← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 24 HIỂM HỌA TÀNG HÌNH

Mackay và tôi nhìn nhau. Kennedy bận rộn cất các bằng chứng quan trọng trong vụ án đi, đặt các ống nghiệm đựng dung dịch tí hon, các mẫu máu, và các món đồ vật vào trong một chiếc tỉ nằm ở góc đằng xa của phòng thí nghiệm. Phần lớn mớ dụng cụ của anh, mớ bình thủy tinh và hóa chất và các thiết bị nghiên cứu, được anh đặt nguyên trên bàn để sáng ra sử dụng. Thế rồi anh lại quay sang nhìn chúng tôi và nở một nụ cười.

"Anh bật bình lọc thêm một lần nữa đi, Walter!" Anh lấy một điếu xì gà và châm nó với que diêm được tôi quẹt cho. "Tôi tin mình xứng đáng được hưởng thêm một tách cà phê nữa," anh nói thêm.

Kể từ lúc Kennedy giải thích về mối hiểm họa tiềm tàng đối với Shirley cũng như đối với bản thân chúng tôi hay thậm chí là những người khác, Mackay cứ đứng ngồi không yên.

"Chẳng nhẽ chúng ta không thể làm gì sao, Kennedy?", anh ta bất chợt thốt lên. "Ta có cần phải ngồi yên và đợi tên tội phạm bí ẩn này ra tay thêm lần nữa không?"

"Bình thường thì," Kennedy đáp, "đối với một vụ án như thế này, tôi có thói quen để cho kẻ có tội tự mình để lộ tung tích, bởi chúng kiểu gì cũng sẽ làm vậy - đặc biệt là khi tôi đem các phát kiến khoa học mới trong lĩnh vực phát hiện và đo lường những sắc thái tình cảm tinh tế và gần như không thể nào nhận ra được ra áp dụng. Nhưng vì giờ đã nhận ra sự hiện diện của mối hiểm họa này, tôi sẽ chuyển sang đóng vai một thám tử hành động. Trên thực tế, tôi sẽ bằng mọi giá đẩy nhanh tiến độ. Sáng ra, điều đầu tiên tôi thực hiện sẽ là đi đến trường quay, và tôi muốn anh cùng với Jameson đi cùng mình. Tôi...", mắt anh sáng long lanh lên, thể hiện nỗi phấn khích trước viễn cảnh ấy, "... có thể tôi sẽ cần được hỗ trợ rất nhiều thì mới kiếm được bằng chứng mình muốn."

"Và đó là...?" Người đưa ra câu hỏi ấy là tôi.

Kennedy phà ra một đám mây khói. "Có ba cách để truy ngược lại một tội ác, bên cạnh phương pháp sử dụng chỉ điểm để làm lộ chân tướng tên tội phạm của cảnh sát, và phương pháp thẩm vấn trong khi gây căng thẳng của cánh thám tử nhà nước, hay được biết đến dưới cái tên tra khảo."

"Chúng là gì vậy?" Mackay hỏi, không ý thức được rằng một khi Kennedy mà đã nổi hứng muốn nói về một vấn đề đang khiến mình thấy bận tâm thì anh sẽ chẳng cần ai gặng hỏi hết.

"Một là quy trình suy luận dựa trên bản thân các nghi phạm gây án tiềm tàng - nói cách khác là nhấn mạnh vào động cơ. Phương pháp thứ hai sẽ ngược lại đối với phương pháp thứ nhất, bao gồm nghiên cứu vụ án để tìm kiếm manh mối và đưa ra các phỏng đoán dựa trên các dấu tích thủ phạm tất yếu sẽ sở hữu nhằm xác định danh tính của hắn. Riêng phương pháp thứ ba, nếu không kể đến một số cuộc điều tra được thực hiện ở nước ngoài, thì sẽ là phương pháp đặc trưng của tôi, phương pháp nghiên cứu khoa học."

"Trong tất cả các ngành khoa học," Kennedy nói tiếp, bắt đầu trở nên hào hứng đối với đề tài của mình, "mọi bước tiến đều được khởi nguồn từ quy trình tổng hợp một cách cẩn thận các dữ kiện đã được chứng minh. Phương pháp khoa học là phương pháp áp dụng kiến thức chuẩn xác. Bởi vậy, trong lĩnh vực phá án, các kiến thức ấy trở thành thứ có giá trị đối với chúng ta. Chúng bắt nguồn từ vô số quan sát thực nghiệm và đã trở thành điều không thể chối cãi. Ví dụ quen thuộc tất nhiên sẽ là dấu vân tay. Gần như tất cả mọi người đều biết rằng chẳng hai người nào có cùng dấu vân tay với nhau; rằng mỗi người sẽ có một mẫu vân tay không đổi kể từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi.

