến ghé thăm của tôi thì bất kể Kennedy hay bản thân tôi có giải thích hết nước hết cái thế nào, cơn giận của ông ta cũng sẽ không hề nguôi ngoai. Trong lúc ngẫm lại, tôi ngờ rằng mình sẽ bị Kennedy khiển trách, bởi chắc chắn anh không hề muốn vụ án mình đang xử lý bị các hành động hấp tấp của tôi làm phương hại. Tôi bắt đầu chạy, rời xa Whistler Studios nhanh hết mức có thể.

Thế rồi tôi nhận ra mình đã phát hoảng và trấn tĩnh lại. Nhưng tôi vẫn mau chân tiến ra ga tàu điện ngầm và quay trở về trường đại học, và về với phòng thí nghiệm, háo hức muốn được trao đổi thông tin với Kennedy.

"Nếu mà là Alphonse Dupin," anh điềm đạm nhận định khi nhận thấy sự phấn khích của tôi, "tôi sẽ suy đoán rằng anh đã phát hiện ra điều gì đó. Tôi cũng sẽ suy đoán rằng anh tin nó mang ý nghĩa quan trọng, và anh không hề có ý định giấu giếm gì tôi thông tin ấy, bất kể nó có là gì."

"Chính xác," tôi đáp, bất giác mỉm cười nhăn nhở.

Thế rồi tôi đưa mũi kim tiêm cho anh, kể lại vắn tắt cho anh nghe về chuyến ghé thăm căn hộ của Werner mà mình đã thực hiện, về việc cậu tiếp tân đã xác nhận ông ta có ra ngoài lúc đêm hôm, về công cuộc lục lọi chiếc bàn và một số nơi khác trong căn hộ kia của tôi. "Tôi đã dàn xếp để tối thiểu cũng phải một thời gian nữa ông ta mới hay biết về chuyến viếng thăm của tôi. Bất kể sự tình có ra sao thì ông ta cũng sẽ không biết đấy là ai."

Kennedy khám xét mũi tiêm.

"Không giống mũi kim được sử dụng," anh lẩm bẩm.

"Tôi cũng đã nghĩ như vậy," tôi giải thích. "Nó chỉ đơn thuần cho thấy rằng ông ta là một con nghiện và biết cách sử dụng kim tiêm. Đây!" Tôi đưa ra ống bơm mực mình đã dùng để mang một mẫu chất chứa trong cái chai về. "Có vẻ đây là thứ chất ông ta dùng. Nó là gì vậy?"

Kennedy hít thử, sau đó quan sát kỹ thứ chất lỏng qua lớp kính của ống. "Nó là một chất dịch thuốc phiện," anh giải thích. "Nếu Werner mà sử dụng thứ chất này thì ông ta rõ ràng là một người nghiện thuốc nặng."

"Rồi đó," tôi dừng lại, tỏ vẻ đắc thắng, "càng lúc càng có cớ để nghĩ ngờ tổng đạo diễn của hãng phim Manton Pictures."

"Không nhất thiết như vậy," Kennedy phản bác, có lẽ là muốn dụ tôi nói thêm.

"Ông ta biết cách sử dụng kim tiêm," tôi lặp lại.

"Điều ấy không chứng minh được là sẽ không ai khác sử dụng một thứ tương tự cả."

"Dù sao thì ông ta cũng ra ngoài cho đến tận 4 giờ sáng hôm qua, và đã có ai đó đột nhập vào trong nhà của Phelps để..."

"Anh không thể khẳng định được là ông ta đi ra đó. Có rất nhiều nơi khác ông ta có thể lưu lại cho đến 4 giờ sáng."

"Nhưng tôi có thể giả định rằng..."

"Walter à, nếu anh đã muốn giả định thì tại sao không giả định ông ta là người thứ hai, người đã theo dõi kẻ đột nhập?"

Tôi quay đi, cảm thấy tuyệt vọng vì không tài nào thuyết phục nổi Kennedy. Thực tình mà nói, tôi đã quên béng mất nhân vật thứ hai lẩn khuất tại Tarrytown.

Sau đó tôi để ý thấy rằng con chuột lang nhốt trong chuồng tách biệt đã chết. Chỉ trong nháy mắt, tôi trở nên vô cùng tò mò muốn biết kết quả cuộc điều tra của Kennedy.

"Anh có tiến triển gì không?" Tôi hỏi.

"Có!" Giờ là lần đầu tiên tôi để ý thấy anh đang rất vui vẻ. "Tôi vừa mới hoàn tất giai đoạn đầu tiên của quá trình phân tích thì anh bước vào."

"Vậy rốt cuộc nó là gì? Thứ chất độc đã giết chết Stella Lamar là gì?" Tôi liếc nhìn hình hài cứng đờ, nằm sấp của con thú nhỏ.

Kennedy hắng giọng. "Này nhé," anh đáp, "tôi bắt đầu nghiên cứu với xuất phát điểm là dữ kiện trong chất độc có một loại protein kỳ lạ. Tôi đã kể cho anh nghe về phát hiện này của mình rồi đó." Anh nhấc chiếc ống bóng lên và nhìn nó với vẻ trầm ngâm. Thế rồi anh mân mê mẩu lụa cắt ra từ tấm rèm treo. "Đây là một thứ chất độc chết chóc hơn và tinh tế hơn bất cứ thứ gì từng được con người pha chế ra, Walter à."

"Vâng?" Tôi nôn nóng kinh khủng.

"Nó là nọc độc rắn!"