← Quay lại trang sách

Chương 7 Những chiếc xe hơi bị đánh cắp

Đêm đen kịt, mưa tạt vào mặt họ rào rào.

Nhà triệu phú rống lên lần nữa: “Jean! Firmin! Firmin! Jean!”

Màn đêm không đưa đến câu trả lời nào, chỉ có tiếng gào của Gournay-Martin cứ vọng đi vọng lại giữa dãy nhà phụ và dãy chuồng ngựa ở phía bên tay trái ngoài kia.

Ông ta ngoảnh nhìn Công tước, lo âu hỏi: “Bọn họ có thể đang làm gì?”

“Tôi không hình dung ra được. Tôi nghĩ chúng ta phải đi tìm kiếm bọn họ.”

“Cái gì? Giữa bóng tối mịt mù này, với lũ trộm đang lảng vảng xung quanh đây ư?” Nhà triệu phú hỏi, giật mình lùi lại.

“Nếu chúng ta không đi thì ai đi? Với lại, tay Lupin bất lương đang mỗi lúc một tiến đến gần hơn các bức tranh của ngài. Vậy hãy mau mau lên, đi nào!”

Công tước túm cánh tay nhà triệu phú đang dùng dằng chẳng muốn cất bước, kéo ông ta xuống các bậc thềm. Họ thẳng tiến đến chuồng ngựa. Ánh sáng le lói hắt ra từ nhà để xe hơi. Công tước bước vào trước, sững người lại.

“Ối giời!” Anh kêu lên.

Thay cho ba chiếc xe hơi vốn vẫn đậu trong nhà để xe, lúc bấy giờ còn duy nhất chiếc Mercrac một trăm mã lực. Nó là loại xe đua, chỉ có hai chỗ. Hai hình nhân đang ngồi đó, Jean và Firmin.

“Các anh ngồi ở đó làm gì? Đồ chó ăn không ngồi rồi!” Nhà triệu phú gào lên.

Chẳng ai đáp lời, cũng chẳng ai cựa quậy. Ánh đèn chập chờn phản chiếu trong hai cặp mắt giương lên nhìn chằm chằm vào ông chủ đang điên tiết.

“Chuyện quái quỷ gì vậy?” Công tước hỏi, rồi chộp lấy cây đèn đặt cạnh chiếc xe, giơ lên cho ánh sáng chiếu vào hai con người kia. Tới lúc ấy, chuyện xảy ra đã rõ ràng: Hai người bị trói y như hai con gà, mồm miệng bị nhét giẻ.

Công tước rút con dao nhíp ra khỏi túi áo khoác, mở lưỡi dao, vào xe, cắt đứt dây trói cho Firmin. Firmin ho khù khụ, khạc nhổ và buông câu chửi thề. Công tước tiếp tục giải phóng cho Jean.

“Chà.” Công tước nói, giọng mỉa mai cay độc. “Trò chơi mới gì đây? Hai người bày ra trò quái quỷ gì vậy?”

“Cha con nhà Charolais đấy… Đám Charolais đáng nguyền rủa!” Firmin làu bàu.

“Chúng tôi bị áp sát bất thình lình từ phía sau.” Jean nói.

“Chúng trói chúng tôi lại, nhét giẻ vào mồm chúng tôi… Đồ lợn!” Firmin tiếp tục.

“Và rồi… chúng lái hai chiếc xe đi.” Jean nói.

“Lái hai chiếc xe đi?” Nhà triệu phú kêu lên, sững sờ đờ đẫn.

Công tước phá ra cười ha ha.

“Chà, ông bạn Lupin thân mến của ngài chẳng thuộc hạng nửa vời đâu. Đây là chuyện khôi hài nhất tôi từng nghe nói.”

“Khôi hài!” Nhà triệu phú tru tréo. “Khôi hài! Khôi hài ở chỗ nào? Còn các bức tranh của tôi và chiếc vương miện thì sao?”

Công tước cười cho đã rồi lập tức biến đổi thành con người hành động.

“Chà, sự việc này có nghĩa là kế hoạch của chúng ta không thể thực hiện như ban đầu được.” Anh nói. “Tôi phải đi Paris bằng chiếc xe này.”