Một dữ kiện khác không kém phần chắc chắn đó là máu con người khác máu động vật, và máu của mỗi người đều có những khác biệt nho nhỏ, không ai giống ai. Ngoài ra, máu của bất cứ sinh vật sống nào, con người hay thú vật, đều chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, với số lượng gần như bất tận. Đại đa số các yếu tố ấy đều đã được những nhà nghiên cứu y khoa hiện đại biết đến.

Trong vụ án này, manh mối khoa học chính của tôi là đốm máu vương lại trên tấm rèm treo của kẻ lấy lại mũi kim trong đêm sau khi vụ án diễn ra. Đứng dưới nó về mức độ quan trọng là dữ kiện có ai đó tại trường quay đã chùi một mũi kim tiêm lên một chiếc khăn tắm sau khi tự tiêm chất kháng nọc độc cho bản thân, như tôi đã chứng minh. Tất nhiên tôi đang giả định rằng kẻ này tự tiêm thuốc cho bản thân chứ không phải cho người nào khác, bởi vì đây là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, nếu cần thiết thì về sau tôi vẫn sẽ có thể chứng minh được nó bằng cách phân tích mẫu máu. Đó không phải là điều chính yếu. Điều chính yếu là kẻ gỡ mũi kim đã tự châm xước mình, ấy nhưng lại không chết vì nọc độc - trừ khi kẻ ấy không nằm trong danh sách theo dõi của chúng ta, có điều chuyện ấy ít có khả năng xảy ra lắm. Do đó, nhờ dữ kiện thứ hai ấy, và bởi vì đây cũng lại là một điều hiển nhiên, tôi dự kiến mình sẽ tìm được kẻ đã tiêm chất kháng nọc độc cho bản thân và gỡ bỏ mũi kim khỏi tấm rèm treo, đồng thời tin rằng mình sẽ chứng minh được điều này một cách hết sức rõ ràng thông qua việc phân tích mẫu máu của hắn. Mẫu máu của nhân vật này sẽ trùng khớp hoàn toàn với đốm máu trên tấm rèm treo, và với một bài kiểm tra còn dễ dàng hơn hẳn, ta sẽ thấy máu hắn chứa vết tích chất kháng nọc độc.

Sau khi đã thực hiện được những điều ấy, chỉ cần thêm một chút, à... tra khảo, là chúng ta sẽ có được một lời thú tội. Đây là bằng chứng suy diễn chắc chắn nhất. Kẻ này không chỉ đã thực hiện những bước để phòng ngừa trước một thứ chất độc cụ thể mà còn chính là người đã lấy đi mũi kim gây tử vong cho cô Lamar.

Tuy nhiên, điểm bất lợi của tôi là tôi không có lý do chính đáng nào để lấy mẫu máu của tất cả những người chúng ta nghi ngờ cả, hay tin rằng mình nên nghi ngờ. Chính vì lý do đó mà suốt bao lâu nay tôi cứ đợi cho đến khi một trong các phương pháp điều tra kia giúp thu hẹp phạm vi những người trong diện nghi ngờ lại. Bởi bây giờ đã xuất hiện nguy cơ sẽ có thêm một âm mưu sát hại mới, tôi buộc phải ra tay hành động. Ngày mai chúng ta sẽ kiếm cớ lấy mẫu máu từ tất cả mọi người - hoặc dùng vũ lực!"

"Trong khi ấy...", anh vội vã nói tiếp, như thể sợ sẽ bị chúng tôi làm ngắt quãng mạch suy tư của mình. "Trong khi ấy, đêm nay, hãy cùng xem liệu chúng ta có thể đạt được kết quả gì với phương pháp suy luận không.

Tôi đã tiến hành phân tích với xuất phát điểm là bản chất của vụ án và thử suy luận xem đứng đằng sau nó là kiểu tội phạm như thế nào. Gã - hay ả - thủ phạm là một kẻ rất thông minh, đồng thời cực kỳ gian xảo. Nếu không nhờ những kết quả thu lượm được bên trong phòng thí nghiệm này, chúng ta sẽ chẳng sở hữu bất kỳ một manh mối nào cả. Chúng ta sẽ bó tay hoàn toàn. Cả cô Lamar và Werner đều đã bị sát hại bởi các loại chất độc bất thường; vô cùng chết chóc, và gần như không cách nào truy ngược lại được. Trong mỗi vụ án đều có một đám người đứng xung quanh, ấy vậy mà chúng ta không có nhân chứng nào hết. Thế thì trong số tất cả những người có động cơ khả dĩ của chúng ta, ai là người đủ thông minh và đủ gian manh để là kẻ có tội đây?"

