Vài suy nghĩ lịch sử thời Tây Sơn Nguyễn Mộng Giác
Trong mấy năm tìm tài liệu để viết bộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn Mùa Lũ” về cuộc đời vua Quang Trung, tôi nhận thấy các sử liệu về thời Tây Sơn không còn được bao nhiêu, về khung cảnh xã hội và sinh hoạt thời đó, đầy đủ nhất có lẽ là cuốn “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn, cùng một số thư từ bút ký của một số giáo sĩ Thiên Chúa giáo. Trực tiếp kể cặn kẽ giai đoạn lịch sử này là cuốn “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô gia văn phái, mà cho tới nay, vẫn chưa có ai xác định được bao nhiêu phần là lịch sử, bao nhiêu phần là dã sử (nói theo bây giờ là tiểu thuyết). Các bộ sử chính thức của Quốc sử quán triều Nguyễn tuy dành những ngôn ngữ đầy ác cảm và thù hận cho triều Tây Sơn, nhưng vẫn không giấu được sự kính phục kiêng nể. Tuy nhiên, sử liệu do các sử quan triều Nguyễn để lại cũng không rộng và đủ cho bằng “Hoàng Lê Nhất Thống Chí”.
Mãi về sau, ông Hoàng Xuân Hãn trong cuốn “La Sơn Phu Tử” bằng lối làm việc khoa học đã đưa ra một số tài liệu, bút tích mới về vua Quang Trung, đặc biệt là mối quan hệ giữa Vua Quang Trung và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp. Nhờ ông Hoàng Xuân Hãn, người đời sau mới tận mắt thấy được quốc ấn, kiếm ấn cùng chữ viết của Vua Quang Trung (in trong tập đặc san này).
Tài liệu gốc, di tích lịch sử triều Tây Sơn chắc chắn đã bị thiêu hủy đi nhiều sau khi Gia Long lên ngôi và thi hành một chính sách thù hận nhỏ nhen, (vì “chín đời mà trả thù”) đối với triều Tây Sơn, đối với những người cộng tác với anh em Tây Sơn. Trong không khí khủng bố kéo dài trên một thế kỷ ấy, khó có người nào can đảm lưu giữ những dấu tích di liệu của thời đại đầy biến động và kiêu hùng này.
Từ thời Hoàng Xuân Hãn cho xuất bản cuốn “La Sơn Phu Tử” đến nay, giới nghiên cứu sử cả miền Bắc lẫn miền Nam đã viết nhiều về Tây Sơn, bởi nhiều động lực khác nhau. Sách sử của miền Bắc cố ý chứng minh phong trào Tây Sơn là một cuộc cách mạng của nông dân, gán ghép để các biến chuyển lịch sử này phù hợp với cách giải thích lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê.
Ở miền Nam, hai cuốn sách viết về Tây Sơn được chú ý nhất, một là của Linh mục Nguyễn Phương, một của Tạ Chí Đại Trường. Linh mục Nguyễn Phương dựa vào sử sách triều Nguyễn và tài liệu các giáo sĩ để lại, đưa ra một lối nhìn ác cảm đối với Tây Sơn. Linh mục còn đi xa hơn nữa, cho rằng chính Gia Long là người có công nhất trong việc thống nhất đất nước và đem lại hòa bình cho dân, sau bao nhiêu năm phân tranh Nam Bắc.
Tạ Chí Đại Trường thì nhìn phong trào Tây Sơn theo quan điểm xã hội kinh tế học, mạnh dạn đưa ra lập luận mà sau này giới viết sử Miền Bắc cực lực lên án, cho rằng hết sức phản động: ông Trường phủ nhận cái tính chất nông dân cách mạng của phong trào Tây Sơn, và cho rằng chất men tạo ra phong trào, cũng như tầm nhìn xa của người lãnh đạo (nhờ thế mà phong trào thoát ra được tính cách khởi loạn địa phương) là nhờ cái chất thương nhân bắt đầu manh nha ở Nguyễn Nhạc, và sau đó cũng nhờ đầu óc thực tiễn, phóng khoáng và thích ứng nhạy bén của Nguyễn Huệ.
Trong điều kiện thiếu thốn tài liệu hiện nay, chúng tôi không dám đưa ra các lập luận phê bình các quan điểm sử nói trên. Chúng tôi chỉ dám đưa ra một số suy nghĩ, may ra sau này những người có đủ điều kiện hơn sẽ: hoặc tìm ra được bằng chứng để chấp nhận các gợi ý của chúng tôi, hoặc bác bỏ vì những gợi ý này không có căn cứ.
Về vai trò lịch sử của Nguyễn Nhạc
Chúng tôi nghĩ cho tới nay, hậu thế có vẻ đã cư xử bất công đối với Nguyễn Nhạc.
Cho tới nay, chưa có một con đường nhỏ nào ở một thị trấn hẻo lánh nào đó ở Việt Nam mang tên Nguyễn Nhạc. Và có lẽ chưa có ai nghĩ đến chuyện đó. Lịch sử, qua sách vở từ xưa tới nay, nhắc tới Nguyễn Nhạc như một anh thu thuế, một kẻ bạo gan mưu mẹo nhưng chí thì như chí một thổ hào. Càng khâm phục người em út Nguyễn Huệ bao nhiêu thì người ta càng có ác cảm với Nguyễn Nhạc bấy nhiêu, cho ông là một trở ngại trên đường thành công của Vua Quang Trung.
Nếu xem Tây Sơn là một phong trào nổi dậy của quần chúng để chống lại các thế lực cai trị hà khắc đương thời, cả ở Nam Hà lẫn Bắc Hà, thì lịch sử phải ghi công người chủ động phát khởi phong trào. Người đó không ai khác hơn là Nguyễn Nhạc.
Với hiểu biết và kinh nghiệm nhạy bén của một con buôn, với tài giao thiệp, với óc phiêu lưu mạo hiểm, Nguyễn Nhạc đã lãnh đạo phong trào Tây Sơn thành công ở giai đoạn đầu. Thực tiễn, quyền biến, dám dùng người như Nguyễn Hữu Chỉnh, biết tận dụng sức mạnh của những đám cướp biển như Tập Đình, Lý Tài và biết loại bỏ chúng đúng lúc, biết giao tế và tận dụng kinh nghiệm chiến đấu của người thiểu số miền núi, những khả năng ấy không phải các lãnh tụ chính trị Việt Nam về sau này người nào cũng có được. Tây Sơn thiện chiến về hải quân và lối đánh băng rừng thần tốc. Chúng tôi nghĩ những kinh nghiệm hải chiến của Tây Sơn lấy được từ thời kỳ đầu, từ nhóm cướp biển Tập Đình, Lý Tài. Và kinh nghiệm đường rừng phải do các dân tộc thiểu số từng giao dịch buôn bán với Nguyễn Nhạc.
Khuyết điểm lớn nhất của Nguyễn Nhạc là ông chỉ có cái chí nhỏ của một thổ hào. Được làm vua một dải đất từ Quảng Nam vào tới Phú Yên, ông cho là quá đủ. Vì thế, ông lo sợ khi Nguyễn Huệ lấy được Phú Xuân, và hoảng hốt khi nghe tin ông em út dám đem cả quân ra Bắc Hà.
Ông còn có một khuyết điểm khác: ông có một người em xuất chúng. Cả hai khuyết điểm đều không tự do ông, ông không làm ra, trong khi điều do ông can đảm liều lĩnh tạo ra, là gây dựng một phong trào quật khởi, đặt ra những viên đá đầu tiên cho một triều đại oai hùng, thì lại bị đời bỏ quên.
Trình độ hải quân thời Tây Sơn
Hầu hết các chiến công thời Tây Sơn đều do lối đánh thần tốc bất ngờ, và phương tiện chuyển quân là đường biển. Nếu dùng danh từ hiện nay, có thể gọi binh chủng nòng cốt thiện chiến nhất của Tây Sơn là “thủy quân lục chiến”.
Phương tiện vận chuyển là các chiến thuyền. Nhưng những chiến thuyền này dài bao nhiêu, cao bao nhiêu, cách bố trí súng ống thế nào, hiện không có tài liệu lịch sử nào nêu rõ. Chúng tôi nghĩ có hai chi tiết lịch sử từ đó có thể phăng ra trình độ hải quân Tây Sơn lên đến mức nào:
a. Theo sử liệu còn lại, mỗi khi lâm trận, quân Tây Sơn thường khiến cho địch quân khiếp sợ bằng cách xua voi trận lên hàng đầu (giống như xe tăng bây giờ), sau đó là các toán xung kích võ trang bằng “hỏa hổ”. Voi trận được luyện tập để trở thành thiện chiến ở những bãi tập voi tại Tây Sơn (theo truyền thuyết tại địa phương, bà Bùi thị Xuân rất giỏi việc luyện voi), sau đó ở Phú Xuân. Đánh quân Thanh, vua Quang Trung cũng tận dụng tượng binh.
Voi di chuyển chậm, vậy thì muốn tốc chiến, Tây Sơn phải chở voi bằng đường thủy. Chiến thuyền Tây Sơn phải lớn và vững đến mức độ nào mới đủ khả năng chở voi? Rồi làm sao lùa voi từ trên bộ xuống chiến thuyền? Làm sao giữ cho voi trận chịu đứng yên suốt hành trình? Ngay hiện nay, chở một con voi nhỏ cho sở thú đã là một vấn đề, huống chi thời xa xưa.
b. Muốn giải đáp câu hỏi đó, có thể tìm di tích còn nằm sâu dưới đáy đầm Thị Nại (gần thị xã Quy Nhơn hiện nay), nơi xảy ra cuộc hải chiến khốc liệt cuối cùng giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh. Chắc chắn những mảnh ván chiến thuyền bị vùi sâu dưới đáy đầm vẫn còn, và có thể phục hồi tái tạo lại chiến thuyền Tây Sơn ngày xưa.
Một số nghi vấn về bộ binh
Sử sách xưa nay đều bảo rằng sở dĩ quân Tây Sơn đánh được thần tốc là nhờ lối di chuyển bộ binh: hai người lính khiêng võng cho một người nằm nghỉ, cứ thế thay phiên nhau, không phải dừng chân trên đường hành quân.
Trên thực tế, có nhiều người chỉ huy quân sự đã thử làm việc này, kết quả cho thấy nếu làm như vậy, sự chuyển quân sẽ chậm hơn, và binh lính lại mệt hơn khi di chuyển theo lối thường. Giả thuyết trên do đó cần phải xét lại.
Chỉ có một giả thuyết chúng tôi cho là chính xác, là lối dùng bánh tráng để làm lương khô, do nhà văn Võ Phiến đưa ra. Bánh tráng (người Bắc gọi là bánh đa) là thức ăn của cả ba miền Việt Nam. Nhưng lối ăn bánh tráng của người Bình Định thì không đâu có. Ở các nơi khác, bánh tráng là một thức ăn chơi, trong khi ở Bình Định, bánh tráng dùng để thay cho cơm trong các trường hợp khẩn cấp. Ở Bình Định, nhà nào cũng có trữ sẵn bánh tráng, và lối ăn bánh tráng ở đây cũng không “nho nhã” như các nơi khác. Người Bình Định dùng bánh tráng một cách “thực tiễn, quân sự”, ăn để no, chứ không phải dùng bánh tráng để gói ghém món nhậu cho thanh cảnh.
Một tập quán duy nhất chỉ có ở nơi phát tích phong trào Tây Sơn như thế, chứng tỏ bánh tráng là một sáng kiến độc đáo của thời đại này cho vấn đề quân lương.
Chính sách của vua Quang Trung đối với trí thức.
Những sử liệu trong “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” và “La Sơn Phu Tử” cho thấy vua Quang Trung là một người có đôi mắt xanh biết trọng dụng nhân tài, ngay cả những nhân tài đầy óc cơ hội nguy hiểm như Nguyễn Hữu Chỉnh. Những trí thức nho học giúp ích nhiều cho vua Quang Trung về chiến lược quân sự cũng như ngoại giao là Trần văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích.
Nổi bật hơn hết là Ngô Thì Nhậm và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.
Bộ “Ngô Thì Nhậm Toàn Tập” do Hà Nội cho dịch và xuất bản cho thấy thêm tầm vóc lớn lao của người trí thức toàn năng và thức thời này.
Ngô Thì Nhậm gặp vua Quang Trung trong một tư thế bất lợi: lúc đó ông đang bị giới nho sĩ và đồng liêu Bắc Hà tẩy chay cô lập, nói theo bây giờ, ông là “một con bài đã cháy”. Dùng ông về phương diện nhân tâm không có lợi. Nhưng vua Quang Trung có cái nhìn tinh nhạy hơn người. Nhà vua nhận ra ngay khả năng đặc biệt của Ngô Thì Nhậm, và không ngần ngại giao phó trọng trách cho ông. Thế cô lập Ngô Thì Nhậm đang chịu đựng, qua mắt vua Quang Trung, lại là một yếu tố tốt, nhờ vậy, Ngô Thì Nhậm sẽ hết lòng phục vụ, vừa để chứng tỏ tài năng, vừa để thanh minh những dư luận xấu. Do đó mà khi vua Quang Trung về Phú Xuân, sống và làm việc bên cạnh các tướng tá võ biền Tây Sơn và các bạn đồng liêu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm không có một chút mặc cảm nào, mạnh dạn thi thố tài năng của mình.
Vua Quang Trung cư xử với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp theo một mục tiêu khác hẳn. Qua cuốn “La Sơn Phu Tử” của Hoàng Xuân Hãn, chúng tôi chưa thấy có một vị vua nào có thái độ nhún nhường cung kính đến bậc đó đối với một nho sĩ. Thành thật mà nói, khả năng cố vấn và đóng góp của Nguyễn Thiếp không thể so được với Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Thiếp không phải là con người hành động, con người của mưu lược.
Nhưng thời bây giờ, Nguyễn Thiếp là một huyền thoại trong dư luận Bắc Hà. Cuộc sống ẩn dật của ông, tình trạng tâm thần của ông, đã biến ông trở thành cái gì siêu phàm trong dư luận quần chúng Bắc Hà. Quang Trung cư xử cung kính với Nguyễn Thiếp với mục tiêu vận động sự ủng hộ của dân Bắc Hà, như là dùng một huyền thoại.
Quả nhiên, Quang Trung đã thành công. Và trên mặt lịch sử, huyền thoại Nguyễn Thiếp góp phần không nhỏ vào chiến thắng quân Thanh năm 1789.
Chúng tôi mạo muội đưa ra những suy nghĩ trên đây, để mong nhận được những góp ý của các bậc thức giả.
Đặc san Tây Sơn. - Xuân Nhâm Thìn (1988).
(Trang 33-38)