“Chiếc xe cũ kĩ tã tượi như thế. Anh không đời nào đi được đâu.”

“Ngài yên tâm. Dù gì thì tôi cũng phải làm việc đó. Tôi dám chắc là sẽ dễ dàng hơn ngài nghĩ. Suy cho cùng, chỉ hai trăm dặm thôi.” Công tước ngừng lời, rồi tiếp tục nói với giọng băn khoăn lo lắng: “Tuy nhiên, tôi không muốn để ngài và Germaine ở lại, nhỡ đâu đám ba que xỏ lá kia chỉ đưa những chiếc xe ra khỏi đây cốt cản trở việc ngài đi Paris. Bọn chúng sẽ đem bỏ những chiếc xe ở cánh ruộng nào đó và trở lại.”

“Anh dứt khoát không được bỏ chúng tôi lại đây. Cho một triệu franc tôi cũng chẳng ngủ lại tòa lâu đài đêm hôm nay. Lúc nào chả có tàu hỏa.”

“Tàu hỏa! Mười hai tiếng đồng hồ ngồi trên tàu, với tất cả những diễn biến vừa qua! Ngài không muốn nói rằng ngài thực sự sẽ đi Paris bằng tàu đấy chứ?”

“Tôi muốn nói vậy đấy.” Nhà triệu phú đáp lời. “Thôi, tôi phải đi bảo cho Germaine biết, chẳng còn thời gian mà lãng phí đâu.” Nói đoạn, ông ta cuống quýt trở lại lâu đài.

“Jean, thắp các đèn lên, và bảo đảm xăng đổ đầy bình nhé! Về phần động cơ xe, tôi đành chiều theo tính khí của nó và trông cậy ở may mắn. Dù gì thì tôi cũng sẽ đưa được nó tới Paris.” Công tước nói.

Anh trở lại lâu đài, Firmin theo sau.

Khi Công tước bước vào sảnh lớn, anh thấy Germaine và cha cô ta đang ra sức buộc tội nhau. Cô ta tuyên bố bất luận thế nào cũng không đi tàu, cha cô ta thì tuyên bố cô ta sẽ đi. Ông ta đè bẹp sự chống đối của cô con gái chỉ bằng giọng nói tuyệt diệu của mình.

Khi rốt cuộc chẳng ai nói gì nữa, Sonia khẽ khàng: “Nhưng liệu có tàu hỏa không? Cháu biết là có một chuyến lúc nửa đêm, nhưng trước đấy liệu có không?”

“Bảng giờ tàu, bảng giờ tàu đâu?” Nhà triệu phú hỏi.

“Này, tôi đã trông thấy một bảng giờ tàu ở chỗ nào nhỉ?” Công tước nói. “Ồ, tôi biết rồi, có một bảng giờ tàu trong ngăn kéo chiếc tủ phương Đông đằng kia.” Anh băng ngang qua sảnh, mở ngăn kéo lấy bảng giờ tàu, đưa cho Gournay-Martin.

Nhà triệu phú cầm bảng giờ tàu, hấp tấp lật giở các trang, ánh mắt lướt xuống phía dưới một trang, nói: “Có, ơn trời, có một chuyến. Có một chuyến lúc chín giờ kém mười lăm.”

“Nhưng như thế thì có gì là may mắn? Chúng ta xoay cách nào mà ra ga được?” Germaine nói.

Mọi người ngây ra nhìn nhau. Firmin, theo chân Công tước bước vào sảnh từ lúc nãy, nảy ra cách cứu nguy.

“Có chiếc xe ngựa chở hành lý.” Ông ta nói.

“Chiếc xe ngựa chở hành lý á?” Germaine kêu lên giọng khinh khỉnh.

“Chính thế!” Nhà triệu phú tán thành. “Ta sẽ tự mình đánh xe. Đi đi, Firmin, đi thắng ngựa đi!”

Firmin lộp cộp bước ra khỏi phòng.

Có lẽ đã đến lúc Công tước khởi hành, nên anh hỏi giờ, và vì đồng hồ của cha con Germaine vẫn khác nhau, lại phát sinh một cuộc đấu khẩu mà nếu Firmin có mặt, ông ta chắc chắn sẽ tham gia vào.

