CON CÁO XÁM
Will biết không ai khác có thể cảm thấy điều đó. Cứ nhìn vẻ bề ngoài thì chẳng có lý do gì khiến cho bất kỳ ai phải lo ngại cả. Bầu trời luôn sáng lên một sắc xanh hiền hòa; mặt trời tỏa ánh nắng ấm hiếm hoi vào dịp thu này, đến nỗi anh Rhys có thể cởi trần ngồi trên chiếc máy kéo, miệng hát vang bằng giọng nam cao, át cả tiếng ầm ầm của chiếc máy, trong khi anh cày nốt những thửa ruộng còn đầy gốc rạ. Mùi đất vừa cày tỏa lên tươi mới. Cỏ thi và hoa cúc dại điểm lấm tấm trắng vàng trên hàng rào, bên trên là các cành táo dại nặng trĩu những chùm quả đỏ mọng; những con dốc thoai thoải, nơi thung lũng bắt đầu vươn lên cao, đã ửng lên sắc nâu vàng của cây dương xỉ diều hâu, khô nỏ như bùi nhùi nhờ ánh nắng của tiết thu muộn lạ lùng này. Những ngọn núi nằm mờ ảo ở đường chân trời, nom như những con vật đang ngái ngủ, màu sắc nhạt của chúng thay đổi theo từng giờ trong ngày, chuyển từ nâu, sang lục, sang tím, rồi lại nhẹ nhàng lặp lại.
Thế nhưng, trong khi đi lang thang trên những cánh đồng và ngọn núi mọc đầy kim tước, Will có thể cảm thấy sau cái vẻ dịu nhẹ của mùa thu là một nỗi căng thẳng đang dâng lên khắp mọi nơi, tiến đến từ những đỉnh núi cao vươn lên lù lù ở cuối thung lũng kia, tựa như một cơn lũ chậm rãi mà tàn nhẫn. Sự thù địch đang xông tới khắp xung quanh cậu. Từ từ nhưng không thể chặn đứng nổi, sức ép xấu xa ấy đang dồn lên cho tới lúc nó có thể vỡ òa ra và nhấn chìm cậu. Vậy mà không ai khác biết cả. Chỉ có những giác quan bí mật của một Cổ Nhân mới cảm nhận được Bóng Tối đang ra tay.
Dì Jen rất sung sướng khi thấy Will có vẻ khỏe lên. “Nhìn cháu mà xem - mới có mấy ngày mà má đã hồng lên rồi, nếu trời cứ nắng thế này thì cháu sẽ đen thui đi mất. Tối qua dì vừa viết thư cho mẹ cháu, dì bảo, chị sẽ chẳng nhận ra nó nữa đâu, trông như một thằng bé khác ấy...”
“Đúng là trời nắng dễ chịu thật,” dượng David nói, “Nhưng vào thời điểm này trong năm thì hơi quá đấy, thế là quá đủ rồi. Các đồng cỏ đã khô cằn hết cả, còn dương xỉ trên núi thì - giờ nếu mưa xuống một tí thì tốt.”
“Nghe anh nói kìa” dì Jen cười bảo. “Mưa thì ở đây mình có thiếu bao giờ đâu.”
Thế nhưng bầu trời rực nắng vẫn mỉm cười, và Will đi với John Rowlands cùng mấy con chó của ông để lùa bầy cừu một tuổi về Trang Trại Clwyd trú đông. Người chủ trại trên đồi, chủ của đám cừu, đã xua chúng xuống được nửa đường, đến một nông trại khác ở đầu thung lũng. Trong khi ngắm nhìn đám lưng cừu đầy lông trắng xóa hỗn loạn đang nhấp nhô, xô đẩy lẫn nhau, lắng nghe tiếng be be đến điếc cả tai của dàn đồng ca gồm khoảng tám mươi con cừu cái khỏe mạnh, Will không thể tưởng tượng nổi làm sao mà họ có thể xua chúng nguyên vẹn xuống được đến Trại Clwyd. Khi chỉ một con cừu tách ra khỏi bầy và nhảy nhót về phía nơi cậu đang đứng trên đồng, cậu cũng không làm sao mà xua nó về được với đồng loại, ngay cả khi đã hò hét, xô đẩy và đập vào bên sườn rộng đầy lông của nó. “Beee,” con cừu kêu lên bằng giọng nam trung trầm trầm ngớ ngẩn, như thể cậu chưa bao giờ đụng đến nó, rồi lang thang chạy đi nhai hàng rào. Thế nhưng ngay khi Tip, con chó chăn cừu của John Rowlands, quả quyết xông tới phía con cừu, thì nó liền ngoan ngoãn quay lại và chạy về với những con khác.