Đầu tiên Kennedy liếc nhìn tôi, sau đó nhìn sang Mackay.

"Manton? Phelps?", anh ủy viên công tố quận đề xuất.

"Bên dưới phong thái kỳ cục mà dường như tất cả mọi người trong lĩnh vực phim ảnh đều mắc phải," Kennedy đáp, "nhà quảng bá là một doanh nhân điển hình. Bình thường thì kiểu người như ông ta, luôn suy nghĩ về những chuyện tiền tỉ và tính toán tích tiểu thành đại hay các công việc kinh doanh thường nhật khác sẽ không màng đến những xúc cảm tinh tế của cuộc đời. Khi một doanh nhân ra tay giết người, hắn thường sẽ sử dụng một khẩu súng lục bởi vì hắn biết chắc rằng nó sẽ hiệu quả - hắn có thể thấy nó phát huy tác dụng. Phelps cũng tương tự như vậy."

"Millard thì sao?" Mackay giờ đã trở nên lưỡng lự, không dám đương đầu với logic tâm trí sắc sảo mà Kennedy đưa ra. "Anh ta là chồng của Stella Lamar!"

"Millard là một biên kịch viên, vậy nên dễ có khả năng đầu óc anh ta chất chứa đủ mọi loại tình tiết liên quan đến tội ác và sát nhân. Đồng thời, vì đã quá quen với việc tạo dựng cảm xúc giả mạo trong các tác phẩm của mình, một nhà văn sẽ hiếm khi coi trọng thứ gì. Cuộc đời trở thành một trò đùa, và Millard thì như một con bướm, quan tâm đến nụ cười của mấy cô diễn viên phụ và tán tỉnh cô Faye hơn là số phận của người phụ nữ mình còn chưa ly dị xong. Nhà văn là người đối nghịch hoàn toàn với doanh nhân. Người sáng tạo ra các câu chuyện về cơ bản sẽ không làm việc theo cách hiệu quả, bởi hắn cảm nhận nhiều hơn suy luận. Khi một nhà văn xuống tay giết người, hắn sẽ dựng lên cả một sân khấu dành riêng cho bản thân mình. Hắn cẩn thận tránh để lại nhân chứng bởi lẽ họ rất khó loại bỏ. Đồng thời, hắn sẽ muốn nạn nhân thấu hiểu rõ ràng chuyện gì sắp sửa xảy ra, thế nên nhiều khả năng đi kèm với tội ác của hắn sẽ là một bài phát biểu với lời lẽ cực kỳ trau chuốt. Thế rồi ban đầu hắn có thể sẽ định bóp cổ một người nhưng rốt cuộc lại sử dụng rìu, hay hắn có thể sẽ lên kế hoạch sử dụng một lưỡi dao cạo nhưng rốt cuộc lại đập nát óc con mồi của mình với một chiếc ghế. Hắn sống quá nhiều cuộc đời, thế nên chẳng tài nào sống được cho đến nơi đến chốn cuộc đời của mình cả."

"Thế còn Shirley thì sao?" Tôi góp ý kiến.

"Khi mới nhìn qua, Shirley và Gordon tự đẩy mình vào tầm ngắm bởi lẽ cả hai vụ án mạng đều hết sức phô trương, trong khi dân diễn viên thì lại thích một cảnh tượng hoành tráng hơn bất cứ thứ gì trên đời. Chẳng hạn như sau khi Werner chết, Shirley cứ đi đi lại lại bên trong khu bối cảnh. Anh ta quá mê mải với vụ việc, quá đắm chìm vào tấn kịch đến mức anh ta hoàn toàn không nhận ra hành động của mình trông sẽ đáng ngờ như thế nào. Không may cho các giả thuyết của chúng ta, nọc rắn và chất độc là hai phương thức hiệu quả một cách quá máu lạnh. Dân diễn xuất phải có cảm xúc. Bất cứ diễn viên nào đủ tàn nhẫn và đồi bại để sát hại hai nhân mạng theo cách cô Lamar và Werner đã bị hạ sát, đủ máu kịch nghệ trong người để mường tượng ra cách chết của họ thì sẽ muốn chứng kiến họ quằn quại và đau đớn. Hắn sẽ lựa chọn những thứ chất độc hiếm và hiệu nghiệm không kém, nhưng phát tác chậm rãi và đau đớn hơn. Không, Walter à, phương pháp suy luận không quy cho Shirley là thủ phạm. Hiện trường của các vụ án mạng chỉ đơn thuần được dàn xếp sao cho mang lại mức độ hiệu quả cao nhất, không phải vì muốn phô diễn. Trong cả hai vụ án, đám đông vây quanh đã khiến cuộc điều tra trở nên khó khăn hơn hẳn."