Công tước ngắt lời hai cha con: “Chà, tôi nghĩ là tôi không đợi mọi người xuất phát ra ga đâu. Từ đây ra ga không quá nửa tiếng đồng hồ. Xe chở hành lý lại nhẹ. Hai cha con không cần đi ngay. Còn tôi nên đi ngay sau khi xe sẵn sàng. Có vẻ tôi không thể trông cậy vào nó được.”

“Hẵng khoan.” Germaine nói. “Trên tàu có toa ăn không? Con không định chịu chết đói và cũng không định chịu mất giấc ngủ ban đêm đâu.”

“Đương nhiên không có toa ăn rồi.” Ông bố gắt gỏng. “Bây giờ chúng ta phải ăn cái gì đi, rồi đem theo cái gì đó.”

“Sonia, Irma, nhanh lên! Đến chỗ chạn đựng thức ăn xem có cái gì. Bảo bà vợ Firmin làm món trứng tráng. Nhanh lên!”

Sonia đi về phía cửa sảnh, Irma theo sau.

“Tạm biệt, chúc chuyến đi tốt đẹp, tiểu thư Sonia.” Công tước nói.

“Tạm biệt, chúc chuyến đi tốt đẹp, ngài Công tước.” Sonia đáp.

Công tước mở cửa cho cô. Vừa đi ra cô vừa hạ giọng nói với vẻ lo lắng: “Ôi, hãy… hãy thận trọng. Em không muốn nghĩ tới việc ngài phải vội vã đi Paris trong một đêm như thế này. Xin hãy thận trọng.”

“Tôi sẽ thận trọng.” Công tước nói.

Tiếng còi xe hơi báo cho Công tước biết Jean đã đánh xe tới trước cửa lâu đài. Anh đi xuôi theo căn phòng, đến hôn tay Germaine, bắt tay nhà triệu phú và tạm biệt họ rồi ra xe. Mọi người nghe thấy tiếng xe nổ máy. Tiếng ầm ầm nhỏ dần, nhỏ dần dọc theo con đường dài có hai hàng cây hai bên, sau đó bặt hẳn.

Gournay-Martin đứng dậy, bắt đầu đi tắt đèn. Vừa tắt đèn ông ta vừa liên tục ném ánh mắt sợ sệt về phía cửa sổ, như thể ông ta lo lắng rằng giờ đây Công tước đã rời khỏi lâu đài, những tên trộm sẽ nhảy xổ vào tấn công ông ta.

Có tiếng gõ cửa, và Jean xuất hiện trên ngưỡng cửa. “Ngài Công tước bảo tôi vào nhà hỗ trợ Firmin.”

Nhà triệu phú hướng dẫn Jean việc canh gác. Firmin – vì là cựu chiến binh – sẽ chốt ở vị trí nguy hiểm và gác khu vực sảnh, được trang bị súng. Jean gác hai phòng khách, ít có khả năng bị tấn công hơn. Gã cũng được trang bị súng. Nhà triệu phú dẫn gã vào phòng để súng, đưa cho gã một khẩu súng kèm một tá đạn. Khi hai người bọn họ quay lại sảnh, Sonia mời hai người bọn họ vào phòng ăn, và ở đó, giữa tiếng làu bàu không át đi được của Germaine vì phải ăn thức ăn nguội lúc tám giờ tối, mọi người thưởng thức một bữa tối vội vã nhưng tuyệt vời, vì người đầu bếp, trước khi đi, đã sửa soạn sẵn một bữa tối cầu kỳ với các thức ăn nguội.

Họ chuẩn bị kết thúc bữa ăn thì Jean bước vào, vai đeo lủng lẳng khẩu súng. Gã nói Firmin đã thắng ngựa cho chiếc xe chở hành lý, chiếc xe đang đợi ở cửa lâu đài.

“Bảo ông ta vào đây cho ta, còn anh hãy đứng canh ngựa, đợi mọi người ra.”

Firmin lộp cộp xuất hiện.

