← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 28 QUẢ BOM PHOSPHO

Chúng tôi lao vào trong sân, Kennedy đi đầu, Mackay cầm túi chạy theo sau. Bao phủ lấy ngoài này là các đám mây khói trắng mịn, dày đặc và hết sức ngột ngạt trộn lẫn với hơi nước, chưa kể nhìn đi đâu cũng thấy hỗn loạn tột cùng. May mắn thay, bởi vì Manton đã cho đội ngũ nhân viên trường quay thường xuyên luyện tập chống hỏa hoạn, những người tham gia ngăn không cho vụ cháy lan rộng xem chừng cũng hành động với chút quy củ. Tuy nhiên, mọi nỗ lực dập lửa ở bên trong hầm chứa đều vô ích, thế là đội nhân viên đành chấp nhận đổ nước vào trong tầng hầm từ hai bên nhằm hạ nhiệt cho tòa nhà và có lẽ là cả các hầm chứa khác nữa, đồng thời không ngừng phun hỗn hợp hóa học từ một thiết bị chuyên dụng vào trong hệ thống thông khí và từ đó phủ kín mớ phim đang cháy nghi ngút.

Trường quay có vẻ được trang bị đồ nghề chống hỏa hoạn hết sức đầy đủ. Có nước phun với áp suất mạnh bơm từ một thùng được đặt cao hơn mái nhà cao nhất trên sân tầm năm hay mười mét gì đó. Ngoài ra, Manton còn đầu tư mua máy phun hóa chất và cả các xe cát nữa, bởi vì nước sẽ khiến cho phim càng cháy mạnh hơn chứ không dập tắt được lửa. Tôi để ý thấy nhà quảng bá trực tiếp đứng ra chỉ huy đội dập lửa, và trông cách ông ta hành động đầy sốt sắng và liều lĩnh như thế, tôi chấm dứt luôn việc nghi ngờ rằng Phelps có thể đã nói đúng và rằng Manton muốn chủ tâm phá hoại công ty này nhằm phục vụ lợi ích của Fortune Features.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đáng kinh ngạc, sự việc đã được giải quyết ổn thỏa. Lúc bên cứu hỏa của thành phố đến nơi, sau khi đã vượt qua gần ba dặm đường, họ chẳng còn việc gì để làm hết. Anh đội trưởng đội cứu hỏa tìm gặp Manton để cùng với ông ta đi kiểm tra mức độ thiệt hại và đảm bảo vụ hỏa hoạn đã được dập tắt hoàn toàn. Trước khi đi, nhà quảng bá ra dấu gọi Kennedy.

"Không nghi ngờ gì hết, đây là một vụ cố ý phóng hỏa đốt nhà," ông ta giải thích với anh đội trưởng đội cứu hỏa. "Tôi muốn anh Kennedy được quan sát tất cả mọi thứ trước khi chúng bị làm xáo trộn, để đảm bảo rằng không manh mối nào bị thất lạc hay phá hủy."

Mặt mũi anh lính cứu hỏa sáng bừng lên. "Craig Kennedy ư?", anh ta hỏi. "Ôi trời! Chắc hẳn phải có mối liên hệ gì đó giữa vụ hỏa hoạn này và vụ sát hại Stella Lamar cũng như đạo diễn của cô ấy. Ngày nào tôi cũng theo dõi sự tình câu chuyện trên báo."

"Đây là anh Jameson của tờ Star,” Kennedy nói, giới thiệu tôi.

Chúng tôi phát hiện ra rằng mình không thể ngay lập tức bước vào khu tầng hầm tiếp giáp với các hầm chứa - tức là đi thẳng từ sân xuống - bởi vì có vẻ họ cần cho nước liên tục chảy xuống các bậc thang, khiến cho một làn hơi nước bốc lên chắn lối chúng tôi. Manton giải thích rằng chúng tôi có thể vào trong đó thông qua khu tầng hầm kế bên nếu nó không quá nóng, và thế là chúng tôi vội vã tiến về phía lối vào kia.

Sau khi lui lại phía sau để kiếm cách bảo vệ chiếc túi khỏi hơi nhiệt, Mackay nhập bọn với chúng tôi tại đó.

