ĐƯỜNG CADFAN
“Cháu thấy chưa?” dì Jen nói. “Dì đã bảo cháu là mây sẽ tan mà.”
Will nuốt nốt miếng thịt lợn muối hun khói cuối cùng. “Nhìn thì sẽ chẳng ai nghĩ vẫn là cùng một xứ. Tuyệt thật.”
Ánh mặt trời buổi sáng chan hòa như những dải lụa vắt qua các ô cửa sổ của căn bếp dài trong trang trại. Ánh nắng lấp lánh trên mặt sàn lát đá, trên những món đồ sứ men xanh xếp trên cái tủ khổng lồ màu đen; trên chiếc giá đầy những vại bia hình ông già đội mũ ba góc đang mỉm cười tươi tắn nằm bên trên lò bếp. Một dải cầu vồng nhảy nhót trên trần thấp, được phản chiếu lên bởi một tia nắng rọi vào tay cầm của cái bình sữa thủy tinh.
“Trời cũng ấm hơn nữa” dì Jen nói. “Dì dượng sẽ có tiết thu muộn cho cháu đây, Will. Và cũng sẽ vỗ béo cháu nữa, cưng ạ. Cháu ăn thêm miếng bánh mì nữa đi.”
“Ngon lắm ạ. Mấy tháng rồi cháu chưa ăn nhiều thế này.” Will ngắm nhìn dì Jen bé nhỏ đang đi đi lại lại trong bếp với vẻ yêu mến. Nói đúng ra thì dì không phải là dì ruột của cậu, mà chỉ là em họ của mẹ cậu; nhưng hai người đã lớn lên cùng nhau, họ rất thân thiết và giờ vẫn còn viết thư cho nhau luôn. Nhưng dì Jen đã rời Buckinghamshire từ lâu rồi; chuyện của dì là một trong những câu chuyện lãng mạn hơn cả của gia đình, chuyện dì đã đến Wales vào một kỳ nghỉ như thế nào, rồi say như điếu đổ một chàng nông dân trẻ tuổi người Wales và không bao giờ quay về nhà nữa ra sao. Giờ thậm chí giọng nói của dì nghe cũng giống giọng người Wales - và trông bề ngoài dì cũng giống người Wales nữa, với thân hình nhỏ nhắn, tròn trĩnh và cặp mắt sáng màu sẫm.
“Dượng David đâu ạ?” cậu hỏi.
“Chắc đang ở đâu đó ngoài sân. Vào kỳ này trong năm việc chăn cừu bận bịu lắm, các trang trại trên núi sẽ gửi những đàn cừu một tuổi của họ xuống để tránh rét... dượng ấy sắp phải đến Tywyn rồi, không biết cháu có muốn đi cùng không. Trời nắng thế này, cháu ra biển được đấy.”
“Thích quá.”
“Nhưng nhớ là không được xuống nước đâu,” dì Jen vội nói ngay.
Will bật cười. “Cháu biết, cháu vẫn còn yếu, cháu sẽ cẩn thận mà... Cháu thích đi lắm ạ. Cháu sẽ gửi cho mẹ một cái bưu thiếp để mẹ biết cháu đã đến nơi nguyên vẹn.”
Một tiếng loảng xoảng cùng một bóng người bước qua ngưỡng cửa; đó là anh Rhys, đầu tóc rối bù, vừa đi vừa cởi chiếc áo khoác ngoài. “Chào buổi sáng, Will. Em còn để lại ít thức ăn nào không đấy?”
“Anh đến muộn rồi,” Will trêu chọc.
“Muộn à?” anh Rhys lừ mắt nhìn cậu, giả vờ giận dữ. “Nghe nó nói mà xem - trong khi hai người chúng tôi thì phải làm quần quật từ sáu giờ sáng, chẳng có gì bỏ bụng ngoài một chén trà. Sáng mai, bác John ạ, bác cháu mình phải kéo thằng khỉ này ra khỏi giường và đưa nó theo mới được.”
Sau lưng anh, một tiếng cười trầm trầm cất lên. Một khuôn mặt Will chưa từng trông thấy bao giờ bỗng thu hút sự chú ý của cậu.
“Will, đây là John Rowlands. Người nuôi cừu giỏi nhất trên toàn xứ Wales này.”
“Và là người chơi đàn hạc hay nhất nữa chứ,” dì Jen thêm vào.
Đó là một khuôn mặt xương xương, gò má nhô cao, những nếp nhăn khắp nơi giờ xô lên viền quanh mắt vì cười. Cặp mắt sẫm màu, nâu như màu cà phê; mái tóc đã thưa thớt cũng màu sẫm, hai bên thái dương điểm bạc; và khuôn miệng đẹp, đặc trưng của người xứ Xentơ Trong một lúc lâu Will nhìn chăm chú như bị thôi miên; có một sức mạnh kỳ lạ, không thể định nghĩa nổi ở ông John Rowlands này, mặc dù người ông không lấy gì làm to cao cho lắm.
(*) (Khối cộng đồng ngôn ngữ và văn hóa bao gồm Ireland, Scotland, Wales, đảo Man, vùng Cornwall của Anh và vùng Brittany của Pháp).
“Croeso Will,” John Rowlands nói. “Chào mừng cháu đến Clwyd. Bác đã được nghe chị cháu kể về cháu, mùa xuân năm ngoái.”
(*) (Chào mừng, hoan nghênh),
“Trời đất ơi,” Will kinh ngạc buột miệng thốt và mọi người cười phá lên.