Nhà triệu phú nhìn ông ta chằm chằm vẻ uy nghiêm. “Firmin, ta trông cậy ở ông. Ta trao cho ông một vị trí nguy hiểm nhưng vinh dự, một vị trí được yêu thích đối với một cựu chiến binh nước Pháp.”

Firmin cố hết sức cho ra vẻ một cựu chiến binh nước Pháp. Ông ta ưỡn lưng, tạm thời che giấu được cái dáng lù đù do bao nhiêu năm nay chỉ khoác súng đi loanh quanh luẩn quẩn trong rừng. Ông ta cũng thiếu ánh mắt nảy lửa của một cựu chiến binh nước Pháp. Ánh mắt ông ta rất lờ đờ.

“Ta không muốn có chuyện gì xảy ra – mất trộm, đánh nhau hay bắn nhau.” Nhà triệu phú nói.

“Ông chủ, xin ông đừng sợ. Tôi đã chứng kiến cuộc chiến tranh năm 70.” Firmin đáp với vẻ can đảm, tỏ ra là mình có thể đối phó được tình hình.

“Tốt. Ta giao phó tòa lâu đài cho ông. Ta giao phó các tài sản của ta cho ông.” Gournay-Martin đứng dậy. “Thôi nào, chúng ta phải khởi hành ra ga.” Nói đoạn, ông ta dẫn đầu đi ra cửa.

Chiếc xe chở hành lý khá cao, họ phải lấy một chiếc ghế dựa từ sảnh để bắc cho các thiếu nữ trèo vào. Germaine không quên nêu ra ý kiến thật lòng về sự thuận lợi của chỗ ngồi làm bằng tấm ván gỗ kê ngang trong xe. Nhà triệu phú ì ạch leo lên phía trước, nắm lấy dây cương.

“Ta sẽ không bao giờ chỉ kỳ vọng ở xe hơi nữa. Sau khi đã đảm bảo rằng các bộ sưu tập của ta được an toàn, việc đầu tiên ta làm là sắm mấy cỗ xe ngựa, loại nào đó rộng rãi.” Gournay-Martin ủ rũ nói, nhận ra chỗ ngồi của mình rất thiếu thoải mái.

Ông ta quay sang Jean và Firmin đang đứng ở bậc thềm tiễn chủ. “Hỡi các con trai của nước Pháp, hãy dũng cảm, hãy dũng cảm!”

Chiếc xe xóc nảy lên, lao vào màn đêm đen kịt, ướt át.

Jean và Firmin dõi theo nó mất hút vào đêm đen. Rồi bọn họ trở vào lâu đài, đóng cửa lại.

Firmin nhìn Jean, ủ rũ nói: “Tôi không thích thế này. Bọn trộm không bao giờ từ việc gì. Bọn chúng trông thấy người ta là cắt cổ người ta ngay.”

“Tình cảnh chẳng thay đổi được. Với lại, ông chốt ở vị trí trọng yếu. Ông gác khu vực sảnh. Tôi gác các phòng khách. Ít có khả năng bọn chúng đột nhập qua phòng khách. Tôi sẽ khóa cửa giữa phòng khách và sảnh.”

“Không, không, anh không được khóa cái cửa đó.” Firmin kêu lên.

“Nhưng tôi chắc chắn sẽ khóa. Ông nên đi lấy súng đi.”

Hai người đi sang phòng để súng, Firmin vẫn tiếp tục phản đối việc khóa cánh cửa giữa phòng khách và sảnh. Ông ta lựa một khẩu súng rồi hai người đi sang bếp. Jean lấy hai chai rượu vang, một chiếc bánh nướng trông rất béo bổ và một món bánh ngọt tráng miệng, đem vào phòng khách. Gã quay sang sảnh, lấy một ôm báo và tạp chí, cũng đem vào phòng khách. Firmin lẽo đẽo đi theo gã như con chó con, với bước chân hơi nặng nề.

Jean dừng lại tại ngưỡng cửa phòng khách, nói: “Nguyên tắc quan trọng đối với đám đào tường khoét ngạch là bắn trước, nhớ nhé cố nội. Tạm biệt. Chúc giấc mộng lành.”

Jean đóng cửa, xoay chìa khóa. Firmin dán ánh mắt trống rỗng vào những tấm ván cửa được trang trí. Vẻ đẹp của các họa tiết trang trí lúc bấy giờ không khiến ông ta lay động gì.

