Chương 14 Guerchard đi đúng hướng
Nhà triệu phú nhìn tấm danh thiếp với vẻ sửng sốt, viên thanh tra thì nhìn với vẻ hết sức trí tuệ, Công tước nhìn với sự thích thú, còn Formery nhìn nó với vẻ căm phẫn tột độ.
“Vẫn là thủ đoạn ấy thôi, nó được đặt ở đây nhằm đánh lạc hướng chúng ta. Nó không chứng tỏ điều gì cả, tuyệt đối không chứng tỏ điều gì.” Formery khinh miệt nói.
“Đúng, nó hoàn toàn không chứng tỏ điều gì.” Guerchard khẽ khàng đáp.
“Quan trọng là bức điện… bức điện này.” Gournay-Martin quýnh quáng nói. “Nó liên quan tới chiếc vương miện. Nó sẽ không được để ý gì ư?”
“Ồ, có chứ, có chứ.” Formery nói bằng giọng dịu dàng. “Nó sẽ được xem xét. Đương nhiên nó sẽ được xem xét.”
Người phụ trách các gia nhân của Gournay-Martin xuất hiện trên ngưỡng cửa phòng khách. “Thưa ông, xin mời ông, bữa trưa được dọn rồi ạ.” Ông ta nói.
Nghe thông báo đó, nhà triệu phú xem ra đỡ được một phần phiền muộn. “Tốt! Tốt! Quý vị, tôi hy vọng quý vị sẽ dùng bữa trưa với tôi.”
“Cảm ơn ông.” Formery đáp. “Dù gì thì bây giờ, ở đây, chúng ta cũng chưa có việc phải làm. Tôi không hoàn toàn yên tâm về cô Krichnoff, ít nhất là Guerchard không yên tâm. Tôi đề nghị thẩm vấn cô ta lần nữa về những vụ trộm từng xảy ra trước đây.”
“Tôi chắc chắn không có gì đáng chú ý đâu.” Công tước vội vã nói.
“Đúng, đúng, tôi cũng nghĩ là không có gì.” Formery đáp. “Tuy nhiên, người ta không bao giờ biết ánh sáng sẽ có thể soi rọi từ nơi nào trong một vụ việc kiểu như thế này. Sự tình cờ lại hay đem đến cho chúng ta những manh mối hữu ích nhất.”
“Có vẻ sẽ thật đáng tiếc nếu khiến cho cô ấy phải hoảng sợ… Cô ấy chỉ là một cô bé.” Công tước nói.
“Ồ, tôi sẽ nhẹ nhàng thôi, thưa ngài… tức là, nhẹ nhàng hết mức có thể. Nhưng tôi hy vọng khai thác được nhiều thông tin hơn từ cuộc thẩm vấn Victoire. Bà ta đã có mặt khi vụ việc xảy ra. Bà ta đã tận mắt thấy những tên trộm. Nhưng từ giờ tới lúc bà ta tỉnh dậy chúng ta chưa có việc gì khác, ngoại trừ việc đợi các phát hiện của nhóm thám tử đang điều tra bên ngoài, và họ sẽ về báo cáo tại đây. Vậy trong lúc ấy, chúng tôi hân hạnh được dùng bữa trưa với ông, ông Gournay-Martin ạ.”
Họ xuống phòng ăn dưới gác, thấy một bữa trưa xa hoa, cầu kỳ, xứng đáng với lòng mến khách của nhà triệu phú đang đợi họ. Sự khéo léo của người đầu bếp xem chừng hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì trước nỗi mất mát của chủ anh ta. Formery – vốn vẫn dành tình yêu nồng nàn cho những đồ ăn thức uống ngon lành – cảm thấy vô cùng thỏa mãn. Ông ta đang trong trạng thái phấn chấn nhất. Germaine hơi bực bội do phải trải qua chuyến đi ban đêm, đâm ra cứ càu nhà càu nhàu. Các món cao lương mỹ vị chỉ làm ông bố cô ta vui vẻ trong thoáng chốc, rồi ông ta lại đắm chìm vào rầu rĩ. Guerchard ăn uống nghiêm trang, trả lời các câu hỏi của Công tước với cung cách hơi lơ đãng. Bản thân Công tước dường như chẳng còn cái khí chất hớn hở mọi ngày, thi thoảng anh nhíu mày đầy lo lắng. Các câu anh hỏi Guerchard cũng không thể hiện mối quan tâm đến vụ việc như trước.
Đối với anh, bữa trưa này xem ra hết sức lê thê và tẻ nhạt, nhưng cuối cùng thì nó cũng kết thúc. Gournay-Martin có vẻ rất phấn chấn nhờ những cốc rượu vang ông ta đã dốc vào họng. Ông ta gần như tràn trề hy vọng. Còn Formery, mặc dù hoàn toàn không nhấm nháp chút sâm panh nào, tinh thần lạc quan vẫn dâng lên tới cực điểm. Cà phê và rượu mùi được đem ra phòng hút thuốc.
Guerchard châm điếu xì gà, từ chối cốc rượu mùi, nhanh chóng uống hết cà phê rồi lẳng lặng đi ra ngoài.
Công tước theo chân ông ta. Ở hành lang, anh đề nghị: “Ông Guerchard, nếu có thể, tôi xin tiếp tục được quan sát ông gỡ những mối chỉ của vụ việc bí ẩn này.”
Dù là người theo phái Cộng hòa kiên định như Guerchard, ông ta vẫn không thể nào không khoái trá trước sự quan tâm của một bậc công tước, và bữa trưa tuyệt diệu vừa rồi khiến ông ta càng cảm nhận sâu sắc hơn niềm vinh dự ấy.
“Tôi sẽ rất lấy làm hân hạnh. Thực sự, tôi thấy việc có ngài ở bên đồng hành quả là lý thú lắm.”
“Hẳn là như vậy, vì tôi cũng thấy tất cả cực kỳ lý thú.”
Họ đi lên phòng khách, thấy anh chàng cảnh sát mặt đỏ đang ngồi trên chiếc ghế kê cạnh cửa, chén bữa trưa được chuyển từ dưới bếp lên, vẻ rất đỗi ngon lành.
Họ vào phòng khách. Guerchard đóng cánh cửa lại, xoay chìa khóa, nói: “Bây giờ thì tôi nghĩ ông Formery sẽ cho tôi nửa tiếng đồng hồ của riêng mình. Ít nhất phải nửa tiếng đồng hồ nữa ông ta mới hút hết điếu xì gà. Với thời gian đó, tôi sẽ biết những tên trộm thực sự đã làm gì với các món đồ chúng khoắng được, ít nhất tôi sẽ biết một cách chắc chắn chúng đã chuyển các món đồ chúng khoắng được ra khỏi ngôi nhà này như thế nào.”
“Xin ông giải thích.” Công tước nói. “Tôi tưởng chúng ta đã biết cách chúng chuyển các món đồ ra ngoài.” Và anh hất bàn tay về phía cửa sổ.
“Ồ, đấy! Đấy là trò trẻ con.” Guerchard khinh khỉnh nói. “Đây là những dấu vết để lại cho một thẩm phán điều tra. Chiếc thang, chiếc bàn nằm ngang trên bậu cửa sổ, chúng chẳng dẫn đến đâu cả. Hai kẻ duy nhất leo lên chiếc thang là hai kẻ đã vác chiếc thang từ khu vực giàn giáo sang. Ngài có thể trông thấy dấu chân chúng. Không hề có ai leo xuống. Bận tâm tới những dấu vết ấy chỉ tổ lãng phí thời gian.”
“Thế dấu chân bên dưới cuốn sách?” Công tước hỏi.
“Ồ, đấy.” Guerchard nói. “Một trong số những tên trộm đã ngồi ở chiếc sofa kia, bôi vữa vào đế giày cao cổ của hắn, và giẫm chân xuống tấm thảm. Rồi hắn lau sạch vữa ở giày, đặt cuốn sách lên trên dấu giày.”
“Ồ, bằng cách nào mà ông biết được như thế?” Công tước kinh ngạc.
“Nó quá hiển nhiên. Hẳn phải có đến vài tên trộm mới khiêng vác được những thứ đồ đạc như thế. Nếu đế giày của cả đám bám vữa thì giời cũng không quét sạch nổi các hạt vữa li ti vương trên thảm. Tôi đã dùng kính lúp xem xét khoảng thảm từ chỗ dấu chân đến chỗ cửa sổ. Chẳng có hạt vữa nào vương trên đó. Chúng ta hãy gác dấu chân này sang bên. Nó chỉ là chứng cứ giả, và là chứng cứ giả xem chừng cũng khéo léo đấy… dành cho một thẩm phán điều tra.”
“Tôi hiểu.”
“Điều đó thu hẹp lại vấn đề, cái vấn đề khá đơn giản, là bằng cách nào mà đồ đạc được đưa ra khỏi phòng. Chúng không được đưa ra qua cửa sổ, theo thang xuống đến đất. Chúng cũng không được vận chuyển theo đường cầu thang, đưa ra qua cửa trước hoặc cửa sau. Vì nếu thế thì vợ chồng lão gác cửa đã nghe thấy tiếng động. Hơn nữa, đồ đạc sẽ phải tập kết dưới phố chính, nơi bất cứ giờ nào cũng có người đi qua đi lại. Chắc chắn sẽ có người đi báo với cảnh sát là kẻ trộm đang khoắng ngôi nhà này. Ngoài ra, cảnh sát liên tục tuần tiễu các phố chính và dù một kẻ vốn vẫn hành động chớp nhoáng như Lupin thì cũng không thể chớp nhoáng đến độ chẳng một viên cảnh sát nào kịp trông thấy. Không, đồ đạc không được vận chuyển theo đường cầu thang, đưa ra qua cửa trước. Điều đó tiếp tục thu hẹp lại vấn đề. Thực tế, chỉ còn một lối ra duy nhất.”
“Ống khói!” Công tước kêu lên.
“Ngài đã đoán trúng.” Guerchard nói, bật tiếng cười khàn khàn. “Bằng phép tư duy logic mà nhiều người vốn không xa lạ gì, đó là phép loại trừ, chúng ta loại trừ được tất cả các lối ra trừ lối ra qua ống khói.”
Ông ta ngừng lời, cau mày, vẻ hơi bối rối. Rồi ông ta bứt rứt nói: “Điều tôi không ưng ý ở đây là tại sao Victoire lại bị đặt nằm bên trong lò sưởi? Tôi đã lập tức tự hỏi bà ta bị đặt nằm đó để làm gì? Chẳng cần thiết phải chuốc thuốc mê bà ta và nhét bà ta vào đó, hoàn toàn chẳng cần thiết.”
“Có thể việc ấy nhằm mục đích đánh lạc hướng một thẩm phán điều tra. Sau khi tìm thấy Victoire bên trong lò sưởi, ông Formery chẳng bận tâm khám phá thêm điều gì khác.”
“Phải, cũng có thể vậy.” Guerchard chậm rãi nói. “Mặt khác, cũng có thể bà ta được đặt nằm đó để đảm bảo rằng tôi không đi chệch khỏi con đường những tên trộm đã đi. Đó là điểm đáng ghét nhất về thằng cha Lupin. Hắn hiểu cả các ý nghĩ sâu xa trong thâm tâm tôi. Hắn có dự tính bí mật nào đấy – sự bất ngờ nào đấy dành cho tôi. Thậm chí lúc này, tôi vẫn chưa tới gần được ngọn nguồn của vụ việc. Nhưng thôi, chúng ta hãy đi con đường những tên trộm đã đi xem nào. Ông thanh tra đã chuẩn bị sẵn sàng đèn cho tôi.”
Dứt lời, Guerchard tới chỗ lò sưởi, xách cây đèn được đặt bên trên chảo thép dùng để đốt than lên, châm bấc. Công tước theo ông ta bước vào cái lò sưởi khổng lồ. Nó sâu chừng một mét hai, rộng chừng hai mét rưỡi đến hai mét bảy. Guerchard chiếu ánh đèn lên bức tường hậu lò sưởi. Cách mặt sàn chừng một mét tám, lớp bồ hóng đột ngột chấm dứt, và có một mảng tường trông loang lổ, nửa là gạch vẫn còn đỏ tươi sạch sẽ, nửa là gạch đã phủ bồ hóng đen sì, rộng chừng một mét rưỡi, cao chừng một mét hai.
“Lối ra ở vị trí cao hơn tôi nghĩ.” Guerchard nói. “Tôi phải kiếm lấy hai cái bệ.”
Ông ta ra mở cửa phòng khách, yêu cầu anh chàng cảnh sát đi kiếm lấy hai cái bệ. Hai cái bệ nhanh chóng được đem đến. Ông ta nhận chứng từ tay anh chàng cảnh sát, đóng cánh cửa và khóa lại như cũ. Ông ta kê hai cái bệ bên trong lò sưởi, leo lên.
“Cẩn thận!” Guerchard bảo Công tước. Anh đã vào bên trong lò sưởi theo ông ta, và lúc bấy giờ đang đứng sát hai cái bệ. “Một số viên gạch có thể rơi vào bên trong, nếu chúng rơi phải ngón chân ngài thì cứ gọi là đau điếng.”
Công tước lùi lại, tránh chỗ những viên gạch có thể rơi xuống.
Guerchard tì bàn tay trái vào thành lò sưởi phía ngoài, bàn tay phải đẩy thật mạnh mép trên cùng của mảng tường lẫn lộn gạch mới và cũ. Cú đẩy đầu tiên khiến dăm bảy viên gạch rơi rầm rầm xuống sàn ngôi nhà bên cạnh. Ánh sáng tràn vào qua khoảng hở đó, soi trên khuôn mặt và nụ cười đầy thỏa mãn của Guerchard. Ông ta nhanh nhẹn đẩy hết hàng gạch này tới hàng gạch khác sang ngôi nhà bên cạnh, cho đến lúc mở được một ô rộng gần nửa mét vuông.
“Lên đây!” Guerchard nói với Công tước và biến mất qua lỗ hổng vừa tạo.
Công tước trèo lên, nhìn thấy một căn phòng rộng trống không, kích thước và cách bố trí y hệt phòng khách nhà Gournay-Martin, trừ việc nó có một cái lò sưởi kiểu hiện đại bình thường chứ chẳng phải một cái lò sưởi kiểu cổ xưa như cái anh đang đứng. Bệ lò sưởi thấp hơn cái lỗ hổng vừa tạo một chút. Anh bước ra đứng lên trên bệ lò sưởi, rồi nhẹ nhàng đáp xuống sàn.
“Chà.” Công tước ngoảnh nhìn cái lỗ thủng. “Quả là một sáng kiến tài tình.”
“Ồ, nó cũng bình thường thôi.” Guerchard nói. “Những vụ trộm tiệm kim hoàn lớn đôi khi vẫn được thực hiện bằng cách thức này. Nhưng điểm khác thường ở đây, và là điểm khiến tôi lúc đầu bị chệch hướng là những tên trộm này to gan đến độ đục gạch trên tường làm thành cả một lối rộng đủ để chuyển đồ đạc nhà người ta ra ngoài.”
“Đúng vậy.” Công tước thừa nhận. “Nó rộng y như cái cửa sổ lớn vậy. Bọn trộm có vẻ thông thạo mọi việc, thậm chí là phần việc của một thợ nề cừ khôi nhất.”
“Ồ, tất cả các cái này đã sẵn sàng từ lâu rồi. Nhưng bây giờ thì tôi đã thực sự lần theo được dấu vết bọn chúng. Suy cho cùng, tôi chưa thực sự bị mất thời gian. Dieuzy đã lập tức tìm hiểu tình hình trên phố Sureau, anh ta đang xem xét toàn bộ mặt này của ngôi nhà.”
Guerchard kéo các tấm mành mành lên, mở những cánh chớp cửa sổ, để ánh sáng ban ngày ùa vào căn phòng đang tối lờ mờ. Ông ta quay lại lò sưởi, nhìn xuống đống gạch, cau mày. “Tôi đã phạm phải sai lầm. Đáng lẽ tôi phải gỡ từng viên gạch một cách cẩn thận.”
Guerchard nhanh nhẹn nhặt hết viên này tới viên khác từ đống gạch, xếp gọn gàng sát bức tường bên tay trái.
Công tước quan sát ông ta chừng hai, ba phút, rồi bắt đầu phụ giúp ông ta. Họ không mất nhiều thời gian, và phía dưới một trong những viên gạch cuối cùng, Guerchard tìm thấy một mảnh khung tranh mạ vàng.
“Đây hẳn là nơi bọn chúng đã quét tước dọn dẹp.” Ông ta giơ mảnh khung tranh cho Công tước xem.
“Tôi bảo này, tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu chúng ta phát hiện ra các món đồ vẫn ở đâu đây trong ngôi nhà.”
“Ồ, không, không! Tôi nói ngài nghe, Lupin đã tính tới việc bản thân tôi hoặc Ganimard giải quyết vụ này, và hắn cũng biết chắc chắn rằng chúng tôi sẽ phát hiện ra cái lối thông từ nhà này sang nhà kia trong ống khói. Thực tế, các món đồ đã được chuyển thẳng ra con phố phía trước ngôi nhà này.” Ông ta đi trước, ra chỗ chiếu nghỉ, rồi theo những bậc cầu thang tối mò mò xuống sảnh. Ông ta mở các cánh chớp cửa sổ cho ánh sáng tràn vào. Sau đấy, ông ta xem xét khắp sảnh. Bụi đọng thành một lớp dày trên sàn sảnh lát đá vuông. Một vệt dấu chân chạy dọc giữa sảnh. Những dấu chân mờ mờ nhưng vẫn có thể nhìn được rõ ràng trên bụi. Guerchard quay lại cầu thang, bắt đầu kiểm tra từng bậc. Lên đến chừng nửa đợt cầu thang, ông ta cúi nhặt một chùm hoa nhỏ. “Còn tươi!” Ông ta nhận định. “Hoa mới bị bẻ thôi.”
“Hoa xôn.” Công tước nói.
“Chính xác là hoa xôn.” Guerchard đồng tình. “Hoa xôn đỏ, và duy nhất một thợ làm vườn ở Pháp từng thành công trong việc tạo sắc đỏ này… Đó là thợ làm vườn của ông Gournay-Martin tại lâu đài Charmerace. Bản thân tôi cũng là thợ làm vườn đấy.”
“Chà, thế thì, bọn trộm đêm hôm qua đã từ Charmerace tới. Ắt vậy.” Công tước nói.
“Có vẻ là như thế.”
“Cha con nhà Charolais.” Công tước tiếp tục.
“Có vẻ là như thế.”
“Ắt hẳn rồi. Điều này quả thú vị… Giá chúng ta có được một bằng chứng chắc chắn.”
“Chúng ta sẽ sớm tìm ra.” Guerchard tự tin nói.
“Điều này quả thú vị.” Công tước nhắc lại, vẻ hăng hái nhiệt tình. “Những manh mối này… những dấu vết cái nọ đè lên cái kia… từng sự việc dần liên kết với nhau… thật hết sức thú vị.” Anh ngừng lời, lấy ra hộp thuốc lá. “Ông hút một điếu chứ?” Anh mời.
“Có phải loại xoàng không?”
“Không, thuốc lá Ai Cập… nhãn hiệu Mercédes.”
“Cảm ơn.” Guerchard nói, nhón một điếu.
Công tước quẹt diêm, châm thuốc cho Guerchard rồi châm cho mình.
“Phải, rất thú vị.” Anh nói. “Trong mười lăm phút đồng hồ vừa qua, ông đã gần như khám phá ra rằng những tên trộm từ Charmerace tới, rằng bọn chúng chính là đám Charolais, rằng bọn chúng đột nhập qua cửa trước ngôi nhà này và vận chuyển đồ đạc ra qua đó.”
“Tôi không hay biết việc bọn chúng vào bằng đường này. Trừ phi tôi lầm lẫn lớn, còn không thì bọn chúng đã vào qua cửa trước nhà ông Gournay-Martin.”
“Đương nhiên rồi. Lúc nãy tôi quên. Bọn chúng đem theo chùm chìa khóa đánh cắp ở lâu đài Charmerace.”
“Phải, nhưng ai rút then cửa cho bọn chúng?” Guerchard hỏi. “Người gác cửa đã cài then cửa trước khi đi ngủ. Ông ta đã nói với tôi thế. Ông ta đã nói sự thật, khi những người kiểu ấy nói sự thật là tôi biết ngay.”
“Trời đất!” Công tước khe khẽ thốt lên. “Ông muốn nói bọn chúng có kẻ đồng lõa ư?”
“Tôi nghĩ chúng ta sẽ xác minh được bọn chúng có kẻ đồng lõa. Nhưng ngài bắt đầu rút ra các kết luận một cách mau lẹ hiếm thấy. Tôi tin rằng bản thân ngài có thể trở thành thám tử hạng nhất… nếu được rèn luyện, đương nhiên… nếu được rèn luyện.”
“Có lẽ nào tôi đã bỏ qua nghề nghiệp đích thực của mình?” Công tước mỉm cười. “Đó dứt khoát là trò chơi rất thú vị.”
“Chà, tôi không định tự khám xét tòa nhà này đâu.” Guerchard nói. “Tôi sẽ cắt hai người thực hiện nhiệm vụ ấy, nhưng tôi sẽ đích thân xem xét các bậc thềm.”
Dứt lời, ông ta mở cửa trước, đi ra xem xét kĩ lưỡng các bậc thềm.
Họ trở lên gác, qua cái lỗ hổng trong ống khói sang lại phòng khách nhà Gournay-Martin. Y như rằng, từ bên kia cánh cửa khóa trái, Formery đang hét rõ to: “Guerchard! Guerchard! Ông đang làm gì? Cho tôi vào! Tại sao ông không cho tôi vào?”
Guerchard mở cửa, và Formery nhảy vọt vào, rất kích động, mặt đỏ bừng bừng.
“Chết tiệt, Guerchard! Ông đang làm cái quái quỷ gì thế?” Formery kêu lên. “Tại sao khi tôi gõ cửa, ông không mở?”
“Tôi không nghe thấy.” Guerchard nói. “Lúc nãy tôi không ở trong phòng này.”
“Thế ông ở chỗ quái quỷ nào?” Formery kêu lên.
Guerchard nhìn ông ta, thoáng nụ cười mai mỉa, nói với giọng dịu dàng: “Lúc nãy tôi đang bám theo dấu vết thực sự của bọn trộm.”