Chính Bình vương và Quang Trung hoàng đế: Hai bước nhảy quyết định--Lê Bửu Tân
Khi viết về Nguyễn Huệ gần như hầu hết những người viết về sử dù ở vị trí nào - thân thiện hay thù nghịch, giáo điều hay cởi mở - đều công nhận Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự kiệt xuất nhất không một lần chiến bại; nơi nào có Nguyễn Huệ là nơi đó địch quân bạt vía kinh hồn khiếp sợ. Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ luôn luôn dùng lối tấn công chớp nhoáng thần tốc “vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp” (Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Ngô gia văn phái). Thêm vào đó những đóng góp của triều đại Quang Trung trong các lãnh vực chính trị, ngoại giao, giáo dục, hành chánh là những đóng góp dù ngắn ngủi nhưng rất sáng chói vì tất cả đều phản ảnh tinh thần tự chủ và tinh thần sáng tạo của dân tộc.
Tuy nhiên khi bàn về một vài quyết định của Nguyễn Huệ, quan điểm của các nhà viết sử không còn thống nhất với nhau mà trong đó việc Nguyễn Huệ đem quân vây đánh Nguyễn Nhạc ở thành Quy Nhơn và việc Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế là hai vấn đề điển hình với nhiều khen chê. Khen chê là lẽ thường nhưng có lẽ là điều lý thú khi chúng ta đọc kỹ lại giai đoạn lịch sử đó và tìm hiểu động lực nào đã đưa Nguyễn Huệ đi đến hai quyết định trên rồi từ đó chúng ta sẽ học được gì?
I.- Vây đánh thành Quy Nhơn
Năm 1785, đánh tan ba chục ngàn quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút Mỹ Tho, rồi liền sang mùa hè năm sau, năm 1786, đập tan cơ đồ của họ Trinh ở Bắc Hà đã được xây dựng trên 240 năm, phong trào Tây Sơn đang như cơn sóng thần cuồn cuộn sẵn sàng cuốn trôi tất cả những thế lực phản động mục nát đang ngoi ngóp quơ quào cố nắm giữ lại những đặc quyền đặc lợi thì thình lình phong trào Tây Sơn phải khựng lại đầy hoang mang và cơ hồ muốn tan rã.
Thật vậy, sau khi được tin báo quân Tây Sơn đã dẹp tan họ Trịnh ở Bắc Hà, Nguyễn Nhạc đã hấp tấp kéo theo một ít quân tùy tùng ngày đêm đi gấp ra Thăng Long để không phải ủy lạo quân Tây Sơn và giúp Nguyễn Huệ ổn định xứ Bắc mà là để bắt ông em phải gấp về Nam. Nguyễn Nhạc đã bàn với Nguyễn Huệ “... vả lại ông trèo đèo vượt suối, đi hàng muôn dặm để mở mang bờ cõi, cho đất nước được rộng thêm; thủ đoạn anh hùng như vậy, anh thực không thể nào sánh kịp. Nhưng mà mình đi xa đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta, một chốc làm thay đổi hết nề nếp cũ của họ như thế, tránh sao khỏi sự thù oán của muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến những việc bất ngờ có thể xảy ra, vì vậy phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông” (Ngô gia văn phái - Hoàng Lê Nhất Thống Chí).
“Nghĩ kế” ở đây là sau khi được Nguyễn Huệ giao lại binh phù, Nguyễn Nhạc bèn thay đổi tất cả các chức vụ và đội ngũ quân Tây Sơn mà Nguyễn Huệ đã dày công sắp xếp khi đưa quân ra diệt Trịnh. “Thế là từ đó, bao nhiêu tướng sĩ lại đều chỉ nghe theo lệnh của ông vua lớn” (Ngô gia văn phái - HLNTC). Lúc Nguyễn Huệ không còn quân ở trong tay, Nguyễn Nhạc mới bàn với Nguyễn Huệ việc rút quân về Nam lại. Dù không muốn vì tình hình còn nhiều rối rắm chưa ổn định, nhưng Nguyễn Huệ cũng phải tuân theo vì đã trót giao binh phù lại cho anh và Nguyễn Huệ bây giờ là tướng không quân.