"Anh có gộp kèm cả Gordon vào trong đó không?" Mackay hỏi.

"Phải, và ngoài ra...", Kennedy hơi mỉm cười, "... tôi tin rằng Gordon là kiểu người thiếu đầu óc. Thứ nhất, anh ta đã mấy lần ẩu đả nơi công cộng, tại câu lạc bộ Goats và tại quán Midnight Fads và tôi đoán là còn ở một vài nơi khác nữa. Đó không phải là tên tội phạm thông minh của chúng ta. Thêm nữa, anh ta suy đoán đầu cơ chứng khoán, không chỉ thỉnh thoảng mà đầu cơ theo kiểu rất khát, rất ngoan cố. Người thông minh sẽ đầu cơ, nhưng người làm khoa học thì sẽ không bao giờ làm vậy. Tên tội phạm bí ẩn của chúng ta vừa gian xảo mà lại vừa thông minh."

"Thế tức là còn mấy cô gái," Mackay nhận định.

Mặt Kennedy sa sầm lại, và tôi có thể thấy rằng anh đang cảm thấy bận tâm. "Thật tình mà nói, riêng với phương pháp suy luận này," anh tuyên bố, "tôi phải thừa nhận rằng cả cô Faye lẫn cô Loring đều đáng bị nghi ngờ. Sự thăng tiến của họ trong lĩnh vực điện ảnh, những minh chứng về độ nổi tiếng của họ, là bằng chứng cho thấy đây là những người thông minh. Trong hai lần ngắn ngủi tôi được tiếp xúc với cô Loring, tôi thấy cô ấy rất có khả năng nắm bắt vấn đề và rất nhạy bén, dấu hiệu cho thấy cô ấy sở hữu một khối óc thông minh hiếm thấy đối với một người phụ nữ. Về phần cô Faye...", anh lại một lần nữa lưỡng lự, "... cô ấy thể hiện sự thông minh của mình với một hành động nhỏ. Lúc Shirley đứng canh gác khu bối cảnh sau khi Werner chết, và tự biến bản thân thành một trò hề, Millard rõ ràng muốn ra đó và nói chuyện với anh ta, có thể là muốn bảo anh ta đừng để tôi để ý thấy anh ta sục sạo hiện trường một cách quá chăm chú như thế, hoặc có thể là điều gì đó khác. Nhưng cô Faye đã ngăn anh ta lại. Chắc chắn cô ấy đã nhận ra rằng khi ấy, bất cứ ai tỏ vẻ quan tâm đến những gì còn sót lại của buổi tiệc sẽ bị đưa vào diện tình nghi."

"Anh thực sự nghi ngờ Marilyn hay Enid à?" Tôi hỏi.

"Nếu giờ mà là nửa thế hệ trước thì tôi sẽ nói luôn, không chút ngần ngừ, rằng vụ án này là do tay một người đàn ông gây ra. Nhưng giờ thì phụ nữ nhúng tay vào tất cả mọi thứ. Đặc biệt là các cô gái trẻ..." Anh nhún vai.

Mackay vẫn còn một đề xuất nữa. "Còn các nhân viên quay phim, các diễn viên phụ, đội ngũ kỹ thuật viên và nhân viên trường quay - họ cũng đáng được đưa vào diện cân nhắc chứ?"

Kennedy lắc đầu.

Mùi cà phê bốc vào trong mũi tôi, và lúc quay người lại thì tôi thấy bình lọc đã bốc khói nghi ngút. Kennedy rướn người sang bên, hít lấy một hơi. Mackay đứng dậy. Đúng lúc ấy, bất chợt có một tiếng choang và khung kính cửa sổ vỡ nát ra. Đồng thời một chớp sáng vụt lóe và một tiếng nổ điếc tai bùng lên bên trong căn phòng, khiến các mẩu thủy tinh tí hon bắn văng tung tóe từ trên bàn thí nghiệm, làm cho hóa chất vương lên khắp mọi thứ, trong số đó có nhiều thứ chất nguy hiểm.

Kennedy vội vã chạy đến bên mớ dụng cụ hoang tàn của mình. Chỉ nháy mắt sau, anh đã giơ lên một mẩu kim loại lởm chởm tí hon.

"Một đầu đạn nổ!", anh thốt lên. "Một mưu đồ phá hủy chỗ bằng chứng của tôi!"