“Không có điều gì xấu đâu,” ông Rowlands mỉm cười nói. “Mary thế nào rồi?”
“Chị ấy khỏe ạ,” Will đáp. “Chị ấy bảo dịp Phục sinh năm ngoái chị ấy ở đây vui lắm. Hồi đó cháu cũng đi chơi xa. Cháu đi Cornwall.”
Cậu im bặt, mặt cậu đột nhiên đờ ra thật khó hiểu. John Rowlands liếc nhìn cậu một cái thật nhanh, rồi ngồi xuống bên bàn nơi anh Rhys đã thủ thế sẵn sàng bên đĩa thịt lợn muối và trứng. Dượng của Will bước vào, tay cầm một xấp báo.
"Cwpanaid o de, cariad? " di Jen hỏi khi nhìn thấy ông.
(*) (Anh uống một chén trà nhé?)
“Diolch yn fawr, David Evans đáp, đón lấy chén trà bà vợ trao cho. “Xong rồi anh phải đi Tywyn ngay đây. Cháu muốn đi cùng không, Will?”
(*) (Cảm ơn em nhiều)”
“Có ạ.”
“Chúng ta sẽ đi một hai tiếng đấy." Dượng David luôn thốt ra từng từ thật rõ ràng; ông có dáng người thấp bé, nét mặt sắc sảo, nhưng trong cặp mắt sẫm màu đôi khi lại có một vẻ mơ màng, tư lự đến không ngờ. “Dượng phải đến ngân hàng, rồi đi gặp Llew Thomas, rồi lại phải đi mua một cái lốp mới cho chiếc Land-Rover nữa. Cái xe đã nhảy chồm lên không trung và bị thủng lốp ấy mà.”
Anh Rhys, miệng đang đầy thức ăn, lúng búng lên tiếng phản đối. “Kìa, bố,” anh vừa nuốt vừa nói. “Con biết nói thế này thì nghe thật ngớ ngẩn, nhưng con không điên, và không gì có thể làm cho cái xe lật nghiêng sang bên rồi đập vào tảng đá như thế. Trừ phi là tay lái đã bị hỏng.”
“Tay lái của cái xe đó không làm sao hết,” David Evans đáp lại.
“Chính thế đấy!” anh Rhys phẫn nộ khuỳnh tay ra. “Con đã bảo bố là nó tự nhiên lật sang bên mà. Bố cứ hỏi Will mà xem.”
“Đúng thế đấy ạ,” Will nói. “Chiếc xe tự nhiên ngả sang bên và đập vào tảng đá đó. Cháu không biết cái gì có thể làm cho nó nghiêng đi như thế, trừ phi nó đã cán phải một hòn đá trên đường – nhưng nếu thế thì đó phải là một hòn đá rất to. Mà xung quanh đấy thì chẳng có hòn đá nào cả.”
“Hai anh em đã thành đồng minh chặt chẽ gớm nhỉ,” dượng của cậu nói. Ông uống cạn tách trà, đưa mắt nhìn hai anh em qua mép chiếc tách; Will không biết liệu có phải ông đang cười cậu và anh Rhys không. “Thôi được, dượng sẽ kiểm tra lại bánh lái. Ông John và Rhys này, cái chỗ hàng rào mới trồng thêm cho khoảng fridd ấy mà...”
(*) (bãi nhốt cừu)
Họ tiếp tục nói với nhau bằng tiếng Wales mà không để ý. Nhưng Will thì không bận tâm. Cậu còn mải tìm cách xua đuổi một giọng nói đang cất lên trong tâm trí cậu, một giọng nói phi lý với một gợi ý cũng phi lý không kém. “Nếu họ muốn biết cái gì đã làm cho chiếc xe bị lật” giọng nói đó đang thì thầm với cậu, “sao họ không hỏi Caradog Prichard ấy?
* * *
Ông David Evans thả Will xuống ở một quầy bán báo nhỏ cho cậu mua mấy tấm bưu thiếp, rồi nổ máy bình bịch lái chiếc Land-Rover đến chỗ sửa xe. Will mua một tấm thiếp in hình một mặt hồ thẳm tối bí hiểm, bao quanh là những ngọn núi đặc trưng xứ Wales, rồi viết “CON ĐẾN NƠI RỒI! Mọi người gửi lời chào cả nhà,” rồi đem tới bưu điện, một tòa nhà đỏ không lẫn vào đâu được nằm ở góc Đại lộ Tywyn, để gửi cho mẹ cậu. Sau đó cậu nhìn quanh mình, băn khoăn không biết nên đi đâu tiếp theo.
Chọn bừa một đường, hy vọng có thể ra được biển, cậu liền rẽ phải và đi theo Đại lộ hẹp, quanh co. Chẳng mấy chốc cậu đã nhận ra rằng đường này không hề dẫn ra biển: trên đường chẳng có gì khác ngoài cửa hàng, nhà ở, một rạp chiếu phim với cái mặt tiền đường bệ kiểu Victoria có trưng biển PHÒNG HỘI NGHỊ, và cái cổng quàn có mái lợp đá của nhà thờ.
Will rất thích khám phá các nhà thờ; trước khi bị ốm, cậu và hai người bạn ở trường đã đạp xe đi khắp quanh vùng thung lũng sông Thames để dập bia. Cậu liền đi vào sân nhà thờ để xem ở đó có tấm bia nào không.
