NGƯỜI THIẾU NIÊN Ô THƯỚC
“Cậu thấy đấy,” Will nói, “với tớ, đây là sứ mệnh đầu tiên, không có sự trợ giúp nào hết - và cũng là sứ mệnh cuối cùng nữa, bởi vì giờ đây phe Ánh Sáng đang phải chuẩn bị sẵn sàng cho hàng rào phòng thủ cuối cùng. Một trận chiến vĩ đại đang chờ đợi phía trước, Bran ạ - nó chưa đến, nhưng cũng không còn cách xa lắm nữa đâu. Bởi vì Bóng Tối đang trỗi dậy, hòng chiếm đoạt thế gian cho riêng mình cho tới ngày tận thế. Khi điều đó xảy ra, chúng ta phải chiến đấu, và chúng ta phải chiến thắng. Nhưng chúng ta chỉ có thể chiến thắng nếu có được những vũ khí cần thiết. Đó chính là những gì phe Ánh Sáng đã làm, và vẫn đang tiếp tục làm, trong những cuộc hành trình như thế này - thu thập những món vũ khí đã được tôi luyện cho Ánh Sáng từ thuở xa xưa. Sáu Dấu Hiệu quyền lực của Ánh Sáng, một chiếc chén thánh vàng, một cây đàn hạc thần kỳ, một thanh kiếm pha lê... Tất cả đã được tìm thấy ngoại trừ cây đàn và thanh gươm, và tớ không biết phải tìm thanh gươm như thế nào. Nhưng hành trình tìm kiếm cây đàn là nhiệm vụ của tớ...”
Cậu bẻ một cành kim tước, rồi ngồi nhìn nhánh cây chằm chằm. “Cách đây lâu lắm rồi, có ba khổ thơ đã được sáng tác,” cậu nói, “để hướng dẫn cho tớ biết phải làm gì. Chúng không còn được truyền lại như trước kia nữa. Chúng chỉ còn trong trí nhớ của tớ mà thôi. Hay ít nhất thì chúng đã từng nằm trong trí nhớ của tớ - tớ những tưởng là sẽ mãi mãi như thế. Nhưng cách đây mấy tháng tớ bị ốm rất nặng, thế rồi khi khỏi ốm thì các khổ thơ đã biến mất. Tớ quên hết cả. Tớ không biết có bàn tay của phe Bóng Tối trong chuyện này không. Điều đó là rất có thể, khi tớ không... không được khỏe. Chúng không thể cướp lấy những khổ thơ ấy, nhưng chúng có thể làm chậm chân tớ, khiến cho tớ không nhớ lại được. Tớ ngỡ như cứ cố vắt óc mãi để nhớ lại thì mình sẽ phát điên mất. Tớ không biết phải làm gì. Tớ có nhớ được một vài đoạn, nhưng không nhiều lắm... không nhiều lắm. Mãi cho đến khi tớ trông thấy con chó của cậu.”
“Cafall,” Bran nói. Con chó liền ngóc đầu dậy.
“Cafall. Mắt nó, cặp mắt màu bạc của nó... như thể chúng đã giúp phá bỏ một bùa mê vậy. Cũng chính nó đã dẫn tớ đến Con Đường Cổ, Đường Cadfan - ngay ở đây. Và tớ đã nhớ lại. Nhớ được hết các khổ thơ. Nhớ được hết mọi điều.”
“Nó là một con chó rất đặc biệt,” Bran nói. “Nó không... bình thường chút nào. Các khổ thơ của cậu như thế nào?”
Will nhìn nó, mở miệng ra, rồi lại ngậm vào và nhìn ra dãy núi vẻ bối rối. Thằng bé tóc trắng bật cười. “Tớ biết rồi. Theo những gì cậu biết thì rất có thể tớ là người của phe Bóng Tối, mặc dù tớ có con Cafall. Có phải thế không?”
Will lắc đầu. “Nếu cậu là người của phe Bóng Tối thì tớ sẽ biết ngay. Có một vẻ gì đó cho các Cổ Nhân biết... vấn đề là, cái vẻ khiến tớ biết cậu không phải là người của Bóng Tối lại không cho tớ biết thêm gì về cậu cả. Không một chút gì. Không tốt, cũng không xấu. Tớ không hiểu.”
“À,” Bran đáp lại vẻ giễu cợt. “Chính bản thân tớ cũng chưa bao giờ hiểu được điều đó. Nhưng tớ có thể cho cậu biết, tớ giống như Cafall vậy - tớ cũng không bình thường lắm đâu.” Cặp mắt viền lông mi nhạt màu của nó ném cho Will một cái nhìn thật nhanh, đầy vẻ bí hiểm. Rồi nó lên tiếng chậm rãi đọc thuộc lòng, ê a, giọng đặc Wales:
Vào ngày vong nhân, khi năm sắp tàn,
Người trẻ nhất mở ra rặng đồi cổ nhất,
Qua cánh cửa của loài chim, nơi làn gió dừng lại,
Will ngồi cứng đờ, kinh hoàng nhìn nó. Mặt đất rung động như sóng biển quanh cậu. Bầu trời sụp xuống. Cậu cất giọng khàn khàn nói, “Đó là khổ thơ đầu. Nhưng cậu không thể biết nó được. Không thể nào. Trên cả thế giới này chỉ có ba người...”
Cậu im bặt.
Thằng bé có mái tóc trắng nói, “Một tuần trước, tớ đang ở trên núi với Cafall, ở một chỗ không bao giờ gặp ai khác, thế mà bọn tớ lại gặp một ông già. Một ông già rất kỳ lạ, có mái tóc bạc trắng bù xù và một cái mũi diều hâu to.”
Will chậm rãi thốt lên, “À.”
“Ông ấy không phải là người Anh,” Bran tiếp tục, “mà cũng không phải là người Wales, mặc dù ông ấy nói tiếng Wales rất giỏi, và thực ra là nói tiếng Anh cũng giỏi nữa... Hẳn ông ấy là một dewin, một pháp sư, vì ông ấy biết rất nhiều về tớ...” Nó nhổ một cọng lá dương xỉ, nhíu mày ngắm nhìn, rồi bắt đầu ngắt cọng lá ra thành từng mảnh nhỏ. “Rất nhiều... Rồi ông ấy kể cho tớ nghe về Bóng Tối và Ánh Sáng. Tớ chưa bao giờ được nghe kể một điều gì mà tớ lại tin đến thế, tin ngay lập tức, không nghi ngờ gì hết. Và ông ấy kể cho tớ nghe về cậu nữa. Ông ấy bảo tớ phải giúp cậu hoàn thành sứ mệnh của mình, nhưng” - một chút chế nhạo len vào giọng nói trong trẻo của nó, dù chỉ thoáng qua trong giây lát - “nhưng vì cậu sẽ không tin tớ, nên tớ phải học ba câu thơ ấy, để làm dấu hiệu. Và thế là ông ấy đã dạy cho tớ.”
Will ngẩng đầu lên ngắm nhìn khoảng thung lũng trước mặt, ngắm nhìn những ngọn đồi màu lục ; dưới ánh mặt trời, và cậu rùng mình khi lại cảm thấy một bóng đen đang rình rập đâu đây, như một đám mây xám xịt lơ lửng trên bầu trời. Rồi cậu nhún vai gạt cảm giác ấy sang một bên và lên tiếng, giờ trong giọng cậu không còn chút nghi ngờ nào nữa, “Có ba khổ thơ tất cả. Nhưng lúc này thì hai khổ đầu là quan trọng nhất. Ba câu thơ mà thầy Merriman của tớ đã dạy cho cậu là ở đoạn đầu”
Vào ngày vong nhân, khi năm sắp tàn,
Người trẻ nhất mở ra rặng đồi cổ nhất
Qua cánh cửa của loài chim, nơi làn gió dừng lại,
Lửa bùng lên từ người thiếu niên ô thước
Và cặp mắt bạc nhìn thấy được phong ba,
Và Ánh Sáng sẽ giành được cây đàn hạc vàng.
Bên hồ nước đẹp tươi những Người Say Ngủ nằm lại,
Trên Đường Cadfan nơi chim cắt gọi nhau;
Dù bóng đen của Vua Xám có âm thầm phủ xuống,
Đàn hạc vàng du dương sẽ chỉ dẫn cho ngươi
Làm vỡ tan giấc mộng, giục giã họ lên đường.