Ông ta sợ sệt nhìn xung quanh khu vực sảnh không bóng người và các cửa sổ tối thẫm trong đêm. Giữa tiếng mưa rơi rào rào, ông ta nghe thấy tiếng bước chân rõ mồn một. Ông ta lộp cộp, hấp tấp đi dọc theo sảnh, rồi đi xuôi theo hành lang dẫn vào bếp.

Vợ ông ta đang dọn bữa tối cho ông ta.

“Ôi trời! Tôi chưa bao giờ thấy hãi hùng đến mức này kể từ năm 70.” Ông ta lau cái trán óng ánh mồ hôi bằng một chiếc khăn lau bát đĩa. Đó không phải một chiếc khăn lau sạch, nhưng ông ta không bận tâm.

“Sợ? Sợ cái gì?”

“Kẻ trộm! Cắt cổ!”

Ông ta nói với vợ về nỗi lo sợ của Gournay-Martin, về vị trí canh gác vinh dự và nguy hiểm của chính ông ta trong lâu đài.

“Chúa che chở cho chúng con!” Vợ ông ta thốt lên. “Ông hãy khóa cái sảnh khủng khiếp ấy lại và vào bếp. Trộm không bao giờ mò vào bếp đâu.”

“Nhưng còn tài sản của ông chủ!” Firmin không đồng tình. “Ông ấy giao phó chúng cho tôi. Ông ấy nói rõ ràng như thế.”

“Hãy mặc cho ông chủ tự trông coi tài sản của ông ấy.” Firmin phu nhân quả quyết đáp. “Ông chỉ có độc một cái cổ, và tôi không định để kẻ nào lia dao qua nó. Ông hãy ngồi xuống ăn bữa tối. Tuy nhiên, ông hãy đi khóa cái cửa kia trước.”

Firmin khóa cửa vào sảnh và cửa vào bếp rồi ngồi xuống, bắt đầu ăn bữa tối. Ông ta ăn ngon lành, nhưng niềm thích thú đối với bữa ăn có bị ảnh hưởng một chút. Chốc chốc, bàn tay cầm nĩa đang đưa thức ăn từ đĩa lên mồm ngừng lại giữa chừng, ông ta căng hai tai ra nghe xem có tiếng trộm đột nhập qua cửa sổ vào sảnh không. Ông ta ở cách các cửa sổ đó quá xa, không thể nghe được gì, nhưng ông ta vẫn chẳng tài nào ngăn bản thân mình căng hai tai ra. Firmin phu nhân ăn bữa tối với vẻ hoàn toàn thoải mái. Bà ta chắc chắn rằng trộm không bao giờ mò vào bếp.

Cảm giác hãi hùng khiến Firmin khát kinh khủng. Hết cốc rượu vang này tới cốc rượu vang khác trôi tuột xuống cái cổ họng mà ông ta đang lo sợ giữ gìn. Khi đã ăn xong bữa tối, ông ta tiếp tục thỏa mãn cơn khát. Bà vợ châm một tẩu thuốc lá cho ông ta rồi sang phòng gần đấy rửa bát đĩa. Khi quay lại, bà ta ngồi xuống phía bên kia lò sưởi, đối diện với đức ông chồng. Uống hết nửa chai vang thứ ba, Firmin đột ngột phục hồi được dũng khí. Ông ta bắt đầu nói với vẻ kiên quyết về nghĩa vụ của mình đối với ông chủ, về quyết tâm hy sinh, trong trường hợp cần thiết, vì lợi ích của ông chủ, và vì sự coi thường tuyệt đối những tên trộm – hẳn là dân Paris. Nhưng ông ta không đi sang sảnh. Chắc chắn rằng cái ấm áp dễ chịu của lửa nhà bếp đã giữ rịt ông ta trên chiếc ghế dựa.

Firmin miêu tả cho vợ, với chút dữ tợn, cái cách ác độc mà ông ta sẽ dùng để xử ba tên trộm đầu tiên mà vào sảnh. Ông ta đang miêu tả cách đối đãi với tên thứ tư thì có tiếng đập ầm ầm ở cửa trước lâu đài.