Bắt ép Nguyễn Huệ về Nam không phải Nguyễn Nhạc sợ để Nguyễn Huệ được tự do hành động thì Nguyễn Huệ sẽ nổi bậc hơn mình, làm lu mờ ngôi vị của mình và có thể nguy hại đến địa vị của mình nữa, mà thực ra mục đích duy nhất của ông là giữ Nguyễn Huệ, người anh hùng số một của thời đại, ở dưới trướng của mình giữ yên bờ cõi và ngôi vua của ông để ông có thể ngồi trên chiếc phản gõ móp mép nhai trầu tiếp khách. Nguyễn Nhạc chỉ muốn làm một ông vua nước nhỏ và sống bình dị trong cái vương triều của ông. Chí ông chỉ có thế, cho nên ông không muốn Nguyễn Huệ đem quân đánh lấy “nước khác”, vì làm như thế chỉ gây vạ cho mình mà thôi:
“Ai ngờ tôi, kẻ ấy là người ngu, Chúa Trịnh bắt quân đi hàng muôn dặm, cố chiếm lấy đất Thuận Hóa, lấy nước lớn làm hại nước nhỏ, nên mới dẫn đến cái vạ ngày nay. Gương ấy há có xa đâu? Tôi nếu tham đất nuớc Nam, như vậy là lấy nước nhỏ mà hại nước lớn, còn mong lâu bền sao được? Giả sử đời tôi giữ được đi chăng nữa, thì đến đời con cháu tôi, cũng không thể nào giữ nổi. Tôi có ngu gì mà nuôi cái mầm vạ ấy? Chẳng bao lâu nữa, anh em tôi sẽ về, các ông nên giúp rập nhà vua cho yên thiên hạ. Hai nước chúng ta sẽ kết nghĩa láng giềng, giữ vững tình hòa hiếu, để cùng hưởng phúc thái bình!” (HLNTC - Ngô gia văn phái).
Tranh với thiên hạ Nguyễn Nhạc còn không tranh thì với em mình làm sao mà ông tranh! Thật vậy, khi trở về Nam sau khi cho đắp lại lũy Thầy cao 19 bộ, dày 1 sào, Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định vương cai quản đất Gia Định, còn Nguyễn Huệ là Bắc Bình vương cai quản từ Quảng Nam ra đến Nghệ An. Đồng thời Nguyễn Huệ cũng được trả lại binh quyền nhưng vẫn còn nhiều trói buộc. Chính sự trói buộc có tính cách chiến lược này làm cho anh em nhà Tây Sơn bất đồng và xích mích với nhau, và cũng chính sự trói buộc này làm cho những người hăng say đầy nhiệt huyết trong phong trào Tây Sơn cảm thấy chán nản và một số đã đào ngũ. Phong trào Tây Sơn đang đứng trước một thử thách vô cùng nguy hiểm.
Cũng vì sự xích mích này giữa anh em Tây Sơn, ở Bắc Hà Nguyễn Hữu Chỉnh - sau khi đuổi được Trịnh Bồng khỏi Thăng Long và được vua Lê phong tước Bằng Quận Công - thấy cơ hội đã đến nên âm mưu đòi lại đất Nghệ An từ tay quân Tây Sơn để biến đất đó thành vùng ranh giới lâu dài, tiếp tục chia cắt đất nước.
Ở trong Nam thì Nguyễn Ánh, sau một thời gian tá túc ở đất Xiêm sau trận đại bại của quân Xiêm ở Mỹ Tho năm 1785, nhờ sự giúp đỡ của một số giáo sĩ Thiên Chúa giáo và quân Xiêm lại lò dò về xây dựng lại lực lượng.
Đất nước đang đứng bên bờ vực thẳm của các thế lực cát cứ. Đứng trước tình trạng vô cùng bế tắc đó, Nguyễn Huệ phải tiếp tục nghe lệnh của vua anh để nhìn thấy phong trào Tây Sơn dần dần đi đến thoái hóa rồi tan rã? Và Nguyễn Huệ tiếp tục làm thinh để nhìn đất nước tiếp diễn cảnh chia cắt phân ly? Không, Nguyễn Huệ, người mà sở dĩ ngày nay dân tộc Việt Nam đã tôn vinh là anh hùng dân tộc, đã không ngồi yên mà vụt dậy nhận lấy trách nhiệm to lớn trước lịch sử, trước dân tộc là quyết tâm dẹp tan tất cả các thế lực đang âm mưu chia cắt đất nước dù thế lực ấy phát xuất từ đâu. Quyết tâm nhận lấy trọng trách to lớn đó được thể hiện qua danh xưng An Nam Đại Nguyên soái Tổng quốc Chính Bình vương khi Nguyễn Huệ mang quân từ Phú Xuân vào vây đánh Nguyễn Nhạc tại thành Quy Nhơn. Nguyễn Huệ đã xưng là Chính Bình vương mà không còn dùng tước vị do vua anh Thái Đức phong cho là Bắc Bình vương. Bắc Bình chỉ là dẹp yên ở phương Bắc còn