Will không hiểu John Rowlands ra lệnh cho đám chó của mình bằng cách nào. Có hai con: con Tip lông đốm, được đặt tên như vậy vì có những đốm trắng ở mũi và ở chót đuôi, và một con khác, lớn hơn, trông dữ dằn hơn, tên là Pen, với bộ lông đen dài, một bên tai vẹo đi, chắc là bị cắn rách trong trận đánh nhau xa xưa nào đó. Ông Rowlands chỉ cần nhìn chúng một cái, với nụ cười làm gương mặt sạm nâu của ông nhăn nheo cả lại, khẽ nói một từ bằng tiếng Wales, hoặc huýt sáo một tiếng, là lập tức chúng lao đi làm những động tác rắc rối mà một người bình thường có lẽ chỉ hiểu được sau mười phút nghe giải thích cặn kẽ.
* * *
“Cháu đi ra đằng trước đi,” ông cất tiếng gọi Will qua những tiếng be be trầm đục, inh tai, trong khi ông mở cổng cho bầy cừu xông qua, tràn xuống đường như một dòng sữa. “Đi thẳng về phía trước ấy, để xem có chiếc xe nào đang đến thì vẫy bảo họ dừng lại bên đường.”
Will hoảng hốt chớp mắt. “Nhưng làm sao mà cháu chặn bầy cừu lại được ạ? Chúng nó sẽ chạy qua cháu mất!”
Nụ cười của John Rowlands hiện ra trắng bóng trên khuôn mặt xứ Wales nâu sạm của ông. “Cháu đừng lo, Pen sẽ coi chừng chúng nó.”
Và Pen đã làm vậy; như thể nó có một sợi dây buộc xung quanh phía trước bầy cừu để giữ cả bầy thành một vòng tròn hẹp, gọn ghẽ. Chạy đi chạy lại, lao bên này bên kia, bụng áp xuống sát đất, luôn luôn tiến về phía trước, thỉnh thoảng lại xua một con cừu lạc quay về đúng hướng bằng một tiếng sủa đanh gọn, nó giữ cho bầy cừu ngoan ngoãn đi dọc con đường. Còn Will, tay nắm chặt cây gậy mà John Rowlands đã cho cậu, thì đi đằng trước, nở từng khúc ruột vì hãnh diện và tự tin, cảm thấy như mình đã làm người chăn cừu từ thuở nào rồi vậy.
Hai bác cháu chỉ gặp có hai chiếc xe trên đường đi xuống thung lũng, nhưng việc hướng dẫn hai chiếc xe đó đỗ lại bên hàng rào ở vệ đường cũng đã đủ vui rồi, trong khi những con cừu chen lấn đi qua thành một dòng lũ xam xám nhấp nhô. Will đang khoái chí tận hưởng công việc của mình đến nỗi sau này cậu nghĩ có lẽ lúc đó cậu đã quên bẵng mất sự cảnh giác sâu thẳm trong thâm tâm mình. Bởi vì khi cuộc tấn công xảy ra, cậu không hề cảm thấy được báo trước chút gì.
