← Quay lại trang sách

BẢY

Có hai tin tức gần như tới cùng một lượt vào buổi tối trước khi bác sĩ đến thăm bệnh vài phút. Đầu tiên là một bức điện tín từ Alger: “Các bệnh viện đều không biết bác sĩ Rivaud - Thân. Martel.”

Maigret suýt làm bật tung vòng băng thì Leduc bước vào và không dám hỏi ông bạn đồng sự đọc cái gì mà giật mình như thế.

— Hãy đọc đi!

Ông ta liếc qua bức điện, lắc đầu thở dài:

— Tất nhiên rồi!

Cử chỉ của ông ngụ ý: “Tất nhiên là không thể chờ đợi cái gì đơn giản trong vụ này. Cứ mỗi bước tiến là lại gặp phải những cản trở mới. Cho nên theo tôi, ta cứ đi nghỉ chơi ở Ribaudière là khoẻ nhất.”

Bà Maigret đã bước ra ngoài. Mặc dầu trời đã chạng vạng, Maigret cũng không nghĩ đến việc bật đèn. Đèn lồng kính ngoài quảng trường đã thắp lên và Maigret lại cứ muốn nhìn cái dáng uốn lượn đều đặn của các dãy đèn. Ông biết rằng ngôi nhà thắp sáng lên đầu tiên là nhà thứ hai bên trái gara và ông đoán ra bóng hình của cô thợ may đang cúi xuống làm việc dưới ánh đèn.

Leduc càu nhàu:

— Cảnh sát họ cũng có tin mới đấy!

Ông có dáng lúng túng. Ông không muốn Maigret tưởng là ông tới để báo tin đó. Không biết chừng người ta lại bảo ông giấu các kết quả điều tra chính thức nữa cũng nên.

— Tin về Samuel phải không?

— Đúng đấy! Trước tiên là lý lịch của hắn được gửi tới. Sau đó, Lucas, người đã lo về hắn ngày xưa, gọi điện từ Paris đến để cho biết thêm chi tiết.

— Kể đi!

— Hắn ta gốc gác từ đâu thì không rõ lắm. Nhưng người ta có lý do để tin rằng hắn sinh ở Ba Lan hay Nam Tư gì đấy. Đây là một con người lầm lì, ít khi tự động nói chuyện làm ăn với người khác. Ở Alger, hắn có mở một văn phòng. Làm việc gì anh biết không?

— Chắc chắn là một nghiệp vụ bình thường chứ gì?

— Bán tem thư!

Maigret thấy khoái trá vì điều này phù hợp với con người trên tàu.

— Bán tem thư là để che giấu chuyện khác, đúng phóc như vậy! Chuyện ngon lành là cảnh sát đã không nghi ngờ gì hết cho đến khi có một vụ hai người bị giết. Đây là tôi lặp lại đại khái những lời Lucas nói trong điện thoại. Văn phòng này gần như là một loại xưởng to nhất chuyên sản xuất giấy thông hành giả và nhất là các khế ước lao động giả. Samuel có đường dây làm ăn ở Varsovie, Vilna, Silésie, Constantinople…

Bầu trời đêm lúc này một màu xanh thẫm. Các ngôi nhà màu trắng xà cừ nổi bật lên. Phía dưới kia là tiếng rì rầm quen thuộc của đám khách uống khai vị. Maigret nói từng tiếng:

— Lạ thật!

Nhưng chuyện ông thấy lạ không phải là nghề nghiệp của Samuel. Chuyện lạ là ở Bergerac lại thấy được những đường dây mối nhợ tận ngày xưa giữa Varsovie và Alger. Và nhất là từ một vụ án ở địa phương, một tội phạm tỉnh nhỏ lại rơi vào một bọn đạo tặc quốc tế!

Loại người như Samuel ở Paris và các nơi khác, Maigret đã từng gặp cả trăm và ông luôn luôn xem xét một cách tò mò, hơi khó chịu nhưng không bao giờ ghê tởm họ, như họ là một loại người khác với con người bình thường thôi. Những con người làm bồi rượu ở Scandinavie, gangsters ở Mỹ, chủ sòng bạc ở Hà Lan hay các nơi khác, quản lý khách sạn hay giám đốc nhà hát ở Đức, dân buôn ở Bắc Phi.

Thế là trước mặt cái quảng trường Bergerac bình yên một cách thật lý tưởng này, cả một thế giới được gợi lên, một thế giới kinh khiếp về sức mạnh của nó, vì số đông nhung nhúc, vì định mệnh bi đát của nó.

Miền Trung và Đông Âu, từ Budapest đến Odessa, từ Tallinn đến Belgrade đầy người là người.

Hàng trăm ngàn người Do Thái đói rách, mỗi năm túa ra tứ phía trên các tàu biển trong các hầm tàu chất đầy người xuất cư, những chuyến tàu hoả về đêm, trẻ con còn ẵm trên tay, ông già bà cả bị lôi xềnh xệch, những khuôn mặt nhẫn nhục, bi thảm diễu gần các cây cột biên giới.

Thành phố Chicago chứa dân Ba Lan còn nhiều hơn dân Mỹ. Nước Pháp thu hút hết đoàn tàu này đến đoàn tàu khác và các tay thư ký hội đồng xã ở vùng quê phải bắt đánh vần từng chữ những tên người dân đến khai sinh hay khai tử. Có những người ra đi chính thức, có giấy tờ đàng hoàng. Lại có những kẻ không đủ kiên nhẫn chờ đến lượt mình hay là không thể nào tìm ra tờ hộ chiếu.

Thế là các tay Samuel chen vào. Những tay Samuel thông thuộc làng nào đông dân muốn ra đi, nơi nào muốn chứa chấp, biết tất cả những nhà ga biên giới nằm ở chỗ nào, biết những con dấu của các toà lãnh sự, biết từng chữ ký của các viên chức. Những tay Samuel biết tới mười thứ tiếng và thổ ngữ. Và biết cách che giấu công việc làm ăn của mình dưới một hình thức dịch vụ phát triển và nếu có đầu mối quốc tế thì càng hay. Cho nên những con tem thư quả thật đã tìm đúng chỗ!

“Ông Lévy, Chicago.

Trên chuyến tàu biển sau, tôi gửi cho ông hai trăm con tem hiếm màu da cam của Tiệp Khắc.”

Và tất nhiên, Samuel như phần lớn người cùng ngành chỉ bận tâm tới con người thôi.

Trong những ngôi nhà đặc biệt ở Nam Mỹ, chính các cô gái Pháp là thứ thượng thẩm của mặt hàng này. Người đưa họ đi hoạt động ở Paris, ngay trên các đại lộ sang trọng. Nhưng phần đông trong đoàn người đó là những cô gái nông thôn tuổi từ mười lăm đến mười sáu được đưa sang đó và trở về năm hai mươi - hoặc cũng không bao giờ về nữa - sau khi đã lĩnh được một món tiền nhỏ.

Chuyện này là món ăn thường ngày của Quai des Orfèvres. Nhưng Maigret bỡ ngỡ là cái tay Samuel này vụt xen vào vụ Bergerac mà cho đến lúc này mới chỉ có ông biện lý Duhourceau, ông Leduc, ông chủ khách sạn. Một thế giới mới, một không khí thật khác biệt chen vào. Cả vụ án bỗng đổi cung bậc. Trước mặt Maigret là một ngôi hàng xén ông đã biết hết từng chai lọ. Phía xa hơn là trạm xăng của gara, trạm lập cho có lệ vì người ta quen dùng xăng đựng trong can!

Leduc kể lại:

— Đặt văn phòng ở Algérie là một ý kiến hay. Samuel còn có khách hàng quan trọng ở Ả Rập và cả những người da đen đến từ nội địa.

— Còn tội ác giết người của ông ta thì sao?

— Tới hai người lận! Hai người cùng chủng tộc với ông ta, ở Alger không ai biết họ, xác tìm thấy trong một mảnh đất hoang. Cả hai đều từ Berlin đến. Người ta điều tra và phăng ra manh mối là họ đã từng làm việc lâu năm với Samuel. Cuộc điều tra mất nhiều tháng nhưng không có bằng cớ kết tội. Samuel ngã bệnh, phải chuyển từ bệnh xá nhà giam ra bệnh viện... Người ta tìm ra thảm kịch gần gần như thế này: hai tay cộng tác từ Berlin đến để cự nự về việc tiền nong không sòng phẳng vì Samuel ranh ma chắc đã tóm hết của họ rồi. Từ đó có chuyện đe doạ. Và nhân vật của chúng ta liền khử họ. Ông ta bị kết án tử hình. Nhưng bản án không cần thi hành vì thủ phạm đã chết trong nhà thương vài ngày sau khi tuyên án. Tôi chỉ biết có vậy thôi!

Ông bác sĩ ngạc nhiên thấy hai người nói chuyện trong bóng tối nên với động tác thật gọn, ông bật đèn lên. Rồi ông đặt túi hành nghề lên bàn, chào vội một tiếng, cởi áo khoác ngoài ra, vặn vòi nước nóng ở lavabo.

Leduc đứng lên nói:

— Thôi tôi đi! Mai gặp lại.

Ông ta không muốn Rivaud bất chợt gặp ông trong phòng của Maigret. Ông là dân địa phương mà! Ông phải tìm cách dàn hoà hai phe mới có lợi, vì bây giờ đúng là đã có hai phe rồi.

— Ráng tĩnh dưỡng đi! Chào bác sĩ!

Ông bác sĩ đang xát xà phòng vào tay, trả lời bằng tiếng làu bàu không rõ.

— Nhiệt độ thế nào?

— Nhì nhằng thế thôi! - Maigret trả miếng.

Ông cảm thấy vui lên như lúc bắt đầu vụ án, như là có niềm hạnh phúc lớn lao khi thấy mình còn sống.

— Còn đau không?

— Ồ! Tôi bắt đầu quen rồi.

Vẫn là một loạt cử chỉ hàng ngày, ngày nào cũng thế lâu dần thành một thứ nghi lễ, hôm nay lặp lại lần nữa.

Trong lúc ấy khuôn mặt của Rivaud luôn luôn kề sát Maigret và ông chợt nhận xét:

— Vẻ Do Thái của bác sĩ không rõ lắm!

Không có tiếng trả lời, chỉ có hơi thở vẫn đều đều, hơi có tiếng rít của ông bác sĩ đang lần mò vết thương. Khi xong, băng quấn lại như cũ, ông ta nói:

— Bây giờ ông có thể chuyển đi được rồi.

— Ông muốn nói gì thế?

— Ông không bị nhốt trong phòng của khách sạn này nữa đâu. Có phải ông định đến nghỉ vài ngày nơi ông bạn Leduc không?

Một con người đầy tự chủ! Maigret quan sát ông ta ít ra là mười lăm phút nhưng ông ta vẫn tự nhiên làm việc, tay tiếp tục những cử động nghề nghiệp không run tí nào.

— Từ nay cứ hai ngày tôi mới đến thăm một lần. Mọi việc khác đã có người phụ tá làm. Ông cứ tin ở anh ta đi.

— Như tin ở ông à?

Có những lúc, mà thật là hiếm, Maigret không thể ngăn mình thốt ra một câu ngăn ngắn như thế với dáng khờ dại ăn người.

— Chào ông!

Thế là ông ta đi! Còn lại một mình Maigret với các nhân vật riêng ở trong đầu, thêm ông Samuel nổi danh ghép vào danh sách nhưng lại vụt đứng lên hàng đầu. Một ông Samuel cứ như là muốn để không còn gì đặc biệt hơn, nên chết đến hai lần. Chuyện thật khó thấy! Có phải ông ta là kẻ đã giết hai người phụ nữ, là kẻ kỳ quặc cầm kim không? Nếu như vậy thì có nhiều điều quái lạ, ít ra là hai điều.

Điều thứ nhất là ông ta chọn Bergerac làm nơi hành sự. Những loại người này thường chọn các thành phố đông dân để trà trộn dễ bề núp tránh. Thế là dù ở Bergerac, ở khắp quận, không ai trông thấy Samuel lần nào. Ông ta lại mang đôi giày đánh xi thì không thể là người sống chui rúc trong rừng như các nhân vật kẻ cướp trong tuồng hát được. Hay phải giả định rằng ông ta có chỗ trú đâu đó? Ở nhà ông bác sĩ? Nhà Duhourceau? Nhà Leduc? Hay ở khách sạn Anh quốc?

Hai là những vụ giết người ở Alger là những vụ có suy nghĩ, có tính toán, nhằm vào việc thủ tiêu những kẻ đồng loã nguy hiểm. Còn các vụ án ở Bergerac, trái lại là của một tay kỳ khôi, một kẻ bị dục tình ám ảnh hay của một tay thích hành hạ con người. Có phải trong khoảng thời gian xảy ra những vụ án mạng ngày trước với vụ án mạng sau này, Samuel đã bị điên rồi không? Hay vì một lý do tế nhị nào đó, ông ta thấy cần phải giả điên và câu chuyện cái kim chỉ là một thứ khói hoả mù?

— Nếu Duhourceau có ở Alger thì mới thật lạ đấy! - Maigret lẩm bẩm.

Bà vợ ông bước vào, dáng mệt mỏi. Bà ném chiếc mũ lên bàn, ngồi phịch xuống ghế, miệng thở ra:

— Anh chọn cái nghề gì lạ. Cứ nghĩ cả đời anh cứ loăng quăng như thế này thì...

— Có gì mới không em?

— Không có gì lạ. Em nghe thấy người ta nhận được thông báo về Samuel từ Paris gửi đến mà người ta giữ kín.

— Anh biết rồi.

— Leduc nói à? Anh ta mau mắn nhỉ. Ở địa phương này anh không thể có báo chí nào tốt hơn. Dân ở đây ai cũng lạc lõng hết. Có người còn cho rằng vụ Samuel không liên quan gì đến các vụ của người điên, đó chỉ là một người muốn vào rừng để tự sát và một ngày nào đó lại xảy ra một phụ nữ bị giết chết.

— Em có đi về phía biệt thự của Rivaud không?

— Có. Không thấy gì hết. Nhưng em biết một chuyện chắc chẳng quan trọng lắm. Hai hay ba lần gì đó, có một người đặc biệt tuổi sồn sồn, khá tầm thường, đi vào biệt thự, mà người ta cho rằng đó là bà nhạc của ông bác sĩ. Nhưng chẳng ai biết bà ta ở đâu, bây giờ còn sống không. Lần cuối bà ta đến cách đây hai năm.

— Em đưa ống điện thoại đây!

Maigret hỏi đồn Cảnh sát:

— Có phải ông thư ký không? Thôi không cần làm phiền ông sếp. Ông cho tôi biết tên thời con gái của bà Rivaud thôi. Chắc là ông không thấy bất tiện.

Một lúc sau, ông mỉm cười, tay che ống nói, bảo vợ:

— Họ đi tìm ông cảnh sát trưởng chỉ để hỏi có tiện cho anh tin không. Họ thật lúng túng. Chắc họ muốn từ chối. Alô!... Vâng tôi đây. Ông nói sao? Beausoleil à? Cảm ơn ông!

Sau khi gác ống điện thoại, ông nói:

— Tên thật đẹp. Bây giờ em phải mệt đây. Em lấy sách tra cứu của Bộ Giáo dục, lục ra tên tất cả các trường y khoa pháp. Em gọi điện thoại cho họ hỏi thăm xem mấy năm về trước có bác sĩ tốt nghiệp nào tên là Rivaud không?

— Anh nghĩ là ông ta không... Nhưng ông ta đã chữa cho anh mà.

— Em cứ làm đi.

— Anh muốn em gọi điện thoại ở cabine dưới kia không? Em thấy gọi trong phòng thì người ta nghe.

— Đúng đấy!

Rồi một lần nữa lại chỉ còn một mình ông, ông nhồi thuốc vào tẩu, đóng cửa sổ lại vì trời đã lạnh.

Ông không cần cố gắng vẽ lại trong trí hình ảnh biệt thự của người thầy thuốc, ngôi nhà tối sầm của ông biện lý. Một người như ông cứ muốn có cái khoái là đi hít thở mọi thứ khung cảnh riêng biệt.

Khung cảnh ngôi biệt thự chắc phải lạ lùng lắm. Một dáng hình đơn sơ, đường nét rạch ròi! Một ngôi nhà mà ai đi qua cũng phải ghen tỵ và nói với nhau: “Trong kia họ sống sung sướng làm sao!” Những căn phòng sáng sủa, rèm che choáng lộn, hoa ở trong vườn và tay nắm cửa bằng đồng lấp loáng. Xe hơi nổ máy nhè nhẹ trong gara. Một cô gái thon thả nhảy lên tay lái hay chính ông bác sĩ có dáng dấp thật đĩnh đạc.

Buổi tối cả ba phải nói với nhau những gì? Liệu bà Rivaud có biết về mối tình của cô em gái với ông chồng bà không? Bà không đẹp, bà biết điều đó! Bà không có vẻ gì là một người đang yêu mà trông giống như một người mẹ nhẫn nhục. Còn cô Françoise tràn đầy nhựa sống kia! Có phải chuyện của cô được giấu giếm không? Có phải là những nụ hôn chỉ được lén lút trao đổi sau cánh cửa không? Hay trái lại có một tình trạng chấp nhận một lần cho xong? Maigret đã từng thấy việc ấy ở nơi khác, trong một gia đình có vẻ nghèo hơn. Mà cũng lại là ở tỉnh nữa.

Chị em Beausoleil ở đâu mà ra? Câu chuyện cái bệnh viện ở Alger ấy có thực hay không? Dù sao thì bà Rivaud lúc ấy chắc cũng là con nhà bình dân. Điều đó thấy rõ qua những chi tiết vụn vặt, trong một vài cách nhìn, một vài cử chỉ, một tí gì đó trong tư thế đi đứng, trong cách ăn mặc.

Hai cô gái bình dân. Cô chị có dấu ấn nhiều hơn nên sau bao năm vẫn để lộ nguồn gốc. Cô em gái lại đã thích ứng hơn nhiều và khiến người ta phải lầm lạc. Họ có ghét nhau không? Họ có thủ thỉ tâm tình với nhau không? Hay là họ ghen tuông nhau?

Còn người mẹ Beausoleil đã hai lần đến Bergerac thì sao? Không hiểu tại sao Maigret lại vẽ ra hình ảnh một mụ phốp pháp sung sướng vì đã tìm chỗ yên phận cho hai người con gái, căn dặn họ phải chiều chuộng một nhân vật quan trọng và giàu có là ông bác sĩ. Thể nào ông ta cũng cho bà một số tiền nho nhỏ. Chắc rằng bà ta sống khấm khá ở Paris, quận mười ba hay có thể là Nice nữa.

Trong bữa ăn tối, họ có nhắc đến các vụ án không? Làm sao đến thăm bà ấy một lần, chỉ vài phút thôi. Đến để nhìn những bức tường, chén cốc, những đồ vật nhỏ bé rải rác khắp nhà, những thứ gợi nên thật rõ cuộc sống bên trong của một gia đình.

Đến nhà Duhourceau nữa! Bởi vì có dấu hiệu liên quan tuy có thể quá nhỏ, nhưng dù sao cũng có liên hệ!

Tất cả những người ấy họp thành một phe nhóm! Điều đó rõ quá đi rồi!

Bỗng nhiên, Maigret bấm chuông mời người chủ khách sạn lên. Rồi ông hỏi đột ngột:

— Ông Duhourceau có thường ăn tối ở nhà ông Rivaud không?

— Tối thứ tư nào cũng có. Tôi biết vì ông ta không muốn có xe riêng và đi xe taxi của người cháu tôi và...

— Cảm ơn ông!

— Chỉ có bấy nhiêu thôi à?