Chính Bình là dẹp yên tất cả những thế lực nhằm tiếp tục tạo tình cảnh phân liệt gây đồ thán cho nhân dân, trên quy mô cả nước. Đây là một quan điểm dứt khoát. Chỉ có sự dứt khoát và quyết liệt mới có cơ chấm đứt được tình trạng phân hóa cùng cực của đất nước và của dân tộc vốn đã dật dờ kéo dài trên hai trăm năm. Sự dứt khoát không khoan nhượng của Nguyễn Huệ đối với vua anh nói riêng và đối với những thế lực phản động nói chung muốn tiếp tục kéo dài tình trạng phân chia lãnh thổ để tiếp tục hưởng những đặc quyền đặc lợi, tiếp tục làm vua làm chúa, tiếp tục đè đầu cỡi cổ dân đen dưới những chiêu bài đã rách bươm là một thái độ chối từ quyết liệt không chịu thỏa hiệp với những thành phần này. Thỏa hiệp với cơ hội, với vị kỷ, với vọng ngoại, với tự mãn không những không tìm thêm được tá lực cho chủ lực mà còn làm cho chủ lực bị tản lực vì mất đi cái bén nhọn ngụt lửa của khối đoàn kết kiên quyết. Nguyễn Huệ đã bỏ cái cần nên bỏ và giữ cái cần giữ. Cũng chính vì sự quyết định cương quyết và kịp thời trên của Nguyễn Huệ, từ đây phong trào Tây Sơn phải được hiểu là phong trào cách mạng dân tộc được lãnh đạo bởi Nguyễn Huệ; còn một bộ phận khác của phong trào sau chiến dịch diệt Trịnh ở Bắc Hà về đã bị dứt nguồn sinh động cách mạng vì bị Nguyễn Nhạc kềm hãm tù túng ở đất Quy Nhơn.
Sau cái khựng vì mệt mỏi, lãng nghĩa của Nguyễn Nhạc phong trào Tây Sơn đã khôi phục lại được tinh thần cách mạng sinh động của phong trào trước đó qua các chiến thắng quân Xiêm và diệt Trịnh năm 1785 và 1786. Sở dĩ phong trào Tây Sơn được đánh giá thực sự là phong trào cách mạng dân tộc từ năm 1785 trở đi, tức là khi phong trào thực sự được đặt dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, là vì kể từ đó ý chí của phong trào là tranh đấu cho sự thống nhất lãnh thổ, cho niềm tự hào dân tộc, cho sự yên bình và sung túc của toàn dân. Thẩm định giá trị của một phong trào, một đoàn thể hay một cá nhân không thể dựa vào sự thành bại hay là dựa vào các chiêu bài đã được đưa ra mà là dựa vào những đóng góp, cống hiến như thế nào trong suốt quá trình hoạt động của phong trào, đoàn thể hay cá nhân đó. Từ đó ta thấy rằng trước năm 1785, phong trào Tây Sơn chỉ là một lực lượng dù mang tính cách quần chúng rộng rãi và nhiệt thành vẫn chưa được xem là một phong trào cách mạng dân tộc vì phong trào lúc đó chỉ nhằm lật đổ ách thống trị hà khắc của tập đoàn cướp ngày Trương Phúc Loan để rồi thiết lập một chính quyền mới dù có tốt đẹp hơn vẫn còn mang nặng tinh thần cát cứ, sứ quân, không quan tâm đến phần còn lại của dân tộc, của đất nước đang còn đồ thán điêu tàn trong tay những tập đoàn thống trị mục nát khác. Quan điểm của Nguyễn Nhạc ở những đoạn trích dẫn trên và việc quân Tây Sơn tương đối nằm yên trên mười năm ở dải đất từ Quảng Nam vào Bình Thuận đã nói lên điều này. Thêm vào đó mục đích chính của quân Tây Sơn bốn lần vào Nam trước chiến dịch diệt Xiêm năm 1785 không phải đánh đuổi Nguyễn Ánh để bình định miền Nam mà để chở thóc gạo về Trung (theo Tạ Chí Đại Trường). Đáng lẽ sau mỗi chiến dịch đại quân Tây Sơn phải ở lại lâu dài để ổn định miền Nam hòng đánh bật và tiêu diệt tận gốc rễ những cơ sở của Nguyễn Ánh, đàng này sau mỗi chiến dịch là quân Tây Sơn lại rút hết về Quy Nhơn với những chiếc ghe đầy ắp lúa gạo và chỉ để lại một ít quân để gọi là có mặt. Chính sự thiếu quan tâm này mà Nguyễn Ánh mới có nhiều cơ hội rước người Xiêm, người Pháp trở về xây dựng lực lượng vững mạnh sau này.