Họ đang ở trên một quãng đường vắng vẻ, một bên là vùng đồng hoang trơ trọi, bên kia là dãy núi đầy cây rậm rạp, vươn lên tăm tối. Ở đây không có thửa ruộng nào được cày cấy. Dương xỉ diều hâu và sỏi đá viền hai bên đường, tựa như đây chỉ là một lối mòn đi qua trên núi vậy. Đột nhiên Will bỗng nhận thấy tiếng cừu kêu sau lưng mình đã thay đổi: trong tiếng be be của chúng có một âm vực cao hơn, có vẻ hốt hoảng, kèm thêm tiếng chân chạy nhốn nháo. Mới đầu cậu tưởng đó là ông John Rowlands và con Tip đang chặn một con cừu chạy lạc; nhưng rồi cậu nghe thấy tiếng huýt sáo lanh lảnh, chói tai, làm con Pen quay ngoắt lại với bầy cừu, gầm gừ sủa bắt chúng phải đứng yên. Và cậu nghe thấy ông John Rowlands gọi: “Will! Nhanh lên! Will!”
Cậu chạy ngược trở lại, vòng quanh bầy cừu đang sợ hãi kêu be be; rồi đứng sững người. Ở giữa đám cừu, bên vệ đường, là một vệt máu đỏ thắm ở họng một con cừu nhỏ hơn những con khác, đang loạng choạng. Will trông thấy có thoáng chuyển động giữa đám dương xỉ diều hâu khi một sinh vật nào đó vừa bỏ chạy. Nó lao về phía ngọn núi, làm những đám lá dương xỉ lay động, rồi im lìm trở lại. Will kinh hoàng đứng nhìn con cừu bị thương lảo đảo ngã nhào sang bên. Đồng loại của nó chen nhau chạy ra xa vì khiếp sợ; hai con chó gầm gừ đe dọa, điên cuồng tìm cách chặn bầy cừu lại, và Will nghe thấy John Rowlands hét lên, nghe thấy tiếng cây gậy của ông đập xuống nền đường cứng. Cậu cũng hét lên, huơ tay ra trước đàn cừu đang dồn tới, cố giữ chúng thành một bầy trong khi chúng hốt hoảng tìm cách chạy ra ngoài đồng hoang, thế rồi dần dần những con vật sợ hãi cũng bình tĩnh trở lại và đứng yên.
John Rowlands cúi xuống bên con cừu cái bị thương.
Will hỏi với qua đám lưng cừu hỗn độn, “Nó có sao không ạ?”
“Không bị nặng lắm. Mạch máu không bị đứt. Bác cháu mình gặp may rồi.” Ông Rowlands cúi xuống, nhấc con cừu mềm nhũn lên vai, nắm riêng chân trước và chân sau nó, để cho nó nằm vắt qua ngang gáy ông như một chiếc khăn quàng kếch xù. Với một tiếng “hực” trong họng vì gắng sức, ông chậm rãi đứng dậy; cổ và má đầy máu đỏ dính từ lông con cừu.
Will đi về phía ông. “Có phải là chó không ạ?”
Ông Rowlands không quay đầu lại được vì vướng con cừu, nhưng cặp mắt sáng của ông nhìn về phía cậu một cái thật nhanh. “Cháu nhìn thấy một con chó à?”
“Không ạ.”
“Cháu có chắc không?”
“Cháu nhìn thấy cái gì đó chạy qua đám dương xỉ, nhưng cháu không biết đó là con gì. Cháu nghĩ chắc là chó - ý cháu là, nếu không thì còn là con gì khác được ạ?”
Ông Rowlands không đáp, chỉ vẫy tay bảo cậu đi lên trước và huýt sáo ra lệnh cho lũ chó. Bầy cừu lại tràn xuống đường. Giờ cậu đi bên cạnh bầy cừu, để một mình con Tip lo trông coi phía đằng sau; và một cách gọn ghẽ, năng nổ, con chó giữ cho bầy cừu tiến về phía trước.
Chỉ một lát sau họ đã đến được một căn nhà trống nằm cách con đường một quãng: