Những điểm đặc biệt về Nguyễn Huệ-Phạm văn Sơn
Mỗi danh nhân thế giới và lịch sử thường có những cá tính đặc biệt để người đời có thể nhìn vào đó mà biết được sự nghiệp và tương lai của họ ngay khi mới bắt đầu vào chính trường. Trong chuyện Vương Thúy Kiều của Nguyễn Du ta thấy trong cuộc tiếp xúc giữa Từ Hải và nàng Kiều, Từ Hải đã khen Kiều có cặp mắt xanh qua câu:
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
sau khi Kiều nói Từ Hải sẽ có những ngày huy hoàng, vua biết mặt, chúa biết tên, sự hiểu biết hết sức lớn lao, và lời nói của nàng cũng rất tế nhị bởi đã diễn tả ý trên một cách gián tiếp nhưng khéo léo vô cùng:
Thưa rằng lượng cả bao dung
Tấn dương được thấy mầy rồng có phen,
Rộng thương nội cỏ hoa hèn,
Tấm thân bèo bọt dám phiền mai sau...
và quả nhiên chỉ năm sau với cái tài khuấy nước chọc trời của người anh hùng họ Từ, chánh quyền đời Gia Tĩnh đã phải bối rối lao đao vì Từ đã đánh phá được nhiều thị trấn của miền Nam Trung Quốc, đem lại cho triều binh nhiều cuộc kinh hoàng, như vậy Kiều đã đoán trước thân thế của Từ sớm có ngày rực rỡ và sự việc đã thực hiện rất đúng, như thế, nàng là kẻ có mắt tinh đời vậy. Nếu Từ đã thành Chúa Tể bốn phương mà nói thì có khác đâu là chuyện khen phò mã tốt áo...
Tào Tháo cùng Lưu Bị một hôm ngồi luận anh hùng và thời thế. Tào nhìn thẳng vào mặt Lưu bảo:
“Anh hùng trong thiên hạ ngày nay, chỉ có tôi với sứ quân...”, Lưu Bị hoảng hốt vì thấy Tào đã “đi guốc trong bụng mình”, nhân có tiếng sét nổ bèn giả đò bưng tai, tỏ ra hèn nhát, sợ hãi lắm. Tào cười biết mánh lới của Lưu bởi y đã hơn ai hết, thấu đáo triệt để cái súy đồ vĩ đại của Lưu. Y cười bởi Lưu cố tình che mắt hắn trong khi tia mắt của y đã chiếu thẳng vào tim đen của Lưu.
Dưới đời chúa Duệ Tôn ở Nam Hà cuối thế kỷ 18, ông giáo Hiến là thầy dạy cả văn lẫn võ cho ba anh em nhà Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Ông cũng nhận thấy anh em Nhạc sau này sẽ đóng những vai trò quan trọng trên đất nước. Lúc đó ông sống một cách ẩn dật lòng đầy căm hận bởi tuổi đã già không giúp ích được gì cho xứ sở trong khi quyền thần Trương Phúc Loan là cậu Vua đang thao túng chính quyền, vơ vét của dân và của nhà nước cho đầy túi tham không đáy, bất kể công luận và không hề mủi lòng trước cảnh đói khổ lầm than của nhân dân miền Nam. Bạn thân của ông là Trương văn Hạnh làm quan tại triều vì chống lại chế độ mục nát của Trương mà bị Trương hãm hại. Ông giáo Hiến sợ cái họa cháy thành vạ lây vội bỏ kinh thành Thuận Hóa mà đi Bình Định gõ đầu trẻ trong thôn ấp hẻo lánh kề đất Tây Sơn, do đó đã có dịp thâu anh em Nguyễn Nhạc làm môn đệ. Ông thấy Nhạc, Lữ, Huệ khác người nên khi tiếng nhỏ, khi tiếng to mang thời cuộc ra dẫn giải và khích động óc cương cường của ba anh em Nhạc. Theo ông, chính sự Nam Hà mục nát quá rồi, sớm muộn gì phải đi đến chỗ sụp đổ, những kẻ có tài, có chí sẽ có cơ hội lập công danh. Rồi ông khích lệ Nhạc, Lữ, Huệ rằng thời cơ đã tới và họ có thể đảm đương được vận mệnh tương lai của đất nước. Ông còn bịa ra lời sấm: “Tây Sơn khởi nghĩa, Bắc thu công”, nghĩa là đất Tây Sơn sẽ có người khởi nghĩa rồi sẽ thành công cả ra đến Bắc Hà. Lời sấm này có mãnh lực thúc đẩy anh em Nguyễn Nhạc hăng hái lao mình vào con đường tranh đấu. Nói cho đúng ba anh em Nguyễn Nhạc cũng phải là những người có chí khí hiên ngang, có óc hùng cường mới được thầy Hiến lựa chọn để ra tranh tài với thiên hạ và quả sau này họ đã làm được những việc lừng lẫy sử xanh.
Trong ba anh em ông Nhạc, Lữ, Huệ mỗi người đều có sở trường, sở đoản khác nhau, nhưng trong một giai đoạn lịch sử nào đó họ đã tỏ đủ tài đánh đổ một chính quyền thối nát và đóng vai trò lịch sử hiển hách cũng như đưa lịch sử Việt Nam sang một khúc quanh. Rồi như ta thấy 30 năm sau (1771-1802) anh em nhà Tây Sơn quả đã làm biến chuyển thời thế từ Nam ra Bắc chớ đâu họ chỉ đánh gục bọn Trương Phúc Loan ở cái việc “gian nhân hiệp đảng” mà thôi trong phạm vi xứ Nam Hà bấy giờ gồm dải đất phía Bắc giáp Đồng Hới, phía Nam giáp Diên Khánh, Bình Thuận. Nhạc là con người giàu mưu trí nhưng không có nhiều kỳ vọng. Mỗi ngày một lớn tuổi, đầu óc ông cũng mòn mỏi dần rồi thiên về chỗ cầu an hưởng lạc nên chỉ khư khư đóng vai Hoàng đế trong cái đế quốc nhỏ xíu của ông là đất Quy Nhơn mà thôi. Người ta gọi ông là “Tây vương” tuy ông tự xưng là “Trung Ương Hoàng Đế”.
Nguyễn Lữ thua sút về tinh thần tranh đấu. Ông này ít tha thiết đến việc quân sự mà chỉ nghiêng về tôn giáo, ông được người ta quý trọng như một giáo chủ và ông đã có nhiều ảnh hưởng đến dân chúng miền Nam Trung Việt và miền thượng An Khê, Phú Phong, về phương diện này, khi anh em ông khởi nghĩa riêng ông Lữ cũng đã quy tụ được khá nhiều đồng bào dưới lá cờ Tây Sơn bay trước nhất ở triền núi An Khê. Năm 1784, Tây Sơn bắt giết được Duệ Tôn và đuổi được Nguyễn Ánh, thu phục được toàn cõi Nam Việt, ông lãnh tước Đông Định vương, nhưng bởi lơ là với chính sự, năm sau Nguyễn Ánh quật khởi ở Gia Định, Tổng đốc Chu, Tư khâu Uy bị thua, Lữ liền kéo hết quân đội về Trung Việt, chẳng để lại dư âm nào nữa từ đó.
Đến người thứ ba trong gia đình Tây Sơn là Nguyễn Huệ, chúng ta thấy là cả một pho lịch sử đầy chuyện lạ, nhiều tình tiết ly kỳ. Ngày nay chúng ta thường nhắc tới ông một cách hào hứng.
Quả vậy, Huệ có một cuộc đời rất đặc biệt, một chí hướng trùm trời, nếu so với hào kiệt cổ kim. Xét về tài ba, ông cũng vượt thế nhân nhiều lắm. Tuy nhiên người anh hùng Nguyễn Huệ của chúng ta có nhiều sở trường thì cũng có nhiều sở đoản như bao nhiêu danh nhân khác. Đó là một thông lệ xưa và nay.
Chúng tôi mời bạn đọc cùng chúng tôi phân tách cái sở trường, sở đoản của Nguyễn Huệ nó đã ảnh hưởng đến hành động, đến đất nước trong suốt cuộc đời ông thế nào rồi hãy khen ngợi ông giáo Hiến đã có con mắt xét người rất tinh khi vị hào kiệt này còn ở trong vòng trứng nước.
I.- Nguyễn Huệ con người có chí lớn.
Làm được sự nghiệp vĩ đại, tất nhiên phải có tài lớn, nhưng tài lớn vẫn phải kèm theo chí lớn. Nguyễn Huệ vào đời từ 1771, là năm đầu liên anh em Tây Sơn phất cờ giải phóng đồng bào Nam Hà khỏi ách tham tàn của Trương Phúc Loan. Lúc này ông vào khoảng trên 21 tuổi và vài năm sau ngôi sao của ông sáng chói dần, rồi chỉ mười năm kế tiếp nữa ông đã thành rường cốt của tân triều đại. Trong nước cũng như ngoài nước, nói đến nhà Tây Sơn người ta hầu như chỉ biết có ông mà thôi, nhất là Nguyễn Ánh, chỉ biết lùi bước co giò trước lá cờ tướng Huệ. Vào giai đoạn này, Huệ bị ràng buộc vào việc đánh chiếm miền Bắc.
Rồi trong khi Nhạc mệt mỏi chỉ biết có vui thú với cái triều đình của ông, đã không nghĩ đến sự bành trướng ra Bắc là đất của em, mà cũng không muốn tiến vào Nam là nơi bọn quốc thù Nguyễn Ánh đang hoạt động ráo riết, Huệ bao phen mang quân ra Thăng Long, diệt họ Trịnh (1786) đuổi quân Thanh và trước đó còn truy kích con cháu Nguyễn Hoàng tại xứ Đồng Nai, khiến từ 1784 toàn cõi Nam Việt đã về tay ông sau khi ông tiêu diệt được trên hai chục ngàn quân xâm lược Xiêm La mà họ Nguyễn cõng về. Trong đầu óc của ông bấy giờ đã có vấn đề thống nhất xứ sở, mặc dầu ở khoảng giữa của xứ sở có đế quốc của anh ông là Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Quả vậy năm 1786 trên thực tế nước Việt Nam đã hoàn toàn thuộc ảnh hưởng của triều đại Tây Sơn, tức là nước Việt Nam đã thống nhất. Vì thế trong tờ chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ đã chính thức tuyên bố: “Vài ngàn dặm đất ở cõi Nam đều thuộc về ta hết”.
Chí lớn của ông còn nhắm sang lãnh vực khác: cải cách thuế khóa, mở mang công thương nghiệp, khuyến khích việc buôn bán với các nước ngoài điều mà các tiên chúa họ Nguyễn rất kiêng kỵ vì ích kỷ. Đáng chú ý là ông có chủ trương làm sống lại giới bần nông mà đa số không có ruộng đất, từ đời ông đến đời cha, đời con chỉ làm tá điền hay nông nô cho các địa chủ và là nạn nhân thường trực của bọn phú nông chuyên bốc lột người nghèo bằng nghề cho vay nặng lãi. Nguyễn Huệ đã kêu gọi những kẻ tha phương cầu thực, phiêu bạt vì chiến tranh trở lại làng cũ. Ông chia cho họ những ruộng đất ông truất hữu của bọn quan liêu, địa chủ bất lương từ các thời trước. Theo chính sách người cày có ruộng, ông chấm dứt cái tình trạng thủ đắc bất hợp pháp về công điền công thổ nữa. Các việc mở mang nông, công, thương nghiệp kể trên của Nguyễn Huệ đủ nói lên rằng ông có ý xây dựng cho nước Việt Nam một nền kinh tế thuận chiều với quyền lợi của đại chúng, nền kinh tế này ít tính chất phong kiến hơn dưới các triều Trịnh - Nguyễn, mặc dầu còn nằm trong phạm trù chế độ phong kiến. Nó tiến bộ hơn nền kinh tế triều Lê, Trịnh, Nguyễn bởi nó hướng về dân nghèo, nó mở ra nhiều sinh lộ cho các lớp người xấu số, nó hạn chế những quyền lợi bất chính của bọn quan liêu, hào phú ngay trên nguyên tắc.
Đối với tăng đồ, ông đặt ra việc sát hạch theo lẽ chỉ những người thật tâm đạo đức và có hiểu biết rõ ràng giáo lý mới đủ tư cách thờ Phật và truyền đạo, ngược lại, những kẻ trốn việc quan đi ở chùa hoặc mượn cửa thiền làm việc mờ ám hoặc ăn bơ làm biếng phải hoàn tục. Cùng với sáng kiến này ông cho phá bỏ các chùa nhỏ, tập trung gạch ngói làm chùa lớn ở phủ hay huyện không ngoài mục đích ngăn ngừa các việc lạm dụng hẳn đã xảy ra rất nhiều thời bấy giờ, đồng thời lành mạnh hóa Phật giáo mà ông coi là quốc giáo. Đối với giáo sĩ Tây phương ông cũng để cho tự do truyền đạo xây dựng nhà thờ và còn trừng trị những kẻ gây kỳ thị. Chính giáo sĩ Diego de Jumilla đã hết lời ca ngợi chúa Tây Sơn (Nguyễn Huệ) về điểm này và tỏ lòng biết ơn.
Có nên nói rằng việc cho các giáo sĩ Tây phương tự do truyền bá đạo Thiên Chúa đã đủ tỏ Nguyễn Huệ có tinh thần khoáng đạt gần như táo bạo. Sự thật thì sau ông đã có một khối dân tộc nhiệt liệt ủng hộ ông, ông có sợ gì?
Ông còn cho chúng ta thấy tinh thần độc lập của ông ở sự cải cách học thuật bằng việc đặc dụng chữ Nôm trong các chiếu chỉ, văn thư, từ lệnh tại các Nha Môn cũng như ngoài quần chúng. Ông đã cho dịch Tứ Thư, Ngũ Kinh ra tiếng Nôm để phổ biến luân lý, đạo đức văn hóa cho nhân dân được học hỏi dễ dàng và việc này buộc phải mở nhiều trường học đến các cấp xã thôn. Những đời vua chúa trước đâu đã nghĩ đến việc đại chúng hóa giáo dục, như thế cái ước mơ của Nguyễn Huệ rõ ràng không có lẩn quẩn chung quanh cái ngai vàng. Trong cuộc đời chính trị của ông tương đối chẳng dài bởi chỉ có 15 năm, lại nay đánh Đông, mai dẹp Bắc, mà ông vẫn lo thực hiện chương trình, hoài bão gây dựng một nước Việt Nam giàu có binh hùng, tướng mạnh và có cả một sự thăng tiến cả về văn hóa, học thuật thật đáng phục lắm thay.
Cơm rau áo vải, học hành ít ỏi mà có những sáng kiến về thời vụ, như vậy hỏi những ngài khoa bảng, quý tộc, trâm anh nghĩ thế nào về Nguyễn Huệ?
II.- Nguyễn Huệ đối với nhân tài.
Cuối thế kỷ 18 tầng lớp nho giả Việt Nam bị cột chặt vào chủ trương trung quân, ái quốc một cách thiển cận cố chấp. Do đó họ chỉ biết nhìn vào một dòng họ, một ông vua. Điển hình là Nguyễn Đăng Trừng ở Đàng Trong, Trần Công Sán, Phạm Thái ở Đàng Ngoài. Họ u mê tới mức chỉ biết có vua chúa mà không biết nhân dân. Họ có thể hy sinh tất cả cho những ông vua ngu muội, ích kỷ, đi ngược với quyền lợi của nhân dần, dân tộc khiến trong một thời gian khá dài họ đã bất cộng tác với ông và đã gán cho Tây Sơn là một Ngụy triều. Họ còn chiêu mộ “nghĩa binh” để chống lại. Thậm chí đến cả Nguyễn Thiếp là tột đỉnh trí thức thời bấy giờ được ông cho mang vàng bạc và có lần thân đến núi Thiên Nhẫn tha thiết mời ra giúp nước cũng khăng khăng từ chối. Chỉ tới năm 1789, Lê Chiêu Thống đã để lộ bộ mặt ngu dại cõng rắn cắn gà nhà, Nguyễn Thiếp mới chịu xuống núi nhậm chức Viện trưởng Sùng Chính viện của Nguyễn Huệ.
Nhưng một loại kẻ sĩ khác là Ngô Thời Nhiệm, Trần văn Kỷ, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng v.v... thức thời hơn nên ông đã trọng dụng họ đến mức tối đa và họ đã không phụ lòng tri kỷ.
Trần văn Kỷ là một danh sĩ ở Thanh Hóa theo Nguyễn Huệ từ năm ông đánh Phú Xuân (1786) và được Nguyễn Huệ dùng vào địa vị một Tham mưu trưởng, một cố vấn. Rồi “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, Kỷ đã giới thiệu Ngô Thời Nhiệm cho Nguyễn Huệ sau khi Nhiệm bị tiếng gièm pha phải trốn tránh hơn sáu năm sau lại còn bị Võ văn Ước hãm hại.
Nguyễn Huệ phong Nhiệm làm Tả Thị Lang bộ Lại tước Tinh Phái Hầu để xứng đáng với tài học uyên bác và thức thời vụ. Sau này quân Thanh tràn qua Việt Nam, chính Ngô Thời Nhiệm đã khuyên Ngô văn Sở rút thủy bộ chư quân về dãy Tam Điệp theo kế hoạch bảo toàn lực lượng trong khi chờ đợi đại quân. Kế này được Nguyễn Huệ khen ngợi là rất khôn ngoan. Tới khi chiến tranh chấm dứt giữa hai dân tộc Việt-Thanh, ông được giữ các việc ngoại giao, từ lệnh rất khéo léo, khi cứng, khi mềm khiến đối phương phải kính nể nước ta.
Ngoài đám nho thần kể trên, Nguyễn Huệ còn đào tạo ra một số nhân tài quân sự như Ngô văn Sở, Trần Quang Diệu, Bùi thị Xuân, Nguyễn văn Tuyết, Phan văn Lân, Đô đốc Bảo, Đô đốc Mưu, Đô đốc Lộc... Các người này đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp của nghĩa quân Tây Sơn và đã lập được nhiều chứng tích huy hoàng, nhất là trong trận đuổi Thanh đầu tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789).
Đặc biệt hơn nữa Nguyễn Huệ được kể là ông vua đầu tiên trong lịch sử Việt Nam dám dùng phụ nữ làm tướng và vị nữ tướng Bùi thị Xuân của ông đã tỏ ra có nhiều tài năng, quả cảm. Một thời “quân của bà Thiếu Phó” (tức bà Bùi thị) từng làm quân Nguyễn nhiều phen bở vía, kinh hồn. Năm 1802, nhà Tây Sơn đến lúc tàn, ưu thế quân sự đã nghiêng hẳn về Nguyễn Ánh mà Bùi thị Xuân cùng chồng đã chiến đấu anh dũng đến phút cuối cùng. Bà cùng Trần Quang Diệu đem 5.000 quân công phá dữ dội đồn Đầu Mâu suýt chuyển bại thành thắng và đã làm cho quân chúa Nguyễn tổn thất lớn.
Tóm lại, do Nguyễn Huệ biết dùng người, biết hậu đãi nhân tài nên các tướng lãnh và quan lại của ông đã tận tụy với ông cho tới ngày chót của triều đại.
III.- Nguyễn Huệ tự tín tự cường.
Trong trận đánh quân Thanh cuối năm Mậu Thân qua đầu năm Kỷ Dậu (1789), đứng trên đèo Tam Điệp, ông tuyên bố trước ba quân: “Nay ta đến đây, tự đốc việc quân, đánh giữ đã có kế, chỉ trong mười ngày thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh”. Rồi chưa đến mười ngày ông đã cùng tướng sĩ vào được thành Thăng Long mở tiệc khánh hạ và giặc Thanh đã bị tan vỡ tơi bời...
Trước đó Nguyễn Hữu Chỉnh và Võ văn Nhậm là hai tay kiệt hiệt có hàng vạn tinh binh dưới quyền, khi ông muốn triệt hạ, ông đã giết họ dễ dàng như trở bàn tay. Những việc này làm cho tướng sĩ của ông tin tưởng vào ông như tin thần thánh, bởi ông nói được làm được...
Nguyễn Huệ lại có tinh thần dân tộc rất cao: Có lần ông đã nói ở Nghệ An: “Trong vòng trời đất chia theo phận sao Dực, sao Chẩn; Nam Bắc vẫn riêng một non sông. Từ Hán về sau, họ cướp đất đai ta, cá thịt nhân dân ta, vơ vét của cải, nông nỗi ấy thật là khó chịu. Người nước Nam ai cũng phải nghĩ việc đánh đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vuơng, đời Tống có Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ. Các ngài không chịu bó tay ngồi nhìn quân tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy binh đánh đuổi chúng. Trong những khi ấy, Nam Bắc đâu lại phận đó, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài. Từ nhà Đinh đến nay, chúng ta không còn phải cái khổ Bắc thuộc!
Rồi tinh thần quốc gia và dân tộc của ông đã phản ảnh trong cuộc ngoại giao với nhà Thanh, mặc dầu chiến tranh Việt-Hoa đã chấm dứt. Để cho quân dân nghỉ ngơi và có thì giờ đầy đủ chuẩn bị cho một chiến tranh tương lai qua đất Tàu, Ông đành nhất thời hòa hoãn với vua Kiền Long và lũ bề tôi, vậy mà ông vẫn không chịu quá nhún nhường họ trong các cuộc tiếp xúc cả trên giấy tờ vì vấn đề thể diện quốc gia, Ngô Thời Nhiệm viết biểu cầu hòa, nhưng ông góp ý chính như sau:
“Ôi đường đường là Thiên triều lại đi tranh hơn thua với tiểu di thì tất chiến tranh phải liên miên để thỏa lòng tham. Đó là điều Thánh thượng không nỡ. Vạn nhất chiến sự kéo dài, thế đến như vậy, thì cũng không phải là điều thần mong muốn và cũng không dám biết”.
Nói theo thuật ngữ ngày nay, những câu trên có nghĩa là: Chúng tôi không muốn chiến tranh, nhưng nếu các ông để chiến tranh xảy ra thì đó là lỗi ở các ông. Tờ biểu này gửi cho Lưỡng Quảng Tổng đốc Phúc Khang An và Bình bị đạo Quảng Tây Thang Hùng Nghiệp mà ông biết rõ cái tâm sự “kính cung chi điểu” của chúng. Lần khác ông viết cho Thang Hùng Nghiệp lời lẽ cứng hơn: “Thiên triều không chịu khoan dung một chút, cứ muốn động binh, thế là làm cho nước nhỏ không được phục nước lớn, thì bấy giờ đại quốc có dạy bảo gì tôi cũng xin theo”. Nói trắng ra là: Các ông muốn đánh thì cứ việc đánh, chúng tôi sẵn sàng đón tiếp các ông!
Sở đoản của Nguyễn Huệ.
Các sở trường của Nguyễn Huệ thật ra còn nữa, nhưng kể ra như vậy là tạm đủ, và dưới đây là một số sở đoản của ông! Cổ nhân thường nói “Nhân vô thập toàn” thì con người của Nguyễn Huệ cũng phải có những chỗ dở của nó.
A.- Một vài nhà sử học ngày nay đã trách Nguyễn Huệ quá tự cao, tự đại và chủ quan, sau khi đánh bại tan tành hai chục ngàn quân Xiêm La ở Vĩnh Long, tiêu diệt gần trọn hai mươi vạn binh sĩ của nhà Thanh tại Bắc Hà nên vào năm 1792, ông sai người dâng biểu cầu hôn với công chúa nhà Thanh, tính khiêu khích vua Kiền Long và lấy cớ xua quân vào Trung Quốc [1]. Người ta cho rằng ông đã có những tư tưởng quá phiêu lưu, dại dột, nguy hiểm. Lời phiền trách này theo chúng tôi có thể hợp lý và cũng có thể Nguyễn Huệ có lý vì các dân Mông Cổ, Hung Nô, dân Mãn (Bắc dịch, Tây di, Đông di theo sử thần Trung Quốc) đã từng xâm lăng Trung Quốc và làm vua Trung Quốc thì tại sao không có Việt Nam?
B.- Những điều sở đoán rõ rệt là mấy vụ đã xảy ra dưới đây: Cuộc chiến tranh giữa Nhạc và Huệ năm 1787 Huệ giận Nhạc đã gian dâm với một người vợ mình lại đòi chia vàng bạc, châu báu mà Huệ đã đoạt được của vua Lê, chúa Trịnh năm trước. Thực ra Huệ đã chia hết các vàng bạc, gấm vóc cho các tướng sĩ ở Thăng Long nên khi trở về Phú Xuân Huệ không có gì trong tay nữa. Dầu sao Huệ cũng có lỗi là để cuộc chiến tranh thủ túc xảy ra khiến số quân đem vào Quy Nhơn chết hại hết một nửa [2]. May thay Huệ còn biết mủi lòng khi Nhạc quá nguy quẫn đứng trên thành khóc lóc kêu gọi: “Chú Thơm [3], chú định làm cái việc nồi da xáo thịt sao?”. Cũng trong năm cuối cùng này, Nguyễn Ánh cũng nhờ chỗ anh em ông bất hòa, đã tha hồ hoành hành ở Nam Việt, còn tiến ra Bình Thuận, Diên Khánh rồi đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại của Nhạc ở Quy Nhơn. Đáng lẽ lúc này anh em ông phải khuyên bảo nhau đem quân vào đánh Gia Định, cộng tác với nhau tiêu diệt Nguyễn Ánh thì làm gì Nguyễn Ánh trở thành hậu họa! Đằng này ông bất động khiến miền Nam bị ung thối dần, cuối cùng đế quốc của Nhạc mất trước rồi đến con cháu ông cũng bị họ Nguyễn triệt hạ sau, rồi triều đại của gia đình ông lập ra phải xóa nhòa trên lịch sử sau 24 năm oanh liệt.
C.- Đối với Nguyễn Hữu Chỉnh và Võ văn Nhậm ông đã tỏ ra rất tàn nhẫn. Ông đã thẳng tay giết hai người này mặc dầu cả hai đã giúp ông rất đắc lực trong việc bình Bắc. Riêng Nhậm lại là con rể của vua Thái Đức tức là cháu rể của ông.
Năm Nhâm Dần (1782) Bắc Hà có nạn kiêu binh là bọn lính Thanh, Nghệ cùng quê với vua Lê, chúa Trịnh. Bọn này được coi từ lâu là thân quân, sau ỷ vào công tôn lập được chúa Trịnh Khải và phế lập Trịnh Cán khi chúa Trịnh Sâm qua đời. Chúng đảo chính xong liền vào Triều giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo là người cầm đầu phe Trịnh Cán.
Nguyễn Hữu Chỉnh đỗ hương cống, có tài biện bác và giỏi cả về quân sự được thượng tướng Hoàng Ngũ Phúc trọng dụng. Phúc chết Chỉnh sang phục vụ Bảo, cung được tin cẩn. Tới khi Bảo bị tiêu diệt, Chỉnh hoảng sợ bỏ Bắc Hà chạy vào Nghệ An tính cộng tác với Võ Tá Giao trấn thủ nơi này để tự lập, thì Giao từ chối. Cùng đường Chỉnh đến với Tây Sơn, nhờ có nhiều khả năng nên được làm thượng tân. Ông ta không còn nơi nào dung thân nữa nên đã hết lòng phò tá chủ mới, thứ nhất là để được sống yên ổn, thứ nhì cũng muốn có đất dụng võ.
Do thấy ông đã có tài lại có nhiều cơ mưu, Huệ tuy dùng ông ta mà vẫn có sự e ngại bên trong. Dưới mắt Huệ, Chỉnh là con chim bạt gió nhưng vẫn là thứ chim Bằng (như người ta đã đặt tên cho ông). Vì thế ông nghĩ chỉ có thể chấp nhận sự giúp đỡ của Chỉnh trong một giai đoạn nào mà thôi. Trong lúc này Chỉnh vẫn ra công lo liệu mọi việc lớn nhỏ của anh em ông.
Chỉnh đã khuyên Huệ đem quân ra Bắc và sắp đặt mọi kế hoạch. Từ lâu Huệ đã có ý định này, nhưng nay được Chỉnh trình bày rõ rệt tình hình Lê suy, Trịnh mạt tại Bắc Hà và đã ra những sách lược rất tinh vi và khéo léo, nên đã kéo quân ra Thăng Long, quả nhiên ông đã thành công. Chỉnh dặn dò Huệ từng đường đi nước bước nên ngoài việc hạ được ông Chúa cuối cùng của họ Trịnh, Huệ đến Triều Lê như César bước vào xứ Gaule, nghĩa là được sĩ dân hoan nghênh nhiệt liệt. Huệ được phong tước Nguyên Soái Uy quốc công, lại được vua Hiển Tông gả Ngọc Hân công chúa. Gần xa đều khen ngợi Huệ đã làm được sự nghiêp phò nguy cứu khổ, nhất là Huệ đã đưa hoàng tôn Duy Kỳ lên nối ngôi, vì vua Hiển Tổng thăng hà ít ngày sau.
Huệ đã trả công người tô son điểm phấn mình như thế nào?
Đêm 17-8 năm ấy, Huệ bất thình lình cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Phú Xuân, cố tình bỏ rơi Chỉnh cho người Bắc Hà sát hại vì Chỉnh đã mang tiếng rước quân đội Tây Sơn vào cõi. Được tin Tây Sơn về rồi, Chỉnh hốt hoảng chạy theo đến Nghệ An thì bắt kịp. Huệ hơi ngượng với Chỉnh tìm lời cáo lỗi rồi bảo Chỉnh ở lại giữ xứ này cùng Nguyễn Huệ.
Đến lúc này Chỉnh vỡ mộng biết mình ngồi trên lưng cọp không sao tránh được sự đụng độ với Huệ, Chỉnh đành chiêu mộ binh sĩ chờ thời. Ít lâu sau, vua Chiêu Thống cho mời Chỉnh ra dẹp đảng Trịnh Bồng vì Bồng đã tiếp tục hiếp chế vua như các tiền bối. Chỉnh ra Bắc chuyến này cũng rất gian nan là phải đánh dẹp phe nghịch.
Ở đây Chỉnh cũng không khỏi cảnh cưỡi lưng cọp như khi còn gần gũi Phú Xuân bởi đa số quan lại nhà Lê vẫn oán Chỉnh. Chỉnh lại phải lo bành trướng thế lực, đề phòng cả người Bắc lẫn người Nam, do đó khi Huệ phái Võ văn Nhậm mang quân ra hỏi tội, Chỉnh dầu muốn hay không vẫn phải mang cái khối Bắc Hà hỗn tạp ra chống lại thì chống sao nổi. Chỉnh bị giết.
Trước vấn đề này ta phải công bằng mà đặt câu hỏi: Giữa hai người Huệ và Chỉnh ai đã phụ ai? Xét ra Chỉnh đã như là cô gái bị chồng tình phụ đi lấy người khác, cố ở cho yên thì lại bị ngờ vực rồi lại bị hắt hủi phen nữa.
Huệ nếu không đưa Chỉnh đến con đường cùng thì Chỉnh vẫn có thể còn trung thành với Huệ, tiếc rằng Huệ đã nghĩ và nhất là Chỉnh lại là kẻ có tài thì chính cái tài đó đã giết Chỉnh vậy.
Với Võ văn Nhậm, Huệ cũng có thái độ tương tự. Ông sai Nhậm ra Bắc Hà diệt Chỉnh, nhưng bởi Nhậm là rể của anh ông vừa đây bất hòa với ông, lòng ông chưa vơi căm giận nên không tin Nhậm mà chỉ tin Ngô văn Sở. Sở với Nhậm trong khi cùng thi hành công tác ở Thăng Long đã lủng củng với nhau rồi, Sở báo cáo Nhậm có ý phản. Tức thì Huệ lên đường tới thủ đô nhà Lê vào đêm khuya bắt Nhậm ra cật vấn, Nhậm trả lời đâu ra đấy nhưng vẫn không khỏi chết. Câu chót của Huệ đã như lời phán quyết cho một bản án tử hình: “Mày không có tội thật nhưng làm cho ta sợ đã có tội rồi”.
Trước con mắt chúng ta ngày nay, các người giỏi không khác gì các con thú dữ. Nếu ở chung một chuồng, chúng phải cắn xé nhau. Chỉ có con nào mạnh nhất thì sống. Các nhà làm chính trị kim cổ đông tây đều thế cả. Nhân nghĩa, đạo đức là những danh từ hầu như vô nghĩa trong các tự điển chính trị. Nếu đây là một sở đoản của người anh hùng Nguyễn Huệ thì đời xưa đời nay mấy người ở vào địa vị Nguyễn Huệ mà không hành động như Nguyễn Huệ?
Và có phải rằng muốn làm anh hùng thì ít sợ tội, phải tàn nhẫn, phải phụ người, hơn là để người phụ mình chăng?
Để kết luận bài này, chúng tôi xin nhắc lại hai điểm: những người có mắt xanh mới thấy anh hùng trong thiên hạ, những người mắt xanh đã tạo nên nhiều danh nhân danh tướng, mà nếu danh tướng danh nhân có công với đời thì người đoán anh hùng giữa buổi trần ai cũng phải được kể là người có công nữa!
Ngoài ra danh nhân, anh hùng đã có nhiều sở trường để làm được những sự nghiệp lẫy lừng, nhiều ơn ích cho nhà cho nước thì thường cũng không mấy ai tránh được khỏi những sở đoản có khi là những nguyên nhân cho những tội lỗi kinh hồn.
Thế mới biết vào đời một cách óng chuốt, ra đời một cách trong sạch, họa chăng chỉ có thánh nhân mà thôi.
Tập san Sử Địa, số 13 (1969)
Kỷ niệm Chiến thắng Xuân Kỷ Dậu. - (Đống Đa)
(Trang 100-113)
Chú thích:
[1] Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, quyển 30, tờ 42b.
[2] Giáo sĩ Doussain trong thư đề tháng 6/1787 viết: “Huệ, Nhạc đánh nhau tới nay đã được ba tháng rồi. Huệ bị mất tới nửa số quân, phải động viên dân chúng khá nhiều”. Giáo sĩ Labartette cũng có viết như vậy vào dịp này, và cũng kể rằng dân bị bắt lính và đã hy sinh nhiều ở chiến trường.
[3] Tên tục của Huệ.