Tuy nhiên đó không phải là lỗi lẫm cố ý mà chỉ là một hạn chế của khả năng của người cầm đầu phong trào Tây Sơn lúc bây giờ là Nguyễn Nhạc. Lịch sử vẫn ghi công Nguyễn Nhạc và cho phong trào Tây Sơn trong giai đoạn dù không được sáng chói như giai đoạn từ 1785 về sau, nhưng đối với lịch sử Việt Nam giai đoạn đó vẫn là một trong những giai đoạn hào hùng nhất. Nguyễn Huệ đã thấy được những hạn chế đó, nhưng đồng thời cũng công nhận những cống hiến của anh mình cho phong trào cho nên Nguyễn Huệ đã không bao giờ coi anh mình như một trở ngại cho phong trào cách mạng dân tộc đến nỗi cần phải tiêu diệt, mà trái lại Nguyễn Huệ luôn luôn quý trọng anh mình cho đến cuối đời ông.
Thật vậy, qua các thư từ gửi cho La Sơn Phu Tử trước khi lên ngôi Hoàng đế, ta thấy Nguyễn Huệ luôn luôn dùng niên hiệu Thái Đức. Dùng như thế là công nhận Thái Đức là vua của mình. Đặc biệt khi đã là một vị Hoàng đế mà uy quyền và thanh thế đến Thanh triều phải vị nể, Nguyễn Huệ vẫn chứng tỏ cho mọi người thấy rằng lúc nào Nguyễn Nhạc cũng là anh mình và phận làm em phải vâng lời trưởng huynh: “Giờ đây, tuân lệnh đức Hoàng huynh, ta sửa soạn một đạo thủy bộ hùng binh, sẽ thân hành kéo vào đánh bại quân giặc dễ như bẻ gãy cành khô củi mục”. Đây là một đoạn của bài hịch Nguyễn Huệ gửi cho nhân dân hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn ngày 27 tháng 8 năm 1792, tức ngày 10 tháng 7 năm Quang Trung thứ 5, để kêu gọi nhân dân hai phủ này hăng say tham gia đoàn quân chuẩn bị vào tiêu diệt lực lượng của Nguyễn Ánh được quân Xiêm và một số lính Pháp đánh thuê giúp đỡ.
Vì luôn luôn quý trọng anh mình như thế cho nên khi làm một việc chẳng đặng đừng là kéo quân vào vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Huệ chỉ muốn dương oai thanh thế để bắt anh mình chịu ngồi yên với chiếc ngai vàng thu mình làm Tây Chúa đừng cản trở mình và phong trào Tây Sơn lãnh nhiệm vụ cách mạng là tiến công tiêu diệt những lực lượng phản động trên quy mô toàn quốc. Nguyễn Nhạc đã chịu phép. Đây là một chiến thắng chính trị chiến lược nội bộ mang nặng tính tâm lý chứ không phải là một chiến thắng quân sự.
Như vậy nếu từ đầu năm 1785, nhờ sự thúc đẩy của những yếu tố khách quan bên ngoài, phong trào Tây Sơn đã có một bước nhảy quan trọng để từ đó kết hợp được những thành phần dân tộc, những cá nhân đầy nhiệt huyết tham gia phong trào, thì việc Nguyễn Huệ xưng Tổng Quốc Chính Bình vương và đem vây đánh thị uy vua anh không phải để chia phần mà là vượt lên trên cái hạn hẹp địa phương, dòng tộc để vươn tới cái cao cả rộng lớn hơn là sự an nguy của quốc gia dân tộc lại là một bước nhảy quyết định ấn định được cương lãnh của phong trào Tây Sơn làm nền tảng vững chắc cho chiến thắng vang lừng đầu năm Kỷ Dậu sau này.
II.- Lên ngôi Hoàng đế
Sau khi được tự do hành động, không còn bị vua Thái Đức kiềm chế nữa, phong trào Tây Sơn đã cương quyết đứng lên đảm nhận lấy vai trò lịch sử mà đất nước đang cần đến là phải giữ lấy nền thống nhất non yếu vừa được tái lập và sự độc lập của dân tộc vốn đang bị hăm dọa nặng nề bởi những thế lực tối phản động từ mọi phía đang cố gắng nắm lấy quyền hành bằng mọi giá dù giá đó là lãnh thổ tiếp tục chia cắt, là quyền lợi của đất nước, của dân tộc bị bán đứng cho ngoại bang, là đời sống của muôn dân luôn luôn bị bầm dập, điêu linh vì chiến tranh. Phong trào Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ đã kịp thời đập tan âm mưu đen tối của Nguyễn Hữu Chỉnh muốn tái sử dụng sông Gianh chia đôi lãnh thổ hòng bảo vệ giấc mộng quyền lực trùm thiên hạ ở đất Bắc của hắn, đồng thời phong trào Tây Sơn cũng kịp thời loại Vũ văn Nhậm một thành viên có giá của phong trào, đã bỏ mất lý tưởng để cho đầu óc vị kỷ, cá nhân hướng dẫn hành động gây ta thán nơi dân chúng.