Mái vòm của nhà thờ thấp và sâu như một cái hang; bên trong nhà thờ lờ mờ tối, mát lạnh, với những bức tường vững chãi quét vôi trắng và những cây cột trắng khổng lồ. Trong nhà thờ không có ai. Will không tìm thấy tấm bia nào để dập cả, chỉ thấy mấy đài tưởng niệm dành cho các nhà hảo tâm với những cái tên không thể phát âm nổi, ví dụ như Gruffydd ap Adda ở Lâu Đài Ynysymaengwyn chẳng hạn.
Khi đi ra, cậu thấy ở phía cuối nhà thờ có một tảng đá dài màu xám dựng đứng, có khắc mấy chữ quá cổ cậu không thể hiểu được. Cậu ngây người ra ngắm nó một hồi lâu; dường như nó là một điềm báo gì đó, nhưng là điềm báo gì thì cậu không biết. Thế rồi, lúc đi ra cái cổng vòm, cậu lơ đãng ngước lên tấm bảng thông báo đề mấy tin tức vụn vặt của giáo khu, và nhìn thấy cái tên: Nhà thờ Thánh Cadfan.
Tiếng ù ù như gió thổi lại dâng lên trong tai cậu; cậu loạng choạng khuỵu xuống một chiếc ghế băng thấp đặt dưới cổng vòm. Đầu óc quay cuồng, cậu lại đột ngột rơi vào cái cảm giác rối loạn khủng khiếp của trận ốm, khi cậu nhận ra rằng một điều gì đó, một thứ gì đó hết sức quý giá, đã tuột khỏi trí nhớ của cậu, hay đã bị lấy đi mất. Những từ ngữ rời rạc thoáng hiện ra trong đầu cậu, không có thứ tự, không có ý nghĩa gì hết, rồi bỗng nhiên cả một cụm từ xuất hiện, đột ngột như một con cá lao lên khỏi mặt nước: “Trên Đường Cadfan nơi chim cắt gọi nhau..” Trí não của cậu vội vàng chộp lấy nó, cố vươn ra tìm kiếm xem có gì hơn nữa không. Nhưng chẳng còn gì cả. Tiếng ầm ầm trong tai cậu biến mất; Will mở mắt ra, lấy lại hơi thở đều đặn, và dần dần thấy bớt choáng váng. Cậu khe khẽ đọc to lên, “Trên Đường Cadfan nơi chim cắt gọi nhau... Trên Đường Cadfan...” Bên ngoài, dưới ánh mặt trời, các tấm bia mộ bằng đá xám và lớp cỏ xanh sáng lên, đây đó những giọt mưa từ ngày hôm qua còn đọng lại trên các cọng cỏ dài nhất ánh lên lấp lánh như ngọc. Will nghĩ, “Vào ngày vong nhân.....Vua Xám... hẳn đó là một lời cảnh báo gì đó về Vua Xám...thế còn đường Cadfan thì là cái gì?”
“Bực quá,” cậu tức tối buột miệng nói to,“giá mà mình nhớ được nhỉ!”
Cậu liền đứng bật dậy và quay trở lại quầy bán báo. “Chị ơi,” cậu hỏi, “ở đây có sách hướng dẫn về nhà thờ hay về thị trấn này không ạ?”
“Về Tywyn thì không,” cô gái đứng quầy có cặp má đỏ hồng đáp lại bằng cái giọng Wales luyến láy của mình. “Em đến muộn quá, mùa du lịch đã qua mất rồi... nhưng chị nghĩ là ông Owen có bán mấy tờ rơi giới thiệu trong nhà thờ đấy. Và nếu em muốn thì quyển này cũng được. Có giới thiệu nhiều đường đi dạo rất đẹp.” Cô gái chỉ cho cậu một cuốn Hướng Dẫn Du Lịch vùng Bắc xứ Wales, giá ba mươi lăm xu.
“Thôi được,” Will nói, lôi tiền ra với vẻ hơi miễn cưỡng. “Em nghĩ là dù sao thì em cũng có thể đem nó về nhà.”
“Đó là sẽ một món quà rất tuyệt đấy,” cô gái thành thực nói. “Có nhiều ảnh đẹp lắm. Và em cứ thử ngắm cái bìa mà xem!”
“Cảm ơn chị” Will nói.
Khi ra đến ngoài, Will đọc thấy quyển sách nói rằng người Saxon đã đến định cư ở Tywyn vào năm 516 sau Công nguyên, dựng nên thị trấn này xung quanh ngôi nhà thờ được xây bởi Thánh Cadfan xứ Brittany và chiếc giếng thiêng của người, rằng tảng đá có khắc chữ trong nhà thờ được coi là bản chữ viết tiếng Wales cổ nhất còn tồn tại, và được dịch ra như sau: “Thi thể của Cyngen nằm ở phía bên, giữa những nơi sẽ được đánh dấu. Ở chỗ lõm bên dưới gò đất này là vùng Cadfan mở rộng, đau buồn vì nó lại giam giữ một con người được toàn thể thế gian tôn kính. Mong người được an nghỉ, không phải chịu một vết nhơ nào.” Nhưng nó không nhắc gì đến Đường Cadfan. Và cả tờ rơi giới thiệu về nhà thờ cũng vậy, khi cậu xem qua.
Will tự nhủ: mình không cần biết về Cadfan, mình cần biết về Đường của ông ta cơ. Con đường là một lối đi. Một con đường nơi chim cắt gọi nhau hẳn phải là một lối đi xuyên qua đồng hoang hay dẫn lên núi.
Ý nghĩ về con đường ấy đã làm cậu quên cả bờ biển, khi lát sau cậu lơ đễnh dạo bước hồi lâu giữa những con đê chắn sóng dọc theo bãi biển đầy gió. Lúc cậu gặp lại dượng David để quay về trang trại, ông cũng chẳng giúp được gì hơn.
“Đường Cadfan ấy à?” David Evans hỏi. “Ờ, phải đọc là Cadvan mới đúng; chữ f trong tiếng Wales luôn được đọc là v…Đường Cadfan…Không. Cháu biết không, nghe cũng hơi quen quen đấy. Nhưng dượng không biết, Will ạ. Nếu muốn hỏi những chuyện như thế thì cháu phải hỏi John Rowlands ấy. Đầu óc ông ấy như là một quyển bách khoa toàn thư, đúng thế, đầy những câu chuyện cổ xưa”
John Rowlands đang bận ở đâu đó ngoài đồng nên trong lúc này Will đành phải tự bằng lòng với một tấm bản đồ đã được giở ra gấp vào không biết bao nhiêu lần. Chiều hôm ấy cậu đem theo nó khi một mình đi ra vùng thung lũng đầy nắng, để dạo quanh trang trại theo con đường mà dượng David đã vạch ra cho cậu bằng bút chì. Clwyd là khu trại nằm ở vùng đất thấp, trải rộng trên phần lớn thung lũng Sông Dysynni; một phần đất trang trại là đầm lầy nằm gần sông, và một phần kéo dài lên sườn núi dốc toàn đá đủ màu xanh, xám, phủ đầy dương xỉ diều hâu màu nâu. Nhưng phần lớn đất đai của trang trại đều là thứ đất thung lũng tươi tốt, màu mỡ và dễ trồng trọt, một khoảng mới được cày xới sau khi vụ mùa năm đó đã được thu hoạch, trong khi tất cả phần đất còn lại thì được dùng làm đồng cỏ nuôi đàn bò đen xứ Wales khỏe mạnh, chắc nịch. Chỉ có cừu mới gặm cỏ trên núi. Một số sườn núi dốc ở dưới thấp cũng đã được cày, nhưng Will thấy chúng dốc đứng đến nỗi cậu cứ băn khoăn không hiểu làm sao mà cái máy cày lại không bị lộn nhào. Bên trên những thửa ruộng đó không còn gì mọc được ngoài dương xỉ diều hâu, mấy bụi cây bị gió vặn cong, cùng với cỏ; ngọn núi vươn lên như chạm tới trời, và thỉnh thoảng tiếng kêu vu vơ trầm đục của một con cừu lại vọng xuống phá vỡ sự yên tĩnh của buổi chiều ấm áp.
Thật bất ngờ, nhờ vào một âm thanh khác mà cậu lại tìm được John Rowlands. Khi đang đi qua một cánh đồng của trang trại Clwyd, hướng về phía con sông, với bờ rào cây dại ở một bên và mặt đất sẫm màu mới được cày lật lên ở bên kia, cậu lờ mờ nghe thấy tiếng thình thịch ở đâu đó phía trước mặt. Rồi đột nhiên, ở khúc quanh của cánh đồng, cậu trông thấy một dáng người đang chuyển động đều đều và nhịp nhàng như đang biểu diễn một điệu nhảy chậm rãi. Cậu dừng lại và mê mải ngắm nhìn. Ông Rowlands, áo mở phanh, một chiếc khăn tay màu đỏ buộc quanh cổ, đang tạo ra một sự biến đổi thần kỳ. Ông di chuyển dọc theo hàng rào, trước hết là cẩn thận chặt chỗ này chỗ kia bằng một thứ dụng cụ đáng sợ nom như pha trộn giữa một cái rìu với thanh đoản kiếm của bọn cướp biển, rồi ông đặt dụng cụ này xuống và vừa kéo vừa đan những gì còn lại trên bụi cây dài, rậm rạp vào với nhau.
Trước mặt ông, bờ giậu mọc cao và hoang dại, những cành cây lộn xộn vươn ra đủ mọi hướng trong khi các cây dẻ và táo gai cố vươn lên thành cây to. Phía sau, trong khi tiến lên không hề ngừng nghỉ, ông để lại một bờ rào gọn ghẽ thế chỗ chúng: hàng hàng những cành cây đã được cắt tỉa vươn lên ngang thắt lưng như những mũi giáo, mỗi cành thứ năm lại bị bẻ xuống thành góc vuông một cách không thương tiếc để cài vào những cành khác, như một tấm phên vậy.
Will im lặng ngắm nhìn cho đến khi ông Rowlands nhận ra có cậu ở đó và đứng thẳng lên thở hổn hển. Ông tháo chiếc khăn tay màu đỏ ra, lấy nó lau trán rồi lại buộc hờ quanh cổ. Trên khuôn mặt nâu sạm đầy nếp nhăn của ông, những nếp nhăn quanh cặp mắt sẫm màu hơi hướng lên trên một chút khi ông nhìn Will.
“Bác biết rồi,” ông nói, cái giọng mượt như nhung vang lên hết sức nghiêm trang. “Cháu đang nghĩ, cái bờ giậu tuyệt vời đang mọc khỏe thế này, đầy lá xanh và quả táo dại, vươn lên đến tận thiên đường, thế mà ông già này lại chặt nát nó ra như lão đồ tể xả thịt con cừu, biến nó thành một cái hàng rào trần trụi xấu kinh, toàn khung xương và chẳng còn tí duyên dáng nào.”
Will nhe răng cười. “Dạ,” cậu nói. “Cũng đại loại như thế ạ."