Cậu đưa tay ra vuốt ve tai Cafall. “Cặp mắt bạc,” cậu nói. Im lặng bao trùm, chỉ có tiếng chim chiền chiện véo von vẳng tới từ xa tít đâu đó trong không trung. Từ nãy đến giờ Bran chỉ ngồi lắng nghe, không hề nhúc nhích, gương mặt tai tái hết sức chăm chú. Cuối cùng nó hỏi, “Merriman là ai?”
“Ông già mà cậu đã gặp ấy chứ ai. Nếu cậu muốn hỏi ông ấy là gì thì hơi khó hơn. Merriman là thầy của tớ. Ông ấy là Cổ Nhân đầu tiên, người mạnh nhất, thông thái nhất... Tớ nghĩ ông ấy sẽ không tham gia vào cuộc hành trình lần này đâu. Ông ấy sẽ không tham gia tìm kiếm. Có quá nhiều việc tất cả các Cổ Nhân phải hoàn thành, ở quá nhiều nơi khác nhau.”
“Trong đoạn thơ có nhắc đến Đường Cadfan. Tớ có nhớ ông ấy còn nói với tớ một điều nữa, ông ấy bảo Cafall sẽ dẫn cậu đến với Con Đường, để cho cả nơi này lẫn bản thân Cafall, đều quan trọng - rồi ông ấy nói, và sau này là cả cho Con Đường nữa. Sau này - tức là bây giờ chưa đến lúc, tớ đoán vậy.” Bran thở dài. “Tất cả những điều ấy có nghĩa là gì?” Bất kể cái vẻ dị thường của nó, đó vẫn là một câu hỏi ảo não của một chú bé cực kỳ bình thường.
“Tớ đang nghĩ là,” Will nói, “ngày vong nhân chắc hẳn là đêm Lễ Các Thánh Cậu có nghĩ thế không? Đêm Halloween, trước kia người ta thường tin là vào đêm ấy ma quỷ sẽ đi lại trên mặt đất ấy"
(*) (Lễ Các Thánh, còn gọi là Halloween hay Lễ Ma Quỷ: một lễ hội truyền thống được tổ chức vào ngày 31 tháng 10 hàng năm ở các nước phương Tây, chủ yếu là các nước nói tiếng Anh.)
“Tớ biết có ối người vẫn còn tin như thế,” Bran nói. “Những chuyện kiểu ấy ở miền núi này thì bền lắm. Tớ biết có một bà lão vào đêm Halloween vẫn còn quả quyết là các hồn ma đã ăn hết thức ăn, nhưng nếu cậu hỏi tớ thì tớ cho rằng đấy là lũ mèo thì đúng hơn, bà ấy có những bốn con cơ... Thứ Bảy tới này là lễ Halloween rồi, cậu biết đấy.”
“Ừ,” Will nói. “Tớ có biết. Sắp đến rồi.”
“Người ta bảo là đêm Halloween, nếu ra cổng nhà thờ đến tận nửa đêm thì sẽ nghe có một giọng nói, gọi tên tất cả những người sẽ chết vào năm tới,” Bran cười nói. “Tớ chưa thử bao giờ cả”
Nhưng Will thì lắng nghe mà không cười. Cậu trầm ngâm nói, “Cậu vừa bảo, vào năm tới. Còn đoạn thơ thì lại nói ‘Vào ngày vong nhân khi năm sắp tàn. Nhưng như thế thì thật là vô lý. Halloween có phải là ngày cuối năm đâu.”
“Có thể nó là ngày cuối năm từ thời xưa thì sao,” Bran nói. “Ngày cuối năm và đồng thời cũng là ngày đầu năm, thay vì đợi đến tận tháng Mười hai. Trong tiếng Wales lễ Halloween được gọi là Calan Gaef, nghĩa là ngày đầu mùa đông. Tất nhiên, thời tiết này mà so với mùa đông thì vẫn còn ấm quá. Nhưng bảo cho cậu biết, không ai có thể bắt tớ ra ngồi ở sân nhà thờ Thánh Cadfan cả đêm được đâu, cho dù trời ấm đến thế nào đi chăng nữa.”
“Sáng nay tớ vừa đến đó, đến nhà thờ Thánh Cadfan ấy,” Will nói. “Chính nó đã làm tớ nhớ lại được cái tên ấy, và bắt tớ phải đi tìm Con Đường. Nhưng giờ đã nhớ lại được toàn bộ bài thơ rồi, tớ sẽ phải bắt đầu từ chỗ khởi đầu.”
“Đó là phần khó nhất,” Bran nói. Nó tháo chiếc cà vạt đồng phục ra, cuộn lại rồi nhét vào túi quần. “Khổ thơ nói, người trẻ nhất mở ra rặng đồi cổ nhất, qua cánh cửa của loài chim. Đúng không? Cậu là người trẻ nhất trong số các Cổ Nhân, còn những rặng đồi này thì chắc chắn là cổ nhất nước Anh rồi, chỉ có đồi núi ở đây và ở Scotland là cổ như vậy thôi. Nhưng còn cánh cửa của loài chim thì khó đấy... Chim chóc làm tổ và lót ổ ở khắp nơi, khắp vùng núi này có vô số chim. Quạ, chim cắt, ô thước, chim ó, chim choi choi, hồng tước, chim bạc bụng, sẻ đồng, chim dẽ - vào mùa xuân nghe tiếng chim dẽ kêu dưới đầm lầy thích lắm. Cậu nhìn kìa, một con chim ưng kìa.” Nó chỉ lên một đốm đen trên bầu trời trong xanh đang chao liệng một cách biếng nhác thành một vòng rộng, cao tít bên trên đầu hai đứa.
“Sao cậu biết?”
“Chim cắt thì phải nhỏ hơn, cả chim cắt êxalon cũng thế. Đấy lại không phải là quạ. Nó cũng có thể là một con chim ó. Nhưng tớ nghĩ đó là chim ưng - giờ chúng hiếm đến nỗi ta phải tìm kiếm chúng kỹ càng hơn, và do đó dễ nhận ra chúng hơn... hơn nữa tớ cũng có lý do của riêng mình, vì chim ưng thích tấn công chim ô thước, và như cậu đã nói đấy, tớ là người thiếu niên ô thước mà.”
Will nhìn nó: đôi mắt đã lại bị che kín bởi cặp kính râm, và gương mặt trắng bệch, cũng trắng gần bằng mái tóc, không hề có chút biểu cảm nào. Sẽ rất khó để hiểu thấu được thằng bé tên Bran này; để biết rõ được nó đang nghĩ gì hay cảm thấy như thế nào. Thế nhưng nó vẫn đang ở đây, là một phần của toàn thể trận chiến: nó đã được Merriman, thầy của Will, tìm thấy, và giờ lại được chính Will tìm thấy - và đã được miêu tả trong một khổ thơ tiên tri, sáng tác từ hơn một ngàn năm trước...
Cậu nói thử, “Bran.”
“Cái gì?”
“Không có gì. Tớ chỉ đang tập thôi. Cái tên buồn cười thật, tớ chưa nghe thấy bao giờ đấy.”
“Nó nghe buồn cười là vì cái giọng Anh của cậu đấy. Không phải đọc là bran như là món ngũ cốc để ăn sáng đâu, phải kéo dài ra như thế này này,
(*) braaan, braaan."
“” Will bắt chước theo.
(*) Braaaaaaaan
“Khá hơn rồi đấy.” Nó nheo mắt nhìn Will qua phía trên cặp kính râm. “Có phải cái đang thò từ trong túi quần của cậu ra kia là một tấm bản đồ không? Giở ra đi.”
Will đưa cho nó tấm bản đồ. Ngồi xổm trên sườn đồi, Bran trải tấm bản đồ ra trên lớp lá dương xỉ xào xạc. “Nào,” nó nói. “Giờ cậu đọc to các cái tên tớ chỉ ra xem nào.”
Will ngoan ngoãn nhìn theo ngón tay chỉ của Bran. Cậu nhìn thấy những cái tên: Tal y Lyn, Mynydd Ceiswyn, Cemmaes, Llanwrin, Machynlleth, Afon Dyfi, Llangely-nin. Cậu liền khó nhọc đọc to từng tên, “Tally-lin, Minid Seeswin, Sem-eyes, Lan- rin, Machine-leth, Affon Diffy, Lang-elly-nin."
Bran khẽ rên lên. “Tớ biết ngay mà."
“Hừ” Will cãi lại, “ chúng viết thế nào thì tớ đọc thế thôi. À, khoan đã, tớ nhớ dượng David đã bảo chữ f phải đọc là v. Tức là từ này phải đọc là 'Avon pvy."
“Duvvy,” Bran sửa lại. “Nếu viết bằng tiếng Anh thì sẽ là Dovey. Afon Dyfi chính là sông Dovey, còn chỗ này thì gọi là Aberdyfi, tức là cửa sông Dovey, Aberdovey. Chữ y trong tiếng Wales đọc gần giống như âm A của tiếng Anh, giống như trong chữ ‘run hay hunt ấy.”
“Gần giống ấy à?” Will nghi ngờ hỏi.
“Ờ, cũng đôi khi không phải thế. Nhưng giờ thì cậu cứ biết thế cái đã. Đây này...” Nó lục lọi trong cái cặp da và lôi ra quyển vở với cái bút chì. Nó viết: Mynydd Ceiswyn. “Chữ này,” nó nói, “đọc là Munuth Kice-ovin. Kice, giống như rice. Cậu đọc thử xem nào.”
Will đọc to từ ấy lên, trố mắt kinh ngạc nhìn kiểu đánh vần kỳ lạ.
“Ở đây có ba quy tắc.” Bran vừa nói vừa viết. Nó đang có vẻ rất khoái chí. “Hai chữ d phải đọc thành âm, nhưng là âm nhẹ thôi, giống như trong chữ ‘leather’, chứ không phải như trong chữ ‘smith’. Rồi chữ c trong tiếng Wales thì luôn là âm cứng, giống như trong từ ‘cat’. Chữ g cũng thế - phải đọc là gờ giống như từ ‘go’, chứ không phải là gi như từ ‘gen- tle’. Và chữ w trong tiếng Wales thì đọc giống như âm oo trong từ ‘pool’, gần như lúc nào cũng vậy. Vì thế Mynydd Ceiswyn phải đọc là Munuth Kice-ooin."
(*) th th
Will cãi, “Nhưng ở cuối thì phải đọc là ăn chứ sao lại là in, vì cậu bảo chữ y trong tiếng Wales đọc giống âm ă trong ‘lăn’ cơ mà.”
Bran cười. “Cậu nhớ tài đấy. Xin lỗi. Đó là một trong những trường hợp nó được đọc khác. Cậu phải học cho quen để đọc tên các địa danh cho đúng thôi. Dù sao thì cậu cũng không thể kêu ca là tiếng Wales của bọn tớ không có quy tắc nhất định được, trong khi tiếng Anh của các cậu toàn những từ như dough, through và thorough”
(*) (Vần "ough" trong ba từ này được đọc thành ba âm khác nhau.)
Will cầm lấy cái bút chì rồi chép lại hai địa danh “Cemmaes” và “Llangelynin” trên tấm bản đồ. “Được rồi,” cậu nói. “Nếu chữ c là âm cứng thì từ này phải đọc là Kem-eyes.”
“Tốt lắm,” Bran khen ngợi. “Nhưng chữ s cũng phải đọc rõ chứ không lướt âm như thế. Đọc nhanh thì nó sẽ thành Kemmess. Giống như chemist mà không có âm t ở cuối ấy.”
Will thở hắt ra và nhìn từ mẫu tiếp theo của mình. “ Âm g cứng, và âm y. Tức là từ này phải đọc là... Lan-gel-un-in."
“Cậu bắt đầu đọc được rồi đấy,” Bran nói. “Giờ thì cậu chỉ còn phải học một âm mà phần lớn người Anh không bao giờ nói nổi. Cậu mở miệng ra và đặt đầu lưỡi vào mặt trong răng cửa đi. Như là cậu sắp sửa nói chữ ấy.”
(*) lan
Will ném cho nó một cái nhìn nghi hoặc, nhưng vẫn làm theo. Rồi cậu cong môi lên, nhăn nhó làm thành một bộ mặt như mặt thỏ.
“Thôi đi,” Bran lắp bắp vừa cười vừa nói. “Phải chăm chỉ học tập đi nào. Giờ thì khi lưỡi cậu đang ở vị trí ấy rồi, thổi hơi ra hai bên lưỡi đi. Cả hai bên cùng một lúc.”
Will thổi.
“Đúng rồi. Bây giờ cậu hãy nói chữ, nhưng thổi một hơi trước khi phát âm. Như thế này này:."
(*) lan llan, llan
Will đọc theo, cảm thấy mình phải thở phì phì như một cái đầu máy hơi nước, rồi bỗng ngưng bặt vì kinh ngạc. “Này, nghe giống giọng Wales thế!"
(*) “Llan, Ilan,”
“Khá đấy,” Bran ra vẻ khó tính nói. “Cậu sẽ phải chịu khó luyện thêm. Thật ra khi người Wales nói từ ấy, lưỡi họ sẽ không như vậy đâu, và toàn bộ âm sẽ phát ra từ hai bên miệng, nhưng người Sais thì không thể làm theo được. Cậu sẽ đọc được thôi. Và nếu cậu tập mãi chán quá rồi thì có thể đọc theo cách những người Anh khác vẫn đọc, chữ phát âm thành ”
(*) (Tiếng Wales: người Saxon, người Anh.) ll thl.
“Đủ rồi,” Will kêu lên. “Đủ rồi.”
“Thử một từ nữa thôi,” Bran nói. “Cậu sẽ không thể tin được người ta đọc từ này như thế nào đâu. Ờ, thực ra là cậu sẽ tin được thôi, vì chính cậu cũng đã đọc như thế.” Nó viết: Machynlleth.
Will rên lên, và hít một hơi thật sâu. “Được rồi - âm y - và âm ll...”
“Và chữ ch thì phải phát âm theo hơi thở, giống như cách người Scotland phát âm chữ loch ấy. Kiểu như từ trong họng phát ra vậy.”
“Sao người các cậu ở đây lại làm mọi thứ rắc rối thế nhỉ? Mach... un... lleth.”
"Machynlleth."
"Machynlleth."
“Không tồi chút nào.”
“Nhưng tiếng tớ phát âm không giống cậu. Âm của cậu nghe ướt hơn. Giống như tiếng Đức ấy. Achtung! Achtung Will đột nhiên gào tướng lên, làm Cafall giật mình chồm dậy sủa ầm ĩ, đuôi vẫy loạn xạ.
(*) (Chú ý, chú ý)”
“Cậu biết tiếng Đức à?”
“Chúa ơi, không! Tớ đã nghe lỏm được trong một bộ phim kinh điển nào đấy. Achtung! Machynlleth!”
“Machynlleth,” Bran nhắc lại.
“Cậu thấy chưa, rõ ràng tiếng cậu phát âm nghe ướt hơn. Nhiều nước bọt hơn. Tớ đoán tất cả trẻ sơ sinh xứ Wales đều chảy nước dãi suốt ngày.”
“Biến đi,” Bran bảo và thò tay ra chộp Will trong lúc cậu tránh sang bên. Hai đứa vừa cười vừa chạy xuống sườn núi thành một hình dích dắc loạn xạ, cùng với Cafall vui vẻ nhảy chồm chồm bên cạnh.
Nhưng được nửa đường, Will bị vấp và phải chạy chậm lại; bỗng dưng cậu cảm thấy choáng váng, hai chân yếu ớt khuỵu xuống. Cậu loạng choạng lê đến một bức tường đá gần bên và tựa lưng vào đó, thở hổn hển. Bran vẫn vừa chạy vừa ngoái lại qua vai và sung sướng reo to, chiếc túi da văng lên; rồi nó chậm bước, dừng lại, nhìn Will kỹ hơn và quay lại chỗ cậu.
“Cậu ổn chứ?”
“Ừ, tớ nghĩ thế. Đau đầu quá. Tại đôi chân ngu ngốc của tớ đấy mà, giờ chúng dễ mỏi lắm. Tớ nghĩ là tớ đang khỏe hơn rồi, thật đấy - tớ đã bị ốm khá lâu...”
“Tớ biết rồi, và đáng lẽ tớ phải nhớ ra mới đúng.” Bran bứt rứt đứng yên, có vẻ bực bội với chính mình. “Ông bạn Merriman của cậu đã nói cậu ốm nặng hơn mọi người tưởng nhiều.”
“Nhưng ông ấy không có ở đó,” Will nói. “Ờ. Tất nhiên là điều đó chẳng có nghĩa gì cả.”
“Ngồi xuống đi,” Bran nói. “Gục đầu xuống giữa hai đầu gối.”
“Tớ không sao. Thật mà. Chỉ phải lấy lại hơi thôi.”
“Bọn mình đã về đến sát nhà rồi, hoặc là cũng gần. Chỉ còn mấy trăm thước nữa theo đường kia thôi..” Bran bò lên bức tường đá cao, khô cứng nhìn cho rõ hơn.
Nhưng khi nó đang đứng đó, một tiếng quát giận dữ bỗng vang lên từ bên kia bức tường, kèm theo tiếng chó sủa. Will nhìn thấy Bran đứng vươn lên thật thẳng trên bức tường, nhìn xuống vẻ đầy ngạo nghễ. Cậu cũng nhổm dậy để nhòm qua mép tường lợp đá phẳng, qua chân Bran, và trông thấy một người đàn ông đang nửa đi nửa chạy lao đến chỗ hai đứa, vừa đi vừa hò hét, một tay huơ loạn lên; tay kia của lão cầm một vật gì đó nom như một khẩu súng trường. Khi đến gần hơn, lão bắt đầu gọi Bran bằng tiếng Wales. Mới đầu Will không nhận ra lão, bởi vì lão không đội mũ, và cái đầu với mái tóc đỏ bờm xờm kia nom lạ hoắc. Nhưng rồi cậu thấy đó chính là Caradog Prichard.
Lúc lão nông dân dừng lại để lấy hơi, Bran nói rõ ràng, cố tình dùng tiếng Anh, “Chó của cháu không đuổi cừu, bác Prichard. Với lại nó có ở trên đất của bác đâu, nó đang ở bên này bức tường cơ mà.”
“Ta bảo cho mày biết, con chó của mày là một con chó mất dạy, nó đã quấy phá bầy cừu của ta bao nay rồi!” Prichard điên tiết đáp lại; tiếng Anh của lão cứ rít lên như huýt gió, đặc giọng Wales, khàn đi vì giận dữ. “Nó và con chó đen chết tiệt của lão John Rowlands nữa. Ta mà bắt được chúng nó đuổi cắn cừu của ta thì ta sẽ bắn chết tươi cả hai, đảm bảo đấy. Còn mày với thằng bạn người Anh của mày thì tốt hơn hết là nên tránh xa khỏi đất của ta đi, nếu chúng mày biết thân biết phận.” Cặp mắt ti hí trên khuôn mặt béo ị, đỏ phừng phừng của lão trừng trừng hướng về phía Will vẻ hiểm ác.
Will không nói gì. Bran không nhúc nhích; nó cứ đứng nguyên đó nhìn xuống lão nông dân đang giận. Nó khẽ nói, “Nếu ông mà bắn Cafall thì ông sẽ gặp vận rủi lớn đấy, Caradog Prichard.” Nó đưa tay vuốt mái đầu trắng, hất tóc ra phía sau bằng một cử chỉ mà Will thấy có vẻ điệu bộ kỳ lạ. “Ông hãy nhìn lại cho kỹ mấy con cừu ấy đi, chứ đừng vội đổ lỗi cho chó vì những gì lũ cáo gây ra.”
“Cáo ấy à!” Prichard khinh bỉ nhắc lại. “Nếu là cáo giết cừu thì ta phải biết chứ, và ta cũng biết khi nào thì là do chó gây ra. Tránh xa khỏi đất của ta, cả hai đứa mày.” Nhưng lão không dám nhìn vào mắt Bran và Will; lão quay ngoắt đi, bước vội qua đồng cỏ, lũ chó chạy lon ton theo sau gót lão.
Bran trèo xuống khỏi bức tường.
“Vớ vẩn!” nó nói. “Quấy phá đàn cừu ấy à! Cafall khôn không kém gì bất kỳ con chó chăn cừu nào trong thung lũng này; nó sẽ không bao giờ đuổi một con cừu nào, chứ đừng nói gì đến cừu trên đất của Caradog Prichard.” Nó nhìn theo lão Prichard đang đi xa dần, rồi nhìn Will, và mỉm cười. Đó là một nụ cười ranh mãnh lạ lùng; và Will không biết chắc là cậu có thích điệu cười ấy không.
“Cậu sẽ thấy là những người như lão ta, trong thâm tâm, thường rất hay sợ tớ,” Bran nói. “Vì tớ là thằng bạch tạng mà. Mái tóc trắng này, mắt kỳ quặc này, da thì cũng chẳng có màu sắc gì - cậu có thể coi tớ là một thằng quái dị cũng được.”
“Tớ nghĩ là không nên gọi thế,” Will bình thản nói.
“Có lẽ là không” Bran nói, vẻ không tin lắm, giọng gay gắt. “Nhưng ở trường thì tớ đã bị gọi như thế nhiều rồi... và cả ở ngoài đường nữa, từ miệng những người lịch sự như ông Prichard ấy. Cậu biết không, tất cả người Wales chính thống đều có tóc và mắt màu sẫm, và thời xưa, những sinh vật tóc sáng màu duy nhất ở Wales chỉ là bọn. Bọn yêu tinh, lũ quỷ nhỏ. Bất kỳ ai tóc và da trắng như tớ thì chắc chắn đều có liên quan đến... Tất nhiên là giờ ở đây không còn ai tin những chuyện ấy nữa, không đâu, nhưng vào những đêm mùa đông, khi gió đang thổi lồng lộng và trên tivi chẳng có gì để xem, thì tớ dám chắc là phải đến già nửa số người trong cái thung lũng này sẽ không muốn cam đoan là tớ không thể bỏ bùa cho họ bằng Mắt Quỷ.”
(*) Tylwyth Teg Tylwyth Teg
Will gãi đầu. “Đúng là có vẻ gì đó... bồn chồn... trong cách lão ta nhìn cậu, khi cậu bảo là...” Cậu lắc vai, như con chó vừa mới chui lên khỏi mặt nước. Cậu không nhìn Bran; cậu không thích cái vẻ kiêu ngạo ranh ma thoáng hiện lên trên mặt thằng bé trong lúc hai đứa nói chuyện. Thật là đáng tiếc, cái vẻ đó là không cần thiết chút nào; một ngày kia cậu sẽ phải xóa cái vẻ ấy đi... Cậu lên tiếng, “Nhưng Caradog Prichard có tóc sẫm màu đâu. Tóc lão ta đỏ quạch. Như củ cà rốt ấy.”
“Gia đình lão ta đến từ Dinas Mawddwy,” Bran nói. “Hay ít ra là mẹ lão. Người ta bảo trước kia ở đó có cả một bộ tộc hung hãn, toàn là tóc đỏ, những kẻ côn đồ thứ thiệt. Và đến bây giờ ở Dinas vẫn còn những người tóc đỏ.”
“Lão ta có định bắn Cafall thật không?”
“Có” Bran đáp cụt lủn. “Caradog Prichard lạ lắm. Người ta nói rằng ai mà một thân một mình lên Cader ở một đêm, thì sáng hôm sau khi đi xuống sẽ biến thành một nhà thơ, hoặc hóa điên. Và bố tớ bảo một lần hồi lão còn trẻ, Caradog Prichard đã lên Cader ở một đêm, vì lão muốn trở thành một đại thi hào.”
“Chắc là chẳng có tác dụng gì.”
“Ờ. Có lẽ là có tác dụng theo hướng khác. Lão ta chẳng làm được thơ thẩn gì cho ra hồn, nhưng cứ nhìn cách cư xử của lão thì chắc lão cũng khá điên đấy.”
“Cader là cái gì?”
Bran trố mắt nhìn cậu. “Cậu chẳng biết gì về Wales nhỉ? Cader Idris, ở kia kìa.” Nó chỉ về dãy đỉnh núi màu xanh xám ở phía bên kia thung lũng. “Một trong những ngọn núi cao nhất ở Wales. Cậu phải tìm hiểu về Cader đi. Dù sao thì nó cũng được nhắc đến trong khổ thơ của cậu mà.”
Will nhíu mày. “Làm gì có đâu.”
“Ồ, có đấy. Không phải là nhắc đến bằng tên - nhưng nó rất quan trọng trong khổ thơ thứ hai. Đó là nơi ông ta sống mà, trên Cader ấy. Nơi ở của Brenin Llwyd. Vi Vua Xám."