Trong khi đó thì ở trong Nam, từ năm 1784, Nguyễn Ánh đã nhờ giám mục Bá Đa Lộc đem theo Hoàng tử Cảnh và cầm đầu một phái đoàn sang Pháp xin cứu viện. Sau một thời gian dài vận động, ngày 28-11-1787, tại Versailles, một hiệp ước đã được ký kết giữa đại diện nước Pháp và “đại diện” cho Việt Nam là giám mục Bá Đa Lộc. Hiệp ước có 10 khoản mà trong đó có những điểm chính là đảo Côn Lôn và cửa biển Hội An đã bị Nguyễn Ánh nhượng hẳn cho Pháp; thêm vào đó người Pháp được độc quyền buôn bán trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Đổi lại Pháp hứa giúp cho Nguyễn Ánh bốn tàu chiến và một đội quân 1.650 người. Nhưng may mắn cho đất nước là tình hình chính trị của Pháp đã bộc phát khủng hoảng nghiêm trọng trong giai đoạn tiền Cách mạng Pháp 1789 nên sau hiệp ước đã không được thi hành. Tuy nhiên, giám mục Bá Đa Lộc đã lại cố gắng vận động giới tư bản Pháp ở Á châu giúp đỡ để mua súng ống và mộ một số tay phiêu lưu về giúp Nguyễn Ánh lúc đó đã về lại đất Gia Định. Đến năm 1788 lực lượng của Nguyễn Ánh ở đây đã được tăng cường nhiều.
Như vậy, sau Xiêm la, Nguyễn Ánh đã mở cửa mời mọc bọn thực dân Pháp vào Việt Nam.
Ở Quy Nhơn thì Nguyễn Nhạc chỉ biết có vùng đất từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận mà không lý gì đến sự trở về của Nguyễn Ánh ở đất Gia Định.
Ngoài Bắc thì những kẻ đón gió, chờ thời nhưng bất tài bất hạnh không được nhân dân ủng hộ đã tranh nhau đi tìm sự đỡ đầu của các thế lực ngoại quốc phương Tây. “Từ ít lâu nay, người ta đếm được khoảng năm hay sáu đối thủ tranh nhau vương vị Bắc Kỳ. Đầu tháng 4, tôi nhận được một đại chứng thư của một trong những tên phiêu lưu tự nhận là một vương triều cũ họ Lý, và là người kế vị chính thống của ngôi vua. Hắn ta dùng những lời lẽ bay bướm nhưng mập mờ đại thể khuyến cáo tôi tán trợ phe hắn. Hắn hứa sẽ dành nhiều đặc quyền cho tôn giáo mà tôi đang truyền bá. Thư đó không đề năm thứ hai Chiêu Thống, mà đề ngày mồng một xuân Mậu Thân.
Ngày 13 tháng 8, tôi nhận được một lá thư của ông Sérard đề ngày 10 cho biết rằng thủ lãnh của một đảng nọ ở Bắc Kỳ vừa mới tuyên bố là con cháu của một vị đại thần tên là Trạng Trình. Hắn còn khoe khoang là được chỉ định làm vua theo một lời sấm truyền mà hắn bảo là lấy trong quyển sấm ký, cuốn này đã được khắc đá và viết bởi sĩ phu trên”.
(Nhật ký hội truyền giáo Bắc Kỳ, Đặng Phương Nghi dịch - Tập san Sử Địa - Saigon 1968)
Trong khi đó thì Lê Chiêu Thống, con cháu của vị anh hùng dân tộc đã cùng toàn dân toàn quân trải qua biết bao khó nhọc suốt mười năm mới đuổi được bọn giặc Bắc phương dành lại nền tự chủ cho dân tộc, đang trốn nhui trốn nhủi mò đường về phương Bắc quỳ mọp dưới chân một tên Tổng đốc của Mãn Thanh để nhờ tên này xin vua Thanh Càn Long đem quân sang giúp hắn lấy lại chiếc ngai vàng mục nát. Không phải Lê Chiêu Thống không ý thức được rằng rước quân thù phương Bắc vào đất nước là bán đứng đất nước và dân tộc cho ngoại bang nhưng cái sân hận của những kẻ suốt đời sống trong nhung lụa, sống ù lỳ bất động trong những đặc quyền đang có đã đặt nặng quyền lợi của gia tộc mình lên trên quyền lợi của tổ quốc. Thêm vào đó, Lê Chiêu Thống cũng như bao kẻ nuôi mộng làm tay sai cho ngoại bang luôn luôn nghĩ rằng dù cho đất nước có bị dày xéo, dân tộc có điêu linh thế nào đi chăng nữa thì quyền lợi của họ cũng không bị mất, họ vẫn tiếp tục sống nhởn nhơ bẩn thỉu trong sự che chở của quan thầy.
Bên cạnh những kẻ lưu manh đầu cơ chính trị sẵn sàng bán rẻ dân tộc và đất nước cho ngoại bang đó, nhân dân Bắc Hà đã nhìn thấy vẻ hiên ngang ngạo nghễ với tấm lòng vì dân vì nước sáng vằng vặc như trăng rằm của người anh hùng áo vải và cái khí thế bừng bừng lửa cách mạng của phong trào Tây Sơn, tất cả đang đứng ở tuyến đầu để bảo vệ tổ quốc và dân tộc. Chính vẻ hiên ngang và cái khí thế bừng bừng đó đã làm cho nhân dân Bắc Hà hăng say tham gia phong trào, và những đại diện nổi bậc nhất của họ là Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch, Đặng Tiến Đông (Đô đốc Mưu). Đó là những người sau này đã có những cống hiến vĩ đại cho chiến thắng xuân Kỷ Dậu, cho việc làm thui chột ý chí phục thù của triều đình nhà Thanh và cho việc phát triển đất nước sau đó. Cũng chính những đại diện này đã chuyển đến cho vị lãnh đạo phong trào Tây Sơn tấm lòng ngưỡng mộ và trông chờ của nhân dân Bắc Hà đến vị anh hùng dân tộc sau khi ông đã thẳng thắn và cởi mở đặt nhân dân Bắc Hà một sự lựa chọn quyết liệt nhưng dân chủ sau khi ông loại bỏ Vũ văn Nhậm trong lần ra Thăng Long lần thứ hai, năm 1788: “Ông hỏi họ thích sống dưới chế độ nào: bị một ông hoàng huyết thống nhà Lê cai trị hay khẩn cầu ông ở lại điều khiển quốc gia để hưởng sự thái bình và vĩnh cửu dưới sự bảo trợ và giúp đỡ của ông. Ông kết luận sắc lệnh đó bằng cách yêu cầu mỗi công dân không phân biệt giai cấp, phẩm tước và địa vị cho biết ý định của họ về việc này”. (Nhật ký hội truyền giáo Bắc Kỳ, Đặng Phương Nghi dịch - Tập san Sử Địa - Saigon 1968)
Từ giã nhân dân Bắc Hà, Nguyễn Huệ về lại Phú Xuân để cùng các cộng sự viên thân tín đầy nhiệt tình cách mạng dân tộc hoạch định những sách lược chuẩn bị đối phó với đội quân xâm lăng phương Bắc chắc chắn sẽ tràn vào đất nước ta lấy cớ có sự yêu cầu của bọn Lê Chiêu Thống và đồng thời cũng vạch ra được những phương thức làm tiêu tan ý chí trả thù của Thanh triều sau khi bại trận. Chính nhờ những chuẩn bị chu đáo này, mà ngày 21 tháng 12 năm 1788 khi được tin báo của Ngô văn Sở từ Bắc Hà cho biết quân xâm lăng Mãn Thanh đã tràn vào chiếm Thăng Long ngày 17 tháng 12 năm 1788, thì nội trong ngày hôm sau tức ngày 22 tháng 12 năm 1788, Nguyễn Huệ đã cáo tế trời đất lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Trung, cho đọc chiếu, xong ra lệnh xuất quân tức khắc.
Tại sao vua Quang Trung đã làm lễ đăng quang vội vàng như vậy trong khi nhân dân Bắc Hà, nhất là tại Thăng Long đang bị quân Thanh hoành hành cướp phá và hãm hiếp? Chắc chắn rằng Quang Trung và những chiến lược gia thân cận bên nhà vua không muốn ngài lên ngôi vua trong cái ý nghĩa thông thường như là một bước đương nhiên để an trị và để bù đắp lại những gian khổ mà những vị vua khai sáng các triều đại đã làm sau một thời gian dài đất nước chìm đắm trong nhiễu nhương điêu linh tang tóc. Thật vậy, Quang Trung vừa cáo tế trời đất lên ngôi xong là lập tức ra lệnh xuất quân và nhà vua đích thân cầm quân dong ruổi ngày đêm ra Bắc. Như vậy Quang Trung lên ngôi không phải để an hưởng mà để gánh lấy những trách nhiệm vô cùng nặng nề trước lịch sử là ấn định những mục tiêu chiến lược vô cùng trọng đại hầu đem lại chiến thắng chắc chắn trước đám giặc dữ đầy tham lam của Bắc phương.