“À, John Rowlands nói. Ông ngồi xổm xuống, đặt đầu chiếc rìu lên nền đất giữa hai đầu gối mình và tựa vào đó. “Duw cũng may là cháu đã đến đấy. Bác không còn làm được nhanh như trước kia nữa. Rồi, để bác cho cháu biết điều này, nếu chúng ta cứ để cái bờ giậu tuyệt đẹp này mọc hoang như nó đang mọc bây giờ, và đã mọc như thế quá lâu rồi, thì chưa đến chừng này sang năm là nó sẽ lấn hết cả nửa cánh đồng đấy. Và mặc dù bác đang cắt mất đầu và cả nửa thân mình của nó, đến mùa xuân tới, những cái cành non bị bẻ xuống một cách đáng buồn mà cháu nhìn thấy kia sẽ mọc ra nhiều chồi mới đến nỗi cháu sẽ chẳng nhận thấy có gì khác biệt đâu.”
(*) (Chúa ơi, trời ơi),
“Nghe bác nói thế cháu mới nhớ” Will nói, “đúng rồi, tất nhiên, hàng rào nhà cháu ở Bucks cũng phải tỉa giống thế. Chỉ có điều là cháu chưa bao giờ nhìn thấy ai tỉa hàng rào thôi.”
“Bác đã để mắt đến cái bờ giậu này cả năm nay rồi,” John Rowlands nói. “Mùa đông vừa rồi nó đã bị bỏ quên. Nó cũng giống như cuộc đời vậy, Will ạ - đôi khi dường như cháu phải gây đau đớn cho một vật gì đó để giúp nó. Nhưng cũng không phải là cái gì đau đớn kinh khủng cho lắm, tạ ơn trời.” Ông lại đứng lên. “Trông cháu đã khỏe hơn rồi đấy, bachgen ạ. Ánh nắng xứ Wales này quả là có lợi cho cháu.”
(*) (cậu bé)
Will cúi xuống nhìn tấm bản đồ trong tay. “Bác Rowlands ơi,” cậu hỏi, “bác có biết gì về đường Cadfan không ạ?”
Người đàn ông xứ Wales đang đưa một ngón tay sạm nâu vuốt dọc theo mép cái cuộc chim của ông; tay ông cứng đờ trong một giây, rồi lại tiếp tục “Cái gì đã làm cho cháu nghĩ đến điều đó nhỉ?”
“Cháu cũng không biết nữa. Chắc cháu đã đọc được ở đâu đó. Thế có con đường nào tên là đường Cadfan không ạ?”
“Ồ có, có chứ,” John Rowlands đáp lại. “Llwybt Cadfan. Nó chẳng có gì là bí mật cả, nhưng ngày nay phần lớn mọi người đã quên mất nó rồi. Bác nghĩ là họ đã đặt tên cho một con đường ở gần khu quy hoạch mới ở Tywyn là Phố Cadfan... Thánh Cadfan là một nhà truyền giáo người Pháp, từ thời Brittany, Cornwall và Wales vẫn còn có quan hệ gần gũi. Một ngàn bốn trăm năm trước, người đã xây một nhà thờ ở Tywyn, và đào một cái giếng thiêng nữa - họ còn nói rằng chính người cũng đã thành lập một tu viện ở Enlli, tiếng Anh gọi là đảo Bardsey. Cháu biết đảo Bardsey chứ, nơi người ta thường đến quan sát các loài chim, nó nằm ở đầu phía Bắc xứ Wales ấy mà? Khách du lịch thường đến thăm Tywyn và đi tiếp đến Bardsey - người ta bảo có một con đường hành hương đi qua ngọn núi từ Machynlleth đến Tywyn, ngang qua Abergynolwyn. Và chắc chắn là nó cũng đi qua bên cạnh thung lũng này nữa. Hoặc là ở một chỗ cao hơn trên núi. Phần lớn các con đường cổ đều men theo các sườn núi cao, ở đó an toàn hơn. Nhưng giờ thì chẳng ai biết phải tìm Đường Cadfan ở đâu cả.”
“Ra thế,” Will nói. Thế đã là quá đủ: giờ cậu biết mình sẽ tìm được Con Đường ấy, nếu có thời gian. Nhưng mỗi lúc trôi qua cậu lại càng cảm thấy rằng mình chỉ còn lại rất ít thời gian; rằng điều cấp bách là sứ mệnh này, cái sứ mệnh đã bị xóa khỏi trí nhớ của cậu một cách kỳ lạ đến thế, phải được hoàn thành thật sớm. Vào ngày vong nhân... Và sứ mệnh đó là gì, phải thực hiện ở đâu, và tại sao? Giá mà cậu có thể nhớ lại...
John Rowlands lại quay trở lại với cái bờ rào. “Thôi...
“Gặp lại bác sau ạ,” Will nói. “Cháu cảm ơn bác. Cháu đang cố đi hết một vòng quanh trang trại đây.”
“Đi từ từ thôi nhé. Cả quãng đường ấy cho người mới ốm dậy đi là hơi dài đấy.” Ông Rowlands đột nhiên đứng thẳng lên và chỉ một ngón tay vào cậu vẻ cảnh cáo. “Và nếu cháu đi lên thung lũng, đến đầu Craig yr Aderyn - đường kia kìa - thì nhớ phải kiểm tra lại đường trong bản đồ, và đừng có đi quá đất của dượng cháu. Phía ấy là trang trại của Caradog Prichard, lão ta đối xử với những kẻ xâm phạm lên đất đai của mình không lấy gì làm tử tế đâu”
Will nhớ lại cặp mắt hiểm ác viền lông mi nhạt màu trên khuôn mặt đầy giễu cợt mà cậu đã nhìn thấy trong chiếc Land-Rover cùng với anh Rhys “Ồ,” cậu nói. “Caradog Prichard. Cháu nhớ rồi ạ. Cảm ơn bác. Diolch yn fawr. Nói thế đúng không ạ”
Gương mặt của John Rowlands hằn đầy lên những nếp nhăn của một nụ cười. “Không tệ lắm đâu,” ông nói. “Nhưng có lẽ cháu chỉ nên nói diolch (Cám ơn) thôi.”
Tiếng búa bổ thình thịch nhẹ nhàng của ông nhỏ lại dần sau lưng Will rồi biến mất giữa tiếng vo ve của bầy côn trùng trong buổi chiều đầy nắng, xen lẫn tiếng chim hót và tiếng cừu be be. Con đường Will đang men theo đi qua một bên thung lũng lúc nào cũng thấy dải núi xanh xám vươn lên trước mặt, càng đi tới nó càng chắn mất nhiều khoảng trời hơn. Chẳng mấy chốc cậu đã phải trèo, rồi lớp dương xỉ diều hâu bắt đầu thế chỗ cho lớp cỏ, tạo thành một tấm thảm xào xạc cao ngang đầu gối, điểm rải rác mấy bụi kim tước gai xanh tươi với những bông hoa vẫn còn vàng rực giữa các thân cây đầy gai sắc nhọn hoắt. Không có bờ giậu nào leo được lên núi, thay vào đó là một bức tường xếp bằng đá, trên phủ đá phiến, uốn lượn theo từng khúc quanh, đây đó là mấy bậc thang đủ thấp cho người bước qua nhưng lại quá cao khiến cho bầy cừu không thể trèo lên được.
Will thấy mình hết hơi nhanh hơn mọi khi rất nhiều. Ngay khi vừa đến một tảng đá to vừa đủ để ngồi, cậu liền hổn hển sụp xuống một cách đầy biết ơn. Trong lúc đợi lấy lại sức, cậu cúi xuống xem tấm bản đồ một lần nữa. Có vẻ là phần đất của trại Clwyd dừng lại ở lưng chừng núi - nhưng tất nhiên, không có gì đảm bảo là cậu sẽ tìm thấy con đường cổ của Cadfan trước khi đến được đường ranh giới. Cậu bỗng lo lắng hy vọng rằng phần còn lại của trái núi trên kia không phải là đất của Caradog Prichard.
Nhét tấm bản đồ vào túi, cậu lại đi tiếp, trèo lên cao hơn, xuyên qua những phiến lá dương xỉ khô kêu lạo xạo. Giờ cậu đang leo theo góc chéo vì sườn núi đã trở nên dốc hơn. Chim bay tán loạn tránh đường cậu; đâu đó trên cao, một con chim chiền chiện đang véo von hót bài ca réo rắt của mình. Rồi đột nhiên, Will bắt đầu có một cảm giác kỳ quặc, không sao hiểu nổi, là mình đang bị bám theo.
Cậu đứng sững lại, quay phắt về phía sau. Không có gì chuyển động. Con dốc phủ lá dương xỉ nâu vẫn nằm yên bình dưới ánh mặt trời, những mỏm đá trắng nhô lên đây đó sáng lấp lánh. Một chiếc ô tô rồ máy chạy qua con đường bên dưới, nhưng đã bị lá cây che kín; giờ cậu đang ở rất cao bên trên trang trại, nhìn xuống con sông uốn lượn như một dải bạc, phía sau là những dãy núi vươn lên với đủ màu lục, xám, nâu rồi chìm dần vào màu xanh da trời ở đằng xa. Cao hơn bên trên thung lũng, sườn núi chỗ cậu đang đứng lại phủ một màu xanh sẫm của các vườn ươm cây vân sam, và đằng sau đó, cậu có thể trông thấy một vách đá đen xám khổng lồ lởm chởm nhô lên, một đỉnh núi đơn độc, thấp hơn các ngọn núi khác xung quanh nhưng vẫn là kẻ thống trị so với mặt đất dưới chân. Mấy con chim lớn đen sì chao liệng quanh đỉnh núi; trong lúc cậu ngắm nhìn, chúng liền tụ tập lại thành một hình chữ V dài, như một đàn ngỗng, rồi vội vã bay qua núi hướng về phía biển.
Thế rồi ở đâu đó rất gần, cậu nghe thấy một tiếng chó sủa sắc gọn.
Will giật thót mình. Không có con chó nào lại lên núi một mình cả. Thế nhưng quanh đây thì không thấy có dấu hiệu của một người nào khác. Nếu ai đó đang ở gần đây thì tại sao hắn lại lẩn trốn như vậy?
Cậu quay lại để trèo tiếp lên dốc, và mãi đến khi ấy cậu mới nhìn thấy con chó. Cậu đứng sững như trời trồng. Con chó đang đứng ngay bên trên cậu, cảnh giác chờ đợi: một con chó trắng tuyền toàn thân, chỉ có một mảng đen nhỏ trên lưng nom như một cái yên cương. Ngoại trừ màu lông khoang kỳ lạ thì trông nó cũng giống loại chó chăn cừu truyền thống của xứ Wales, thân hình rắn chắc, mõm nhọn, chân và đuôi phủ lông dài: giống hệt chó collie, chỉ có điều nhỏ hơn. Will chìa tay ra. “Lại đây nào, chó ngoan,” cậu nói. Nhưng con chó chỉ nhe răng ra và một tiếng gầm gừ trầm đục, đầy vẻ hăm dọa, phát ra từ trong họng nó.
Will tiến mấy bước thăm dò lên dốc, vẫn đi theo góc chéo, về hướng cậu đang đi ban nãy. Con chó khom mình bò theo cậu, răng nhe ra trắng ởn, lưỡi thè lè. Dáng điệu ấy thật lạ lùng, nhưng lại quen thuộc, và bỗng nhiên Will nhớ ra tối hôm trước cậu đã thấy hai con chó của dượng David cũng thu mình lại như vậy khi giúp anh Rhys dồn đuổi lũ bò vào chuồng để vắt sữa. Đó là một cử động hòng điều khiển con mồi - cái tư thế thu mình đầy cảnh giác để rồi sẽ lấy đà nhảy phóc lên của con chó chăn cừu, hòng chế ngự lũ gia súc nó đang dồn đuổi về một hướng nhất định.
Nhưng con chó này đang định dồn đuổi cậu về hướng nào đây?
Rõ ràng là chỉ có một cách duy nhất để biết được mà thôi. Hít một hơi thật sâu, Will quay lại đối mặt với con chó và bắt đầu thong thả trèo thẳng lên dốc. Con chó dừng lại, một tiếng gầm gừ kéo dài lại phát ra trong họng nó; nó khom mình xuống, lưng cong lên như thể cả bốn chân đã cắm chắc xuống đất tựa gốc cây vậy. Hàm răng trắng nhe ra đã nói lên quá rõ: Không được đi đường này. Nhưng Will, nắm tay siết chặt, vẫn tiếp tục trèo.
Cậu chuyển hướng tí chút để có thể đi ngang qua gần con chó mà không chạm vào nó.
Nhưng rồi, bất thình lình, với một tiếng sủa ngắn, con chó lao về phía cậu, thu mình xuống thấp, làm Will nhảy bật lên theo phản xạ - và bị mất thăng bằng. Cậu ngã sang một bên trên sườn đồi dốc đứng. Tuyệt vọng giang rộng hai tay để không bị lao đầu xuống, cậu vừa lăn vừa rơi lộn ngược theo một quãng dốc đáng sợ, nỗi kinh hoàng ầm vang trong đầu như một tiếng hét, cho đến khi cú rơi của cậu bị chặn lại bởi một cái gì giật mạnh lấy tay áo cậu. Cậu va vào một tảng đá đánh “uỵch một cái, đau đến ê ẩm cả người.
Cậu mở mắt ra. Đường chân trời nơi dãy núi và bầu trời gặp nhau xoay tít trước mắt cậu. Con chó đang đứng sát gần, răng ngoạm chặt tay áo khoác của cậu, lôi cậu trở lại, cái mũi đen của nó phả hơi thở ấm sực, cặp mắt nhìn chăm chú. Và khi nhìn thấy mắt con chó, thế giới xung quanh Will lại quay cuồng, nhanh đến nỗi cậu ngỡ là mình vẫn đang rơi xuống. Tiếng ù ù lại dâng lên trong tai cậu, và tất cả những vật bình thường lại rơi vào cảnh hỗn loạn. Bởi vì mắt con chó này không giống đôi mắt nào cậu từng trông thấy: lẽ ra phải màu nâu, thì chúng lại có màu trắng bạc, cặp mắt nom như bị mù, đặt trong hốc mắt của một con vật rõ ràng là có thể nhìn được.
Và khi cặp mắt bạc ấy nhìn vào mắt cậu, cùng với hơi thở ấm nóng của con chó phả vào mặt cậu, trong một khoảnh khắc xoáy lốc Will bỗng nhớ lại được hết những gì mà trận ốm đã cướp mất của cậu. Cậu nhớ lại những khổ thơ đã được đặt vào trí nhớ của cậu để hướng dẫn cho cuộc hành trình đơn độc, ảm đạm mà giờ đây cậu có sứ mệnh phải thực hiện; nhớ lại mình là ai và là cái gì - và hiểu ra những ý định ẩn giấu dưới cái vỏ bọc của những sự tình cờ đã dẫn dắt cậu đến xứ Wales.
Cùng lúc đó một sự ngây thơ khác trong cậu cũng biến mất, và cậu đồng thời nhận ra mối nguy hiểm khôn lường, như một bóng tối khủng khiếp lan tỏa khắp thế giới, đang rình rập đợi cậu trên khắp mảnh đất xa lạ đầy những thung lũng xanh tươi và dãy núi mờ sương này. Cậu giống như một vị tướng chỉ huy chiến trận bỗng nhận được tin tức mới: bỗng nhận thức được điều mà một phút trước cậu không hề hay biết, rằng chỉ đằng sau đường chân trời kia thôi, một đội quân hùng mạnh và đáng sợ đang nằm mai phục, sẵn sàng nổi dậy như con sóng thần và nhấn chìm tất cả những ai chắn đường nó.
Run rẩy vì kinh ngạc, Will vươn cánh tay kia ra và vuốt ve tai con chó. Nó nhả tay áo cậu ra và đứng đó nhìn cậu, cái lưỡi hồng thè ra ngoài cái miệng cũng màu hồng.
“Chó ngoan lắm,” Will nói. “Chó ngoan lắm"
Rồi một hình thù tối sẫm che lấp mất mặt trời, và cậu vội lăn sang bên để ngồi dậy, xem ai đang đứng đó in hình lên nền trời.
Một giọng Wales trong trẻo hỏi: “Cậu có sao không?”
Đó là một thằng nhóc. Nó mặc một bộ quần áo gọn gàng, trông giống đồng phục học sinh: quần xám, áo sơ mi trắng, tất và cà vạt đỏ. Nó có một cái cặp đựng sách vở đeo ở một bên vai, và có lẽ là trạc tuổi Will. Nhưng nó có vẻ gì đó rất lạ lùng, cũng giống như con chó, một vẻ lạ lùng khiến cổ họng Will thót lại và khiến cậu sững người ra nhìn trân trối; bởi vì da dẻ tóc tai thằng bé này không có chút màu sắc gì hết, tựa một cái vỏ sò bị bạc đi dưới nắng vậy. Tóc nó trắng phau, cả lông mày cũng thế. Da nó bềnh bệch. Ấn tượng nó gây ra mạnh mẽ đến nỗi trong khoảnh khắc Will điên rồ tự hỏi không biết có phải tóc thằng bé đã được tẩy trắng một cách cố ý hay không - cố tình làm vậy để khiến người khác phải sững sờ và hoảng hốt. Nhưng cái ý nghĩ ấy biến mất khỏi đầu cậu cũng nhanh như khi nó đến. Vẻ mặt pha trộn giữa kiêu ngạo và thù địch đối mặt với cậu lúc này cho cậu thấy rõ ràng rằng thằng bé này không phải là loại người như vậy.
“Tớ không sao.” Will run rẩy đứng dậy, nhặt bỏ những lá dương xỉ dính trong tóc và trên quần áo. Cậu nói, “Có lẽ cậu nên dạy con chó của cậu biết sự khác biệt giữa con người và con cừu đi.”
“Ồ” thằng bé thản nhiên đáp, “nó biết nó đang làm gì mà. Nó sẽ không làm hại cậu đâu.” Nó nói gì đó với con chó bằng tiếng Wales, và con chó trèo lại lên dốc, rồi ngồi xuống bên cạnh thằng bé và quan sát cả hai.
“Ờ...” Will mở miệng, rồi ngừng lại. Cậu vừa nhìn vào mặt thằng bé và lại bắt gặp một cặp mắt khác khiến cậu phải ngạc nhiên. Lần này thì không phải là vì sự kỳ dị mà cậu đã thấy trong mắt con chó; mà là cú sốc do cái cảm giác trước kia cậu đã thấy cặp mắt này ở đâu đó rồi. Mắt thằng bé có màu vàng hung kỳ lạ như mắt mèo hay mắt chim, lông mi nhạt màu đến nỗi gần như không nhìn thấy, cặp mắt có cái nhìn long lanh lạ lùng, không sao thấu hiểu nổi.
“Người thiếu niên ô thước,” cậu nói ngay. “Đó chính là cậu, chính đoạn thơ cổ đó nói về cậu. Tớ đã hiểu rồi, tớ đã nhớ ra hết rồi. Nhưng chim ô thước, chim quạ, có màu đen cơ mà. Sao đoạn thơ lại gọi cậu như vậy?”
“Tên tớ là Bran,” thằng bé nói, không hề mỉm cười, vẫn nhìn cậu đăm đăm không chớp mắt. “Bran Davies. Tớ sống ở trang trại của dượng cậu.”
Will bị bất ngờ mất một lúc, bất kể sự tự tin mới có được. “Ở trang trại ấy à?”
“Với bố tớ. Trong một căn nhà tranh. Bố tớ làm việc cho ông David Evans.” Nó chớp chớp mắt dưới ánh mặt trời, lôi một cặp kính râm từ trong túi ra và đeo vào; cặp mắt vàng hung của nó biến mất sau hai mắt kính tối sẫm. Nó nói tiếp, vẫn với giọng bình thản như vậy, “Bran trong tiếng Wales nghĩa là con quạ. Nhưng những người tên là Bran trong các câu chuyện cổ thường cũng có liên quan đến loài chim ô thước nữa. Ở quanh những ngọn đồi này có rất nhiều loài chim ấy. Tớ đoán là nếu muốn thì cậu cứ gọi là người thiếu niên ô thước cũng được. Kiểu như tự do thi pháp ấy.”
Nó tháo chiếc túi ra khỏi vai và ngồi xuống bên cạnh Will trên hòn đá, tay nghịch nghịch dải đeo bằng da.
Will hỏi, “Sao cậu biết tớ là ai? Sao cậu biết David Evans là dượng tớ?”
“Tớ cũng có thể hỏi làm sao cậu biết tớ,” Bran đáp. “Sao cậu biết mà gọi tớ là người thiếu niên ô thước?”
Nó lơ đễnh đưa ngón tay vuốt dọc dải đeo. Rồi đột nhiên nó mỉm cười, nụ cười làm bừng sáng gương mặt bềnh bệch của nó như một ngọn lửa bùng lên trong thoáng chốc, và nó bỏ cặp kính râm ra.
“Tớ sẽ trả lời cả hai câu hỏi, Will Stanton ạ,” nó nói. “Đó là bởi vì cậu không phải là người bình thường, mà là một trong các Cổ Nhân của Ánh Sáng được cử đến đây để chặn đứng quyền năng đáng sợ của Bóng Tối. Cậu là người cuối cùng trong số các Cổ Nhân được sinh ra trên đời. Và tớ đã đợi cậu từ lâu rồi.”