Firmin im bặt, đờ người như hóa đá, mồm há ra vì lời nói đang dang dở. Bà vợ cuống cuồng chạy tới khóa cánh cửa mà bà ta chưa khóa lại sau khi từ ngoài phòng rửa bát vào. Bà ta quay lại, hai vợ chồng chằm chằm nhìn nhau.

Tiếng đập cửa vang lên lần nữa, rồi lần nữa, rồi lại lần nữa. Xen giữa những tiếng đập cửa là tiếng gì nghe giống tiếng sư tử gầm. Hai vợ chồng chằm chằm nhìn nhau, mặt cắt không ra hạt máu. Firmin cầm khẩu súng lên bằng bàn tay run rẩy, và hành động ấy xem chừng khiến hai hàm rằng ông ta va vào nhau. Chúng kêu lanh canh như tiếng catanhet⦾.

Tiếng gõ cửa và cả tiếng gầm vẫn tiếp tục.

Tình hình ấy kéo dài ít nhất năm phút, rồi một tia nhận thức từ từ khiến nét mặt bà Firmin sáng lên.

“Tôi chắc chắn đó là giọng ông chủ.”

“Giọng ông chủ!” Firmin thì thào, giọng khàn khàn hoảng sợ.

“Phải.” Bà Firmin nói. Rồi bà ta mở khóa cánh cửa dày, hé ra một chút.

Chẳng còn cánh cửa chặn lại, tiếng gầm quen thuộc của nhà triệu phú dội vào tai họ rõ rành rành. Dũng khí trong Firmin dâng lên cuồn cuộn. Ông ta lộp cộp băng ngang qua căn phòng, gạt bà vợ sang bên, lóc cóc chạy về phía cửa lâu đài. Ông ta mở khóa, kéo then, đẩy mở toang cánh cửa. Đứng trên bậc thềm là nhà triệu phú, Germaine và Sonia. Irma đứng phía trước đầu ngựa.

“Các người làm cái quái quỷ gì vậy?” Nhà triệu phú rống lên. “Tại sao các người lại bắt ta đứng dưới mưa hả? Tại sao không cho ta vào?”

“K-k-kẻ trộm… Tôi cứ nghĩ là k-k-kẻ trộm.” Firmin lắp bắp.

“Kẻ trộm!” Nhà triệu phú tru tréo. “Giọng ta nghe giống kẻ trộm lắm à?”

Lúc bấy giờ, giọng ông ta nghe không giống như giọng của kẻ trộm, mà nghe hung dữ như giọng của quỷ Satan. Ông ta đi sầm sập qua Firmin về phía cửa sảnh.

“Đây! Khóa cái này làm gì?” Gournay-Martin gào lên.

“Tôi… tôi… khóa nó lại phòng trường hợp bọn trộm ập vào khi tôi đang để mở cửa trước.” Firmin lắp bắp.

Nhà triệu phú xoay chìa khóa, mở cửa bước vào sảnh. Germaine theo sau. Cô ta quáng quàng cởi chiếc áo khoác đang nhỏ nước tong tỏng ra, bực bội nói: “Con chẳng tưởng tượng được tại sao ba không xem cho chắc chắn là có chuyến tàu vào lúc chín giờ kém mười lăm hay không. Con sẽ không đi Paris đêm hôm nay. Sống chết gì con cũng không đi chuyến tàu vào lúc nửa đêm đó!”

“Vớ vẩn!” Nhà triệu phú nói. “Vớ vẩn! Con bắt buộc phải đi! Cái bảng giờ tàu trời đánh thánh vật đâu?” Ông ta bổ nháo bổ nhào tới chiếc bàn mà ông ta đã ném bảng giờ tàu lên lúc trước, vồ lấy, nhìn trang bên ngoài. “Sao, mẹ kiếp! Đây là bảng giờ tàu của tháng Sáu… tháng Sáu năm 1903!”

“Ôi!” Germaine kêu lên, gần như là hét lên. “Thật không tưởng tượng nổi! Lại một trò đùa của Jacques!”

Chú thích;

← Một loại nhạc cụ của người Tây Ban Nha.