Đối với Nguyễn Huệ, ngôi vua hay bất cứ một chức vụ nào cũng chỉ là phương tiện: “Trời vì hạ dân đặt ra vua, đặt ra thầy, cốt là để giúp thần thượng đế, yên vỗ bốn phương” (Chiếu lên ngôi) chứ không phải là mục đích cần phải tranh đoạt cho nên cả đời của người anh hùng áo vải này lúc nào cũng xem thường những cái danh mà ông gọi là danh hảo. Ông đã giận dữ tâm sự cùng Nguyễn Hữu Chỉnh sau khi vua Lê sắc phong ông làm Quốc Công để ban thưởng cho ông đã dẹp xong họ Trịnh: “Cái chức Nguyên Soái hay Quốc Công có thêm gì cho ta đâu. Chẳng hóa ra vua quan Bắc Hà chực lấy cái danh hão để lung lạc ta sao?” (HLNTC - Ngô gia văn phái). Nguyễn Huệ không thích chức Quốc Công mà chỉ muốn: “Từ nay thần xin bệ hạ sắp đặt giềng mối, yên kẻ trong, nuôi kẻ ngoài, để đưa cõi đời này lên cảnh thái bình. Ấy là thần được ban tặng nhiều lắm vậy!” (HLNTC). Cũng thế về sau này khi đánh tan gần 30 vạn quân Thanh và Thanh triều dù choáng váng và ấm ức nhưng vẫn phải phục tài người anh hùng này nên vua Thanh đã triệu Quang Trung sang Trung Quốc cốt ý để xem mặt nhưng Quang Trung đã khéo léo cử người khác làm giả vương sang Trung Quốc thay mình để mình khỏi phải quỳ lạy vua Thanh khi vào cung điện nhà Thanh. Sau đó Quang Trung cũng nhũn nhặn lấy cớ đau không chịu tiếp sứ nhà Thanh mang chiếu phong vương và phẩm vật ban tặng của Càn Long cũng vì Quang Trung có lòng tự tôn dân tộc rất lớn, đồng thời ông cũng ý thức được rằng vào chầu vua Thanh hay việc có được cái chức An Nam quốc vương mà phải quỳ lạy cả cái mảnh vải vô hồn gọi là “Chiếu” nữa cũng không đem lại lợi lộc gì cho dân tộc và cho cá nhân ông cả. Mặc dù theo quan điểm lúc bấy giờ thì sự “cầu chứng” của các vua Trung Hoa là cái bùa hộ mệnh cho ngôi vua ở đất nước ta, nhưng Quang Trung đã chẳng cần. Ông chẳng cần nhưng đất nước cần sự thanh bình nên ông đã cho người làm giả vương và nhũn nhặn tránh né khỏi làm quê vua Thanh để tránh cuộc can qua. Có lẽ Quang Trung là vị vua, vị quốc trưởng đầu tiên và độc nhất trong lịch sử Việt Nam cho tới hôm nay đã xem thường sự tấn phong, sự công nhận của mẫu quốc, của đàn anh. Và chót hết là việc nhún mình trước nhân dân hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn để “tuân lệnh hoàng huynh” trong khi mình là “ông vua lớn” uy quyền bao trùm cả nước, Quang Trung một lần nữa đã xem cái ngôi vua mà mình đang giữ chỉ là giả tạm, là danh hảo. Danh thực là cái tâm sáng rực như Quang Trung của mình. Và Quang Trung đã lên ngôi với cái quang trung, cái tâm sáng rực kia: “vốn không có chí làm vua” (Chiếu lên ngôi) mà chỉ để “dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi đài xuân” (Chiếu lên ngôi).
Trong khi ở Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc đã quá mệt mỏi, lãng nghĩa dân tộc chỉ muốn làm một ông vua trong biên giới khiêm nhường của mình ở đất Quy Nhơn: “Về phần đại huynh có ý mỏi mệt, tự nguyện giữ một phủ Quy Nhơn, tự nhún xưng là Tây vương” (Chiếu lên ngôi), thì Lê Chiêu Thống bỏ nước bôn vong sang tận Trung Hoa xin nhà Thanh đem quân vào dày xéo đất nước để lấy lại chiếc ngai vàng cho mình. Đất nước đang có hai ông vua, một ông thì an phận mệt mỏi, một ông thì rước giặc vào đất nước, nhân dân thấy ngao ngán và thất vọng vô cùng cho nên toàn dân đã không còn tin tưởng, tín nhiệm vào những ông vua đó nữa. Đất nước có vua mà còn tệ hơn là không vua cho nên nhân dân đã quay về người anh hùng áo vải, người luôn luôn lấy quyền lợi của tổ quốc của nhân dân làm mục tiêu tranh đấu, yêu cầu người lên ngôi vua để đất nước có vua chân chính và rồi cùng họ đối đầu với quân thù. Lúc đó chỉ có Quang Trung và chỉ một mình Quang Trung thôi mới đủ sức hiệu triệu toàn dân lăn xã vào công việc cứu nước.