"Tôi đã giao phó chiếc túi cho anh tài xế, McGroarty, và đưa cho anh ta khẩu súng lục của mình," anh ta giải thích. Anh dừng lại để quẹt mắt. Khói bốc lên từ mớ phim làm cả đoàn chúng tôi khổ sở vô cùng. "Cả Shirley và Marilyn Loring vẫn còn mất tích," anh ta nói thêm. "Tôi đã hỏi han tất cả mọi người về họ rồi. Không ai nhìn thấy họ cả."

Anh đội trưởng đội cứu hỏa ngước lên nhìn. "Tất cả mọi người đều đã ra khỏi đó rồi chứ? Ông có chắc là tất cả mọi người đều đã được an toàn không?"

"Hồi nãy tôi bắt Wagnails cầm vòi chữa cháy ở ngay bên cùi chỏ mình," Manton đáp. "Tôi cũng đã thấy thằng bé chạy loanh quanh. Không một ai khác có nhiệm vụ gì dưới đó cả, và các hầm chứa đều đã đóng kín, còn tầng hầm thì đã được khóa lại."

Cửa dẫn vào tầng hầm tiếp giáp hãy còn nóng, nhưng không đến mức chúng tôi không thể sờ vào được. Tuy nhiên, chốt cửa đã bị mắc kẹt và phải tốn khá nhiều công sức thì mới vặn nó vào được. Ngay khi làm xong, một làn hơi nước cay sè khiến cho tất cả chúng tôi phải bước lùi lại.

Thế rồi Kennedy có vẻ đã nhìn thấy thứ gì đó bên trong làn hơi đang tan dần. Anh phóng vọt tới trước, không chút chần chừ. Anh đội trưởng đội cứu hỏa bám theo. Chỉ trong tích tắc, tôi cũng bắt đầu nhìn ra được nó là gì.

Xuất hiện mờ nhạt bên trong làn hơi nước là hình hài của một người phụ nữ, bấy giờ đang cố gắng nâng cơ thể nằm sõng soài của một người đàn ông lên. Sau một lần cố gắng, cô ngã gục lên người anh ta. Tôi lao vào, và cả Mackay cùng với Manton cũng thế. Hai người khiêng cô gái ra ngoài chỗ thoáng khí, trong lúc ba người còn lại kéo người đồng hành bất tỉnh của cô ra. Họ chính là Marilyn và Shirley.

Cô nữ diễn viên nhỏ nhắn hồi tỉnh một cách dễ dàng, nhưng Shirley thì cần cả Kennedy và anh đội trưởng đội cứu hỏa chung tay cứu giúp mới tỉnh nổi, và rõ ràng là anh ta đã phải trầy trật lắm thì mới không bị chết ngạt. Hai người này sống sót được kiểu gì quả thật là một bí ẩn. Quần áo họ ướt sũng, mặt và tay họ ám đen, lông mày và lông mi bị sức nóng thiêu đốt cháy sém. Nếu không có chỗ nước phun vào trong tầng hầm, bọn họ sẽ chẳng một ai sống nổi. Họ bị nhốt kín trong suốt quãng thời gian diễn ra vụ hỏa hoạn. Hầm chứa bị cháy khiến họ mắc kẹt ở một đầu tầng hầm, cửa phân khoang thì họ không mở nổi.

"Tạ ơn Chúa anh ấy còn sống!", đó là những lời đầu tiên Marilyn thốt ra.

"Cô xuống dưới tầng hầm kiểu gì vậy?" Kennedy nghiêm giọng hỏi.

"Tôi nghĩ chưa biết chừng anh ấy sẽ có ở đó." Bấy giờ, khi chất thuốc bắt đầu ngấm, cô gái nhược cả người đi, và cô phải khó khăn lắm mới kiểm soát được bản thân. "Lúc nãy tôi đi tìm anh ấy, và ngay khi nghe thấy vụ nổ đầu tiên, tôi lao xuống thang và chạy vào trong lối dẫn vào hầm chứa phim. Khi ra đến gần chỗ ấy, tôi thấy anh ấy đang đờ người ra. Tôi bắt đầu đỡ anh ấy dậy, nhưng gần như trước khi tôi ra được đến bên anh ấy thì lại có thêm mẩy vụ nổ nữa. Lửa thổi bùng ra từ các khe rãnh của cửa hầm chứa và tôi... tôi không thể kéo được anh ấy lại chỗ các bậc cầu thang. Tôi phải kéo anh ấy quay trở lại đúng nơi mọi người tìm thấy chúng tôi." Cô bắt đầu run rẩy. "Thật... thật hết sức kinh khủng!"

"Có ai khác ở quanh đó nữa không, có người nào ngoài anh Shirley không?"

"Không. Tôi... tôi nhớ mình có tự hỏi không hiểu anh gác hầm chứa đi đâu rồi."

"Anh Shirley xuống dưới đó để làm gì vậy, cô Loring?"

"Anh ấy...", cô lưỡng lự, "... anh ấy nói mình đã nhìn thấy ai đó luẩn quẩn tại đây và... và anh ấy không muốn báo lại gì hết đến khi mình đã biết chắc. Anh ấy... anh ấy tưởng rằng hành động một mình sẽ dễ thành công hơn, mặc dù tôi đã bảo với anh ấy rằng anh ấy... anh ấy nhầm rồi."

"Anh ta nhìn thấy ai luẩn quẩn quanh đây vậy?"

"Anh ấy không chịu nói cho tôi biết."

Shirley hiện đang quá yếu, không thể hỏi han gì được, và cô gái thì quá rệu rã không đủ sức trả lời thẩm vấn thêm nữa. Đáp lại lời gọi của Manton, một vài người xuất hiện và sẵn lòng đỡ hai con người này về với phòng thay đồ thoải mái của mình.

Theo lời đề xuất của anh đội trưởng đội cứu hỏa, họ ngưng bơm nước vào trong tầng hầm. Manton dẫn đầu cả đoàn ra đến trước các hầm chứa, vừa đi vừa ho khù khụ, mắt nhòe nước. Ông ta vội vã sờ mó các cánh cửa thép và những bức tường. Không lẫn vào đâu được. Hầm chứa âm bản nóng rực, những hầm khác thì nguội lạnh.

"Khốn kiếp!" Manton thốt lên. Giọng ông ta chất chứa một nỗi chua chát sâu sắc, khiến cho câu nói vừa rồi nghe cứ trẻ con, chẳng tương xứng chút nào. "Tại sao không phải là chỗ bản in!" Bất chợt ông ta bắt đầu khóc. "Thế là xong hết rồi. Không một thành phẩm nào của chúng tôi còn đem trình chiếu được nữa. Thiệt hại này lên đến nửa triệu đô."

"Nếu ông có các dương bản," Kennedy hỏi, "chẳng nhẽ ông không thể tạo ra các âm bản mới hay sao?"

"Bản sao ấy à?" Manton ngước lên nhìn với vẻ khinh bỉ. "Anh đã bao giờ xem một bản in từ một âm bản sao chép chưa? Dở kinh lên được. Trông như thể đã có ai đó bỏ nó ngoài trời mưa suốt cả đêm."

"Thế còn 'Nỗi kinh hoàng Màu đen' thì sao?" Tôi hỏi.

"Tất cả bọn chúng được cất tại két sắt bên trong phòng in. Nó và hai bộ phim năm cuộn của các đoàn làm phim khác nữa. Chúng tôi sẽ không mất những bộ phim sắp công chiếu của mình, nhưng...", lại một lần nữa, giọng ông ta có chút nghẹn ngào, "... đáng nhẽ ra chúng tôi đã có thể kiếm được hàng ngàn đô nhờ tái phát hành. Và tất cả... tất cả các âm bản của Stella cũng đã cháy hết mất rồi!" Ông ta bắt đầu khóc, không buồn giấu giếm, khiến cho tôi ngạc nhiên quá đỗi. Giờ tôi mới biết dân làm phim còn có cái kiểu như thế này. "Đầu tiên kẻ kia giết cô ấy, và bây giờ... bây giờ hắn phá hủy bản ghi hình, thứ đáng nhẽ ra sẽ giúp cô ấy tiếp tục sống trong lòng những người yêu mến mình. Khốn..." giọng ông ta xìu xuống, chỉ còn là một tiếng thì thâm rất khẽ, đồng thời ông ta như ngã gục vào bức tường ám khói nóng rực, "... khốn kiếp!"

Anh đội trưởng đội cứu hỏa chịu trách nhiệm cạy cửa vào trong hầm chứa. Đầu tiên Wagnalls định mở khóa cánh cửa đằng xa, nhưng nhiệt độ đã khiến cho các lẫy khóa không còn hoạt động nữa. Thế là họ quay trở lại với lối vào hầm chứa âm bản. Lớp thép mỏng, vốn được thiết kế nhằm chống hỏa hoạn hơn là chống trộm, bị đục thủng và các con ốc của nó bị chọc rơi ra sau. Một đám mây khói độc tràn ra tiếp đón những người thợ, cầm chân họ, nhưng họ vẫn kiên trì. Cuối cùng cửa rơi ra đánh rầm một tiếng, và họ cắt cử người ra quạt không khí trong lành vào bên trong. Đồng thời, một thiết bị phun chất hóa học được cầm sẵn, đề phòng lại có thêm vụ cháy nào bùng lên.

Manton trấn tĩnh lại được vừa kịp thời để làm người đầu tiên bước vào trong hầm. Mackay lưu lại đằng sau, còn anh đội trưởng đội cứu hỏa, nhà quảng bá, Kennedy, và tôi thì chế tạm mấy chiếc mặt nạ phòng độc dã chiến từ những chiếc khăn tay ướt và can đảm lao vào bầu không khí nóng nực bên trong căn phòng.

Mức độ thiệt hại thật vô phương khắc phục. Phần khung thép của những chiếc kệ, khuôn kim loại rẻ tiền hơn của những chiếc hộp, tàn dư của phim cháy, tất cả cùng tạo thành một khối gớm ghiếc, không hình không dạng, bám dính vào các bên tường trong các góc và trên khắp sàn nhà. Chỉ duy nhất một phần trong căn phòng là còn lưu lại chút xíu tình trạng ban đầu của nó. Trông chiếc bàn nhỏ cùng mớ hộp chứa âm bản và phần cạnh của các kệ đỡ đặt ở hai bên vẫn còn hơi hơi nhận ra được hình dạng và công dụng hồi trước của chúng. Chỗ đồ này nằm ngay bên dưới miệng ống thông khí. Tại đây, nhờ hợp chất bơm vào để dập lửa, chúng đã được lưu giữ lại đến mức độ đó.

Bất thình lình Kennedy thúc anh đội trưởng đội cứu hỏa. "Tắt đèn pin đi!", anh sắc giọng ra lệnh.

Mặc dù mọi thứ đều đã bị bao phủ bởi một lớp bồ hóng, một quầng sáng xanh xanh đầy ma mị vẫn cứ chậm rãi xuất hiện rải rác trên các bức tường bên trong bóng tối.

Con mắt sắc sảo của Kennedy đã thoáng thấy vết tích của nó lúc ngọn đèn pin chiếu vào trong một góc phòng và soi đi chỗ khác một lúc.

"Radium!" Tôi thốt lên, hoàn toàn không chút nghĩ ngợi.

Kennedy cười phá lên. "Làm gì có chuyện đó! Nhưng chắc chắn nó là phospho."

"Anh nghĩ sao về thứ ấy?" Anh đội trưởng đội cứu hỏa tò mò hỏi.

"Ra ngoài thôi nào!" Kennedy đáp.

Quả thật là chúng tôi gần như không tài nào giữ cho mắt mình mở được bởi vì quá rát, và quan trọng hơn, cái mùi thật muốn phát mửa. Một người được giao phó cho nhiệm vụ đứng canh gác, và khi ra đến ngoài sân, không buồn để tâm đến đám đông hiếu kỳ vây quanh, Kennedy yêu cầu gọi Wagnalls đến và bắt đầu thẩm vấn anh ta.

"Anh đóng cửa các hầm chứa lúc nào?"

"Khoảng chừng hai tiếng trước khi xảy ra vụ hỏa hoạn. Ông Manton cho gọi tôi."

"Có bất cứ điều gì đáng ngờ tại thời điểm ấy không?"

"Không có đâu anh! Tôi đích thân đi kiểm tra từng phòng và đóng kín cửa lại. Đó là lý do vụ hỏa hoạn được giới hạn trong hầm chứa âm bản."

"Anh có biết tại sao cửa lại để mở lúc chúng tôi đi vào không?"

"Không, thưa anh! Tôi đã đóng chúng lại và thằng bé tôi cho ngồi canh trong lúc tôi qua quán McCann's nói không ai lai vãng đến gần cả. Nó...", Wagnalls lưỡng lự. "Đã có lần nó lăn ra ngủ lúc được tôi để cho ngồi đó. Có thể nó đã lại gà gật."

"Tại sao anh lại rời đi? Tại sao lại ra quán McCann's giữa giờ làm việc?"

"Chúng tôi đã phải làm việc cho đến sau nửa đêm hôm trước. Tôi phải mở hầm từ sớm, và thế là tôi tính mình sẽ ăn sáng vào khung giờ bình thường ít việc hàng sáng - khi chẳng có gì cần phải giải quyết cả."

"Tôi hiểu rồi!" Kennedy nhìn xuống dưới đất một lúc. "Anh có cho là có thể đã có ai đó để lại một kiện hàng trong hầm, hay nói cách khác là một quả bom không?"

Mắt Wagnalls mở lớn, nhưng anh ta lắc đầu. "Nếu mà có thì tôi đã phải phát hiện ra rồi, thưa anh! Dù đây chỉ là tự nhận, nhưng mà tôi ngăn nắp lắm. Thường chỉ cần một chiếc hộp bị chạm vào tôi sẽ để ý thấy ngày. Người ta hiếm khi qua mặt được tôi lắm."

"Rồi, thế thì đã có món đồ bình thường nào được mang đến cho anh để anh cất đi chưa? Thứ gì đó có khả năng được dùng để giấu chất nổ ấy?

Wagnalls lại lắc đầu. "Tôi chẳng cất gì đi hay cho ai lấy gì ra trừ khi được ông Manton viết giấy ra lệnh. Bất cứ thứ gì được cất vào cũng là âm bản và được cuộn lại, và tôi sắp xếp lại chúng bởi vì chúng được cất đi trong các hộp dẹt. Nếu có cuộn nào là hàng rởm thì chỉ cần một phút thôi là tôi sẽ biết ngay."

"Anh chắc chắn là chẳng có thứ gì đặc biệt..."

"Ôi lạy Chúa!" Wahnails ngắt lời. "Tôi quên béng mất!" Anh ta quay sang Manton. "Ông nhớ hộp đựng mớ phim chưa rửa không, cái cuộn sáu mươi mét ấy?" Anh ta quay sang phía Kennedy và giải thích. "Nếu phim âm bản mà chưa được rửa thì chúng tôi lưu trữ chúng trong các hộp dán băng dính. Bóc băng ra là nó sẽ hỏng ngay - do ánh sáng ấy mà. Ông Manton cho gửi hộp ấy xuống kèm theo lệnh như thường, bên trên có ghi rằng khoảng một tuần nữa sẽ có người nào đó đến theo dõi quá trình rửa nó. Tất nhiên tôi không mở hộp ra hay nhìn vào bên trong. Tôi đặt nó lên ngăn trên cùng của một kệ."

"Chuyện ấy diễn ra từ bao giờ?"

"Khoảng bốn ngày trước - ngày cô Lamar bị giết."

Mặt mũi Manton tái mét cả đi. "Tôi không cho gửi hộp nào xuống chỗ anh cả, Wagnalls," ông ta khăng khăng.

"Chữ viết đúng là của ông mà, thưa ông!"

Kennedy đứng dậy. "Với những lệnh như vậy thì anh xử lý ra sao, chẳng hạn như tờ lệnh anh bảo là được gửi xuống cùng với hộp âm bản chưa rửa ấy?"

"Đặt chúng vào trục quay trên chiếc bàn bên trong hầm chứa."

"Nhúng ướt khăn tay của mình và đi chỉ cho tôi xem đi."

Lúc họ quay trở lại Kennedy cầm theo chiếc trục quay, mớ giấy cháy đen vẫn còn ở nguyên vị trí. Đây là một trong những món đồ được bảo quản nhờ dòng hóa chất phun xuống từ miệng ống thông khí bên trên.

"Anh có thể chỉ ra nó là tờ nào không?" Kennedy hỏi.

"Để xem nào!" Wagnalls gãi đầu. "Bên dưới tờ trên cùng," một lát sau anh ta đáp. "Cái chết của cô Lamar làm đảo lộn tất cả mọi thứ. Sau nó thì chỉ có duy nhất một lệnh được gửi xuống."

Kennedy hết sức cẩn thận lấy dao của mình ra và nhấc mấy miếng vảy cháy thành tro của tờ lệnh đầu tiên lên. "Ai đó lấy cho tôi chút keo collodion đi!", anh thốt lên.