Ông chủ quán kinh ngạc bước ra ngoài. Còn Maigret thì lại đặt thêm một người khách nữa nơi chiếc bàn ăn trải khăn trắng tưởng tượng: Ông biện lý chắc là phải ngồi phía tay mặt của bà Rivaud. Ông bỗng nghĩ ra: Chính là vào bữa thứ tư, hay nói đúng hơn vào tối thứ tư rạng sáng thứ năm mình bị tấn công sau khi nhảy xuống tàu và Samuel bị bắn chết. Như vậy là họ ăn tối ở đằng đó. Maigret có cảm giác đã tiến một bước dài. Ông nhấc ống điện thoại lên:

— Alô! Tổng đài Bergerac đấy à? Cảnh sát đây cô ạ.

Ông nói hơi to vì sợ bị cự tuyệt.

— Xin cô cho biết hôm thứ tư tuần trước ông Rivaud có nhận điện gọi từ Paris đến không?

— Xin để tôi coi số đã.

Chưa đầy một phút cô trả lời:

— Lúc hai giờ chiều, ông ta nhận điện thoại từ văn khố 14- 67.

— Chỗ cô có danh sách những người thuê máy hàng năm ở Paris không?

— Có đấy! Ông chờ nhé!

Chắc là một cô gái đẹp! Mà vui tính nữa. Maigret nói chuyện với cô mà mỉm cười.

— Alô. Tôi tìm ra rồi. Đó là số điện thoại của quán Bốn Sĩ Quan ở Quảng trường Bastille.

— Chuyện trong ba phút à?

— Không! Ba đơn vị! Nghĩa là chín phút.

Chín phút! Lúc hai giờ! Mà ba giờ tàu chạy! Rồi buổi tối trong khi Maigret trăn trở trong toa xe nóng bức dưới ghế nằm của người đồng hành khổ sở vì mất ngủ thì ông biện lý ăn cơm nơi nhà Rivaud.

Maigret muốn điên lên vì nôn nóng. Suýt nữa thì ông nhảy ra khỏi giường rồi! Vì ông cảm thấy đã gần đến đích và không còn sai lạc nữa. Sự thật ở đâu đó, ngay trong tầm tay. Bây giờ chỉ còn là chuyện tiếp cận, giải thích các sự kiện mà ông đã biết. Nhưng chính lúc này mới là lúc người ta cắm cúi đi vào một hướng sai.

“Để xem. Họ ngồi vào bàn. Rosalie muốn nói xấu ông Duhourceau ở chỗ nào? Chắc là có sự nồng nhiệt không hợp với tuổi tác và chức vụ của ông ta. Nơi tỉnh lẻ, hành động sờ cằm một cô bé thế nào cũng bị coi là lão già mắc dịch. Có phải là Françoise không? Đây đúng là một mẫu đặc biệt để làm hâm nóng một ông luống tuổi. Vậy thì họ ngồi nơi bàn. Trên đoàn tàu, Samuel và mình. Samuel đang sợ. Vì đúng là ông ta đang sợ. Ông run rẩy. Ông thở khò khè.” Maigret đang bơi trong dòng suy nghĩ. Ông nghe phía dưới kia các cô phục vụ đang khua bát đũa.

“Có phải ông ta nhảy tàu vì tưởng rằng mình bị đuổi theo hay vì biết rằng có người đợi sẵn?” Ồ, đây là vấn đề cơ bản! Maigret biết thế. Ông đã chạm tới điểm quan trọng. Ông lặp lại nho nhỏ như là có ai sắp phải trả lời: “Vì thấy bị đuổi theo hay vì tin có người đợi sẵn... Thế mà cú điện thoại đó.”

Bà Maigret bước vào, xúc động đến nỗi không thấy sự sôi nổi của Maigret.

— Phải mời ngay thầy thuốc khác, thứ thiệt! Không thể tưởng tượng được! Thật là tội ác. Em cứ nghĩ...

Rồi bà nhìn ông như muốn thấy trên mặt ông những dấu hiệu lo ngại.

— Hắn không có bằng! Hắn không phải là bác sĩ... Danh sách làm gì có tên hắn. Bây giờ em mới hiểu vì sao cơn sốt cứ kéo dài và vết thương lâu lành miệng.

— Đây này! - Maigret reo lên. - Chính vì ông ta biết có người đợi sẵn.

Có tiếng chuông reo. Tiếng ông chủ nơi đầu dây:

— Ông Duhourceau hỏi xem có lên được không?