Như vậy mục tiêu chiến lược trước nhất và quan trọng nhất là an định và kết hợp lòng dân để từ đó ý chí quyết chiến lược thống nhất. Khi ý chí quyết chiến được thống nhất thì giặc dữ có sá gì.
Về mặt quân Thanh thì qua mật dụ của vua Càn Long chỉ thị cho Tôn Sĩ Nghị là nhân cơ hội tốt này vào Việt Nam chúng sẽ tìm cách đóng quân lại lâu dài để kềm chế nhân dân ta và biến Việt Nam thành một quận huyện của Trung Hoa. Để cho sự xâm lăng của chúng được dễ dàng, chúng đã đưa ra chiêu bài đánh “giặc Tây Sơn” để giúp Chiêu Thống, con cháu chính thống nhà Lê, thu hồi lại lãnh thổ và tái lập ngai vàng.
Thấy được dã tâm của nhà Thanh, Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn đã quyết tâm xé rách chiêu bài kia bằng cách Quang Trung đăng quang lên ngôi Hoàng đế để cho quân Thanh biết rằng đất nước của ta đã có vua. Đất nước có vua là đất nước có chủ. Một khi đất nước có chủ thì dân tộc Việt Nam không muốn có sự hiện diện của quân Thanh trên lãnh thổ này. Sự đăng quang của Quang Trung như vậy lại đưa ra một quyết tâm sắt đá là giành lấy quyền tự chủ cho dân tộc để cho giặc Bắc biết rằng: “Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” Đây là một tuyên ngôn tự chủ và quyết chiến của dân tộc, nêu bật được chính nghĩa của phong trào Tây Sơn và để trấn áp óc thực dân của quân Thanh: một lối công tâm. Đây là mục tiêu chiến lược thứ hai của việc đăng quang của Quang Trung.
Còn đối với Lê Chiêu Thống và tập đoàn mục nát của ông ta dĩ nhiên cố bám lấy cái gọi là “chính thống” để tiếp tục ăn trên ngồi trước, tiếp tục cai trị muôn dân. Nhưng chúng đã vỡ mộng khi biết được Nguyễn Huệ đã đăng quang và lấy hiệu là Quang Trung. Vì vỡ mộng cho nên chúng đã một mặt điên cuồng trả thù những người đã cộng tác với phong trào Tây Sơn, một mặt chúng lại lom khom khép nép trước giặc Thanh đến nỗi nhân dân Bắc Hà nói với nhau rằng: “Nước Nam từ khi có đế vương đến nay, chưa thấy bao giờ có ông vua nào luồn cúi đê hèn như thế” (HLNTC). Nhân dân càng thấy rõ hơn bộ mặt của Lê Chiêu Thống.
Như vậy một lần nữa sự đăng quang của Quang Trung còn có ý nghĩa là một sự từ chối quyết liệt không chịu tiếp tục khoang nhượng dung túng Lê Chiêu Thống và tập đoàn. Đó là mục tiêu chiến lược thứ yếu nhưng cũng cần thiết làm cho Lê Chiêu Thống và tập đoàn hành động ngược ngạo trái lòng dân. Trái lòng dân là yếu tố sụp đổ nhanh chóng của vây cánh Thanh - Lê Chiêu Thống đồng thời lại góp phần quyết định cho chiến thắng của đoàn quân Tây Sơn.
Tiếp theo sau lễ đăng quang là những hoạt động nhịp nhàng từ việc ra lệnh xuất quân, tuyển quân, luyện quân đến việc cổ võ tinh thần của ba quân tướng sĩ ở Nghệ An, Thanh Hóa và cuối cùng là trận tổng tấn công vào quân Thanh đầu năm Kỷ Dậu, tất cả đều chứng tỏ rằng Quang Trung và những cộng sự viên đắc lực của nhà vua đã hoạch định kỹ càng từng chi tiết cho chiến dịch mà trong đó việc đăng quang của vua Quang Trung là một quyết định tối quan trọng ấn định được thế chiến lược tất thắng của dân tộc. Đó là một bước nhảy quyết định vậy.
Tạp chí Tây Sơn - Xuân Kỷ Tỵ (1989)
(Trang 32-44)