Wagnalls nhảy bật dậy và vội vã chạy đi.

Anh đội trưởng đội cứu hỏa rướn tới trước. "Anh Kennedy này, anh có nghĩ là chiếc hộp nhỏ anh ta nói cho anh nghe là thứ gây ra vụ hỏa hoạn không?"

"Tôi tin chắc là như vậy, mặc dù tôi sẽ không bao giờ có thể chứng minh được điều đó."

"Nó hoạt động theo cơ chế như thế nào?"

"À, tôi nghĩ là một cuộn phim nhỏ và rất khô đã được đặt vào trong một phần của hộp. Phim cực kỳ dễ cháy, đặc biệt khi chúng đã cũ và giòn. Cấu tạo của nó về cơ bản là bông thuốc súng, thế nên đây là một chất nổ hạng nặng. Tôi nhớ là trong cuộc chiến gần đây, phe Đức cứ lấy hết phim từ các quốc gia trung lập cho đến khi ta nhận ra chúng đang mưu mô gì, còn ở ngay tại quốc gia này thì phim vụn cũng có giá rất cao và được đưa thẳng vào chế tạo chất nổ. Sau đó thì tôi đoán là một lượng phospho ướt đã được bổ sung thêm để lấp đầy hộp, và rồi hộp được dán kín lại. Tất nhiên, lớp băng dính không chống thấm ẩm hoàn toàn. Độ ẩm bên trong hộp sẽ khiến cho nó mềm đi, có thể còn bong ra nữa. Trong một quãng thời gian tương đối ngắn, chỗ phospho sẽ khô đi và bùng cháy. Ngay lập tức cuộn phim bên trong hộp sẽ bắt lửa. Khi chuyện ấy xảy ra, nó nổ tung lên, tạo thành một vụ nổ nho nhỏ, nhưng vẫn đủ để phân tán phospho khắp mọi nơi. Vì kể cả có lắp hệ thống thông khí tối tân nhất thì khói cũng sẽ luôn hiện diện, thế nên bên trong bầu không khí ám đầy khói của hầm chứa, mớ phospho kia gây ra vụ nổ lớn đầu tiên, trở thành khởi nguồn cho tất cả những thiệt hại này đây."

Mackay đã đến nhập bọn với chúng tôi vừa kịp lúc để nghe lời giải thích. "Thật tài tình," anh ta lẩm bẩm. "Tài tình chẳng kém gì các phương pháp đã được sử dụng để sát hại cô gái và đạo diễn của cô ấy."

Wagnalls hổn hển quay trở về, mang theo keo collodion. Chúng tôi tò mò quan sát Kennedy đổ nó lên phần tàn tích đã cháy rụi thành than của tờ lệnh thứ hai trên chiếc trục quay. Thật khó có thể tin được rằng tàn dư của tấm giấy cháy đen ấy lại đủ sức hỗ trợ sức nặng của thứ chất lỏng kia, ấy nhưng Kennedy vẫn nhỏ keo rất cẩn thận. Thế rồi chậm rãi, chất keo collodion đông cứng lại trước mắt chúng tôi, tạo thành một lớp phủ cứng trong suốt, gắn kết các thớ sợi tí hon của miếng giấy lại với nhau. Đồng thời, chất keo collodion còn giúp cho các con chữ trên tờ lệnh lờ mờ hiện ra, bắt đầu đọc rõ được.

"Mẹo vặt ít người biết đấy!" Kennedy bảo với chúng tôi.

Sau đó anh giơ miếng giấy lên trước ánh sáng, và câu từ ghi trên đó trông rõ ràng hẳn. Những gì Wagnalls nói đều chính xác cả. Nội dung tờ lệnh của Manton không thể lẫn đi đâu được. Chiếc hộp phải được giữ trong hầm chứa âm bản suốt một tuần, không ai được mở ra, cho đến khi một người vô danh nào đó đến và giám sát quy trình rửa phim.

Nhà quảng bá liếm ướt môi, tỏ vẻ không thoải mái. "Tôi... tôi không hề viết tờ lệnh ấy! Đó... đó đúng là nét chữ của tôi rồi, và chữ ký cũng là của tôi nữa, nhưng nó là lệnh giả mạo!"