← Quay lại trang sách

Chương 10 Guerchard góp sức

Để một viên cảnh sát gác cửa phòng khách, Formery, Công tước và viên thanh tra bắt đầu đi khám xét một lượt. Công việc mất nhiều thời gian, vì Formery khám xét từng phòng một cách cực kỳ kĩ lưỡng, thực tế là kĩ lưỡng hơn cả lúc ông ta khám xét hai phòng khách. Ông ta đặc biệt nấn ná ở phòng ngủ của Victoire, bàn về việc liệu bà ta có thể đã bị sát hại hay có thể đã bị bọn trộm đưa đi cùng với những chiến lợi phẩm. Ông ta xem chừng thất vọng – nếu có thể nói như thế – vì không tìm thấy vết máu nào, nhưng lại cảm thấy thực sự được động viên với ý nghĩ rằng bà ta có thể đã bị bóp cổ. Nhận thấy viên thanh tra hoàn toàn tán thành mọi giả thiết mình nêu ra, ông ta càng lúc càng sẵn lòng coi viên thanh tra như một sĩ quan hăng hái và đáng tin cậy. Ông ta cũng chẳng phiền gì khi tận dụng cơ hội gây ấn tượng với Công tước về năng lực phân tích, tổng hợp tình hình của mình. Ông ta không biết rằng thường thì ánh mắt Công tước không có những tia lấp lánh như trong lúc anh đang tham gia cuộc khám xét đầy thận trọng và trang nghiêm này. Dáng vẻ Formery mới giống chó săn làm sao, nhưng ông ta thậm chí còn ồn ã hơn một con chó săn nhiều.

Sau khi khám xét kĩ lưỡng ngôi nhà, Formery bắt đầu khám xét khu vườn. Trên bề mặt lớp đất xung quanh chỗ dựng thang có các dấu chân, vì cỏ được cắt sát và nước mưa ngấm xuống làm mềm đất. Nhưng có ít dấu chân hơn ông ta tưởng, điều này cho thấy những tên trộm hẳn đã đi đi lại lại nhiều lần để chuyển những món đồ nghệ thuật ra khỏi hai phòng khách, một số món đồ rất nặng. Các dấu chân dẫn đến một lối đi rải sỏi cứng. Formery đi xuôi theo đó, qua cái cửa trổ trên bức tường phía cuối vườn, bước ra khoảng đất có ngôi nhà đang xây.

Đúng như Formery tiên đoán, có một – hay nói chính xác hơn – có một vài đống vữa dưới chân giàn giáo. Không may thay, có đến hàng trăm dấu chân. Formery nhìn chúng bằng ánh mắt đầy khao khát, nhưng ông ta không đề nghị viên thanh tra tìm kiếm xem dấu chân nào cùng kích thước với dấu chân đã được đo cẩn thận trên tấm thảm phòng khách.

Trong lúc họ đang nghiên cứu xung quanh ngôi nhà đang xây, một người đàn ông từ tầng ba ngôi nhà của Gournay-Martin nhanh nhẹn bước xuống cầu thang. Đó là một người đàn ông trông bình thường, thậm chí tầm thường, chừng bốn mươi tới năm mươi tuổi, khá cao. Ông ta có một cái miệng bình thường, khó xác định được hình dạng, một cái mũi bình thường, một cái cằm bình thường, một cái trán bình thường, hơi thấp, và một đôi tai bình thường. Ông ta đội chiếc mũ chóp cao, chắc chắn chẳng còn mới nữa. Trang phục của ông ta là loại trang phục bình thường của một người khá giả, đôi ủng được lựa chọn cốt để đi lại thoải mái hơn là để thể hiện vẻ đẹp đôi bàn chân. Duy có ánh mắt khiến khuôn mặt ông ta trông không tầm thường. Đó là ánh mắt đặc biệt lanh lợi, người nào bị ánh mắt ấy chiếu tới sẽ có cái ấn tượng hơi khó chịu rằng chiều sâu tâm hồn của họ đang bị soi thấu. Ông ta là Chánh Thanh tra Guerchard nổi tiếng, phụ trách Ban Thám tử của văn phòng Cảnh sát Quận, kẻ thù thề không đội trời chung với Arsène Lupin.

Viên cảnh sát gác cửa phòng khách vội vã chào ông ta. Đó là một anh chàng trẻ tuổi, đẹp mã, dáng dấp thẳng thớm, bộ mặt đỏ được tô điểm bằng hàng ria mép đen rậm rì đặc biệt hung tợn.

“Thưa ông Guerchard, tôi có cần đi thông báo với ông Formery là ông đã đến không ạ?” Anh ta hỏi.

“Không, không, không cần phiền thế.” Guerchard nói nhẹ nhàng bằng giọng hơi khàn. “Đừng làm phiền đến ai vì tôi. Tôi không quan trọng gì.”

“Ôi, thôi nào, ông Guerchard.” Viên cảnh sát không đồng tình.

“Không quan trọng gì.” Guerchard nói dứt khoát. “Hiện tại, ông Formery là quan trọng bậc nhất. Tôi chỉ là người phụ tá thôi.”

Ông ta bước vào phòng khách, đứng nhìn quanh quất, vẫn vẻ tò mò hiếu kỳ. Gần như toàn bộ con người ông ta được tập trung vào hoạt động quan sát, gần như tất cả các chức năng khác của tinh thần và sức lực đều đang ngưng trệ.

“Ông Formery và ông thanh tra vừa lên khám xét phòng bà quản gia. Nó ở tầng ba, tầng trên cùng của ngôi nhà. Ông hãy đi theo lối cầu thang dành cho người hầu ạ. Căn phòng nằm ngay cuối dãy hành lang bên tay trái. Thưa ông, ông có cần tôi đưa lên không?” Viên cảnh sát hăm hở hỏi. Anh ta rất nhiệt tình trong công việc.

“Cảm ơn, tôi biết chỗ rồi, tôi vừa từ đó xuống.” Guerchard nói nhẹ nhàng.

Một nụ cười đầy ngưỡng mộ làm cái miệng rộng của viên cảnh sát ngoác ra, để lộ hàm răng trắng bóng.

“A, ông Guerchard!” Anh ta tán dương. “Ông tài tình hơn tất cả các thẩm phán điều tra ở Paris cộng lại.”

“Anh không nên nói thế, anh bạn. Đương nhiên tôi chẳng cản được anh nghĩ thế, nhưng anh không nên nói ra.” Giọng Guerchard khàn khàn, nhẹ nhàng, và nụ cười hết sức mơ hồ hiện nơi khóe miệng ông ta.

Ông ta thong thả bước tới cửa sổ, viên cảnh sát bước theo.

“Thưa ông, ông có chú ý đến điểm này không ạ?” Viên cảnh sát nắm lấy đầu chiếc thang bằng bàn tay to khỏe. “Chắc những tên trộm đã leo vào và leo ra bằng chiếc thang này.”

“Cảm ơn anh.”

“Bọn chúng bỏ cả chiếc bàn chơi bài này trên bậu cửa sổ.” Viên cảnh sát đập đập bàn tay to khỏe còn lại vào chiếc bàn.

“Cảm ơn anh, cảm ơn anh.”

“Họ hoàn toàn không nghĩ Lupin đã tiến hành vụ trộm. Họ nghĩ bức thư thông báo của Lupin và những chữ ký trên tường ở đây chỉ là trò bịp bợm.”

“Thế à?”

“Thưa ông, tôi có thể giúp gì cho ông ạ?”

“Có đấy.” Guerchard đưa ra yêu cầu. “Hãy gác ngoài cửa và khi chưa hỏi ý kiến tôi thì không được cho ai vào, trừ ông Formery, ông thanh tra, Bonavent và Dieuzy.” Ông ta chỉ tay về phía cửa phòng khách.

“Tôi có cho Công tước Charmerace vào không? Ông ấy đang vô cùng quan tâm đến vụ việc này.” Viên cảnh sát hỏi.

“Công tước Charmerace? Ồ, được, có thể để Công tước Charmerace vào.” Guerchard nói.

Viên cảnh sát đi thực hiện nhiệm vụ của mình, đầy kiêu hãnh.

Cánh cửa gần như chưa kịp đóng lại sau lưng anh ta thì Guerchard đã bắt tay vào hành động, vừa hành động vừa quan sát. Ông ta xem xét chiếc thang, những khoảng trống từng treo tranh trên các bức tường, các chữ ký của Arsène Lupin. Việc tiếp theo ông ta làm là nhặt lên cuốn sách mà Công tước đã đặt lại bên trên dấu chân để giữ cho nó khỏi bị suy suyển. Ông ta đo bằng bước chân khoảng cách từ dấu chân tới cửa sổ.

Kết quả xem chừng khiến Guerchard không hài lòng, vì ông ta cau mày, đo lại khoảng cách ấy, rồi nhìn đăm đăm qua cửa sổ, vẻ bối rối, nghĩ ngợi rất lung. Điều kỳ lạ là khi ông ta tập trung suy luận, cặp mắt ông ta mất đi ánh sắc sảo, trở nên hơi mờ mờ.

Cuối cùng, dường như ông ta đã đi đến kết luận. Ông ta rời khỏi cửa sổ, rút từ túi áo khoác ra chiếc kính lúp, lồm cồm bò và bắt đầu xem xét mặt thảm với sự tỉ mỉ cao độ.

Guerchard xem xét khoảng thảm rộng chừng nửa mét vuông rồi ngừng lại, quan sát khắp phòng. Ánh mắt ông ta dừng ở chiếc lò sưởi lộ ra phía dưới tấm thảm thêu lớn. Tấm thảm căng trên khung có chân cao ba mươi centimet, gắn những chiếc bánh xe to tướng. Ánh mắt đầy thích thú, chẳng thèm đứng dậy, ông ta thoăn thoắt bò từ bên này sang bên kia căn phòng, nhìn một lượt phía dưới mép tấm thảm, sau đó đứng dậy, mỉm cười.

Guerchard vào phòng khách bên trong, tiếp tục khám xét với sự thận trọng như thế và lại kiểm tra bề mặt thảm bằng chiếc kính lúp. Ông ta quay lại ô cửa sổ được dựng thang, xem xét kĩ lưỡng cánh chớp bị gãy. Ông ta khe khẽ huýt sáo, châm điếu thuốc lá và đứng dựa vào thành cửa sổ. Ông ta nhìn ra bên ngoài, ánh mắt mờ mờ không trông thấy gì cả, đây là lúc trí óc ông ta đang xử lý những chi tiết mà bản thân vừa mới phát hiện được.

Guerchard đứng đó, trầm ngâm suy tư có lẽ là mười phút, rồi những tiếng nói và tiếng bước chân vang lên ngoài cầu thang. Ông ta bừng tỉnh khỏi cơn suy tư, tai xem chừng vểnh lên, rồi vắt một chân qua gờ cửa sổ, ông ta trèo theo thang, biến mất xuống bên dưới.

Cánh cửa mở ra, Formery, Công tước và viên thanh tra bước vào. Formery nhìn khắp xung quanh phòng, ánh mắt dường như nghĩ sẽ bắt gặp một hình ảnh quen thuộc, rồi đi sang phòng khách thứ hai, lại nhìn xung quanh. Ông ta quay qua viên cảnh sát, nói gay gắt: “Ông Guerchard có đây đâu.”

“Tôi để ông ấy ở đây mà.” Viên cảnh sát phân bua. “Ông ấy ắt đã biến mất rồi. Ông ấy phi thường quá!”

“Tất nhiên. Ông ấy đã trèo theo thang xuống, đi xem xét ngôi nhà đang xây. Ông ấy chỉ đang đi lại con đường chúng tôi vừa đi và làm lại những gì chúng tôi đã làm rồi. Ông ấy đáng lẽ chẳng cần nhọc sức thế. Chúng tôi có thể cung cấp tất cả các thông tin ông ấy muốn biết. Nhưng đó! Ông ấy rất có thể sẽ chưa hài lòng chừng nào chưa chứng kiến tận mắt mọi việc.”

“Có thể ông ấy sẽ phát hiện được điều gì đó mà chúng ta bỏ sót.” Công tước nói.

Formery cau mày, giọng gay gắt: “Khó có thể thế. Tôi không nghĩ ngài ý thức được sự luyện tập thường xuyên có tác dụng ra sao đối với năng lực quan sát của người ta. Tôi và ông thanh tra sẽ vui vẻ nhằn những gì mà chúng tôi bỏ sót, đúng không, ông thanh tra?” Ông ta tự cười ha ha trước câu bông đùa của mình.

“Nó luôn luôn có thể là một miếng lớn đấy.” Công tước nở nụ cười châm biếm, mỉa mai.

Formery lại khoác dáng vẻ trầm ngâm sâu sắc, đi tới đi lui vài bước, cau mày, nói: “Tôi càng suy nghĩ thì càng thấy rõ ràng rằng chúng ta đã bác bỏ được cái giả thiết về Lupin. Đây là những tên trộm kém lão luyện hơn Lupin nhiều. Ông nghĩ thế nào hả ông thanh tra?”

“Vâng, thưa ông, tôi nghĩ ông đã bác bỏ được cái giả thiết đó.” Viên thanh tra lập tức tán thành.

“Tuy nhiên, tôi cũng cá là để ông Guerchard hài lòng thì chúng ta chưa bác bỏ được đâu.”

“Vậy ông ấy ắt phải thuộc loại khó thuyết phục.” Công tước phát biểu.

“Ồ, đối với mọi vấn đề khác, ông ấy sẵn sàng nghe theo tư duy logic.” Formery giải thích. “Nhưng Lupin là ý tưởng bất di bất dịch của ông ấy, đó là một nỗi ám ảnh, gần như là một chứng cuồng.”

“Tuy nhiên ông ấy chưa bao giờ tóm cổ được hắn.” Công tước nói.

“Chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ. Chính nỗi ám ảnh về Lupin cản đường ông ấy. Nó bóp chặt trí óc ông ấy và không để trí óc ông ấy làm việc.” Formery bình luận.

Ông ta tiếp tục đi tới đi lui, chìm đắm trong suy nghĩ, rồi lại dừng lại, nói: “Nhưng cân nhắc mọi chi tiết, đặc biệt việc không có dấu vết bạo lực, cộng thêm việc bà quản gia biến mất hoàn toàn, tôi đã đi tới kết luận khác. Victoire là chìa khóa giải đáp bí ẩn. Bà ta là kẻ đồng lõa. Bà ta đã không hề ngủ trên giường mình. Bà ta để giường lộn xộn nhằm khiến chúng ta lạc hướng. Dù gì thì điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã đạt được một kết quả, chúng ta đã phát hiện được kẻ đồng lõa. Ít nhất chúng ta cũng có tin tức tốt này để báo cáo với ông Gournay-Martin khi ông ấy tới.”

“Ông thực sự nghĩ bà ta là kẻ đồng lõa ư?” Công tước hỏi.

“Tôi hoàn toàn chắc chắn như thế.” Formery nói. “Chúng ta sẽ đi lên phòng bà ta và khám xét cẩn thận thêm lần nữa.”

Đầu Guerchard nhô lên bên trên bậu cửa sổ.

“Formery thân mến của tôi.” Ông ta nói. “Xin ông không phải nhọc công.”

Formery há hốc mồm. “Hả? Ông Guerchard?” Ông ta lắp bắp.

“Chính tôi.” Guerchard nói. Ông ta leo lên đến gióng thang trên cùng, nhẹ nhàng trườn vào phòng qua bậu cửa sổ.

Ông ta bắt tay Formery và gật đầu chào viên thanh tra. Rồi ông ta nhìn Công tước, thái độ dò hỏi.

“Để tôi giới thiệu.” Formery nói. “Đây là Chánh Thanh tra Guerchard, phụ trách Ban Thám tử, còn đây là Công tước Charmerace.”

Công tước bắt tay Guerchard. “Hân hạnh được biết ông, ông Guerchard. Tôi đã hết sức chờ đợi sự hiện diện của ông. Thực ra, tôi là người đã năn nỉ các lãnh đạo của văn phòng Cảnh sát Quận trao vụ việc này vào tay ông. Tôi đã một mực yêu cầu điều đó.”

“Ông vừa làm gì trên thang?” Formery hỏi, chẳng để Guerchard kịp đáp lời Công tước.

“Tôi lắng nghe.” Guerchard nói đơn giản. “Lắng nghe. Khi tôi đang giải quyết một vụ án, tôi thích lắng nghe các cuộc chuyện trò. Nó là một lối tiêu khiển, và nó có ích. Formery thân mến của tôi, tôi phải chúc mừng ông về cái cách đáng ngưỡng mộ ông đã áp dụng để thực hiện cuộc điều tra này.”

Formery cúi người, nhìn Guerchard chăm chăm với chút nghi ngờ.

“Chúng ta chưa được nhất trí về một, hai điểm nhỏ, nhưng về tổng thể thì phương pháp của ông rất đáng ngưỡng mộ.” Guerchard nói.

“Chà, về Victoire. Ông hoàn toàn chắc chắn rằng việc khám xét – việc khám xét một cách kĩ lưỡng hơn – phòng của bà ta là không cần thiết?” Formery hỏi.

“Phải, tôi nghĩ vậy. Tôi vừa đích thân xem xét rồi.”

Cửa mở, Bonavent – một trong hai thám tử được văn phòng Cảnh sát Quận cử tới lúc nãy – bước vào. Anh ta cầm trong tay một mảnh trang phục.

Anh ta chào Guerchard và báo cáo với Formery: “Tôi vừa phát hiện được mảnh trang phục này trên mép chiếc giếng phía cuối vườn. Bà vợ lão gác cửa bảo rằng nó bị xé ra từ chiếc váy dài của Victoire.”

“Tôi đã sợ là như thế.” Formery cầm mảnh trang phục từ tay Bonavent. “Tôi đã sợ là có án mạng. Chúng ta phải đi ra chỗ chiếc giếng ngay, cho người xuống hoặc cho vét đáy giếng.”

Formery đang hấp tấp đi ra cửa thì Guerchard nói bằng giọng khàn khàn nhẹ nhàng: “Tôi nghĩ chẳng cần thiết phải tìm kiếm Victoire dưới giếng.”

“Nhưng mảnh trang phục này…” Formery giơ mảnh vải ra.

“Phải, phải, mảnh trang phục ấy!” Guerchard nói. Rồi quay qua Công tước, ông ta nói thêm: “Thưa ngài, ngài có biết là trong ngôi nhà này có chó mèo gì không? Tôi nghĩ, với tư cách hôn phu của tiểu thư Gournay-Martin, ngài biết rất rõ ngôi nhà này.”

“Cái quái quỷ gì…” Formery cất lời.

“Xin lỗi.” Guerchard chen ngang. “Nhưng việc này quan trọng, rất quan trọng.”

“Có, có một con mèo.” Công tước nói. “Tôi trông thấy một con mèo ở cửa phòng lão gác cửa.”

“Ắt hẳn con mèo đó đã tha mảnh trang phục này ra chỗ chiếc giếng.” Guerchard nghiêm trang nói.

“Thật là kỳ cục, phi lý hết sức!” Formery kêu lên, mặt bắt đầu đỏ. “Ở đây chúng ta đang phải giải quyết một vụ án rất nghiêm trọng… một cái chết… cái chết của Victoire… còn ông lại đi đề cập tới lũ mèo!”

“Victoire chưa bị giết.” Guerchard nói, chất giọng khàn khàn nhẹ nhàng hơn bao giờ hết, chỉ đủ để nghe.

“Nhưng chúng ta không biết điều đó, chúng ta không biết điều gì đại loại như thế cả.” Formery phản đối.

“Tôi biết.”

“Ông ư?”

“Phải.”

“Thế ông giải thích ra sao việc bà ta biến mất?”

“Nếu bà ta đã biến mất, tôi không cần phải giải thích.”

“Nhưng vì bà ta đã biến mất…?” Formery kêu lên, giọng bực tức.

“Bà ta chưa biến mất.” Guerchard khẳng định.

“Ông không biết gì về việc này cả!” Formery chẳng còn giữ được bình tĩnh.

“Có chứ, tôi biết chứ.” Guerchard vẫn giọng nhẹ nhàng.

“Nào, ông muốn nói ông biết bà ta đang ở đâu chăng?” Formery kêu lên.

“Đương nhiên rồi.”

“Ông muốn nói toạc với chúng tôi là ông đã bắt gặp bà ta chăng?” Formery lại kêu lên.

“Ồ, phải, tôi đã bắt gặp bà ta.”

“Ông đã bắt gặp bà ta… ở đâu?” Formery kêu lên.

Guerchard im lặng ngẫm nghĩ. Rồi ông ta nhẹ nhàng nói: “Khoảng bốn, năm phút trước.”

“Nhưng khoan đã, ông không hề rời khỏi căn phòng này mà!” Formery sửng sốt.

“Vâng, không hề.”

“Vậy mà ông trông thấy bà ta được?” Formery kêu lên.

“Phải.” Guerchard hơi cao giọng.

“Chà, tại cái lý do quái quỷ gì mà ông không cho chúng tôi biết bà ta đang ở đâu? Cho chúng tôi biết đi!” Formery kêu lên, giận tím mặt lại.

“Nhưng ông không để tôi kịp nói lấy lời nào cả.” Guerchard phản đối với giọng nhẹ nhàng hơn lúc trước.

“Ồ, vậy nói đi!” Formery thả người xuống chiếc ghế dựa, thở hổn hển.

“A, thế thì, bà ta đang ở đây.”

“Ở đây! Làm thế nào mà bà ta vào đây được?” Formery hỏi.

“Trên một tấm đệm.”

Formery ngồi thẳng lưng lên, gần như quýnh quáng, nhìn Guerchard chằm chằm, tức tối.

“Ông đứng đó trêu chọc chúng tôi với mục đích gì?” Ông ta gần như tru tréo.

“Nhìn đây!”

Ông ta đi ngang qua căn phòng, đến chỗ lò sưởi, đẩy chồng ghế bị buộc vào với nhau trên tấm thảm trải nền lò sưởi sang một bên và đẩy tấm thảm nặng che phía trước lò sưởi được căng trên khung gắn bánh xe sang bên kia, để lộ cho mọi người thấy cái lò sưởi kiểu cổ bề thế. Chiếc chảo sắt dùng để đốt than bị đẩy vào trong góc, và lòng lò sưởi đặt một tấm đệm. Trên tấm đệm là một phụ nữ tuổi trung niên, to béo, váy áo xốc xếch, mồm bị nhét giẻ màu vàng, cả tay lẫn chân bị trói bằng dây màu xanh lam.

“Bà ta vẫn đang ngon giấc.” Guerchard nói. Ông ta cúi người nhặt một chiếc khăn mùi soa, đưa lên mũi ngửi. “Bọn chúng chuốc thuốc mê bà ta bằng chiếc khăn mùi soa tẩm chloroform này. Mùi chloroform còn chưa bay hết.”

Tất cả nhìn chằm chằm Guerchard và người phụ nữ đang nằm ngủ.

“Hộ một tay nào, ông thanh tra.” Guerchard nói. “Anh nữa, Bonavent. Bà ta trông nặng phết đấy.”

Ba người khiêng tấm đệm và người phụ nữ đang nằm ngủ đến đặt lên trên chiếc sofa rộng. Họ loạng choạng bước vì sức nặng của Victoire.

Formery đứng dậy, đã lấy lại được hơi thở, tuy nhiên mặt ông ta thậm chí còn tím bầm hơn cả lúc trước. Mắt ông ta đảo long sòng sọc, như thể chẳng còn kiểm soát được.

Ông ta quay sang viên thanh tra, tức tối kêu lên: “Ông không hề xem xét chiếc lò sưởi, ông thanh tra!”

“Không ạ, thưa ông.” Viên thanh tra cụp mắt nói.

“Việc đó là việc không thể tha thứ được, không thể tha thứ được!” Formery kêu lên. “Sao mà làm việc được cùng những thuộc cấp như thế này?”

“Đó chỉ là sơ suất.” Guerchard nói.

Formery quay sang ông ta. “Ông phải công nhận rằng, về căn bản, tôi không thể trông thấy bà ta được.”

“Ông có thể trông thấy nếu ông bò bằng hai tay hai chân.”

“Bò ư?”

“Phải, trong tư thế ấy, ông có thể trông thấy gót chân bà ta thò ra bên ngoài tấm đệm.” Guerchard nói một cách đơn giản.

Formery nhún vai. “Tấm thảm thêu trông y như được để ở đó từ đầu mùa hè.”

“Nguyên tắc thứ nhất khi ông đối phó với Lupin là phải nghi ngờ vẻ bề ngoài.”

“Lupin!” Formery tức tối kêu lên. Rồi ông ta cắn môi, im lặng.

Ông ta đi đến bên sofa, nhìn xuống Victoire đang thiêm thiếp, cau mày. “Chuyện này khiến tất cả đảo lộn. Với tình huống mới này, tôi phải bắt đầu lại, tìm một cách giải thích mới cho vụ việc. Lúc này… lúc này… tôi hoàn toàn bị lạc lối. Còn ông, Guerchard?”

“Ồ, may thay, tôi vẫn có một, hai ý tưởng.”

“Ông muốn nói ông không bị lạc lối giống tôi ư?” Giọng Formery thoáng chút nghi ngờ.

“Ồ, không, không hẳn. Ông biết đấy, tôi vốn không đi cái lối ấy mà.”

“Vâng, đương nhiên là không, đương nhiên là không. Ông đi cái lối Lupin.” Formery nở nụ cười khinh khỉnh, ác ý.

Công tước nhìn từ người này sang người kia, ánh mắt như xoáy vào, đầy tò mò. “Tôi thấy tất cả mới thú vị làm sao.”

“Chúng tôi không để ý lắm tới những cản trở này, chúng tôi không hề phiền lòng.” Thói khoác lác của Formery đã được phục hồi phần nào. “Chúng tôi chỉ dừng lại một chút, rồi chúng tôi bắt đầu xây dựng lại… xây dựng lại tiến trình giải quyết vụ án.”

“Ông thật tuyệt vời hết sức.” Cặp mắt sáng của Công tước hướng cái nhìn rất đỗi trìu mến vào bộ mặt tự mãn của Formery, có thể bảo rằng chúng gần như đang mơn trớn bộ mặt đó.

Guerchard nhìn ra qua cửa sổ, quan sát người đàn ông bê một sọt gạch đầy leo lên một trong những chiếc thang dựng dựa vào giàn giáo. Có vẻ có cái gì đó trong công việc đơn giản của người công nhân lương thiện này làm ông ta thích thú, vì ông ta nở nụ cười.

Riêng viên thanh tra, nghĩ tới chiếc lò sưởi mà mình quên xem xét, nét mặt thực sự muộn phiền.

“Chúng ta sẽ chưa khai thác được gì từ người phụ nữ này cho tới lúc bà ta tỉnh dậy.” Formery nói. “Lúc nào bà ta tỉnh dậy, tôi sẽ thẩm vấn bà ta kĩ lưỡng. Trong khi chờ đợi, có lẽ bà ta nên được đưa lên phòng ngủ của mình để ngủ cho tới lúc chất chloroform hết tác dụng.”

Guerchard vội vã quay mặt lại, nhẹ nhàng nói: “Theo tôi, không nên là phòng ngủ của bà ta.”

“Đương nhiên là không rồi… đương nhiên, không phải phòng ngủ của bà ta.” Formery hấp tấp đáp lời.

“Và theo tôi nên cắt một sĩ quan cảnh sát gác bất cứ căn phòng nào mà bà ta sẽ được đưa vào.” Guerchard nói.

“Chắc chắn rồi… Rất quan trọng.” Formery nghiêm trang đáp. “Hãy đảm bảo việc đó được thực hiện, ông thanh tra. Ông có thể đưa bà ta đi.”

Viên thanh tra gọi hai sĩ quan cảnh sát vào, cùng ông ta và Bonavent khiêng người phụ nữ đang ngủ lên. Bốn người đàn ông khiêng bốn góc tấm đệm, đưa bà ta ra khỏi phòng.

“Bây giờ là lúc xây dựng lại tiến trình giải quyết vụ án.” Formery khoanh tay trước ngực, chìm đắm vào trầm ngâm.

Công tước và Guerchard im lặng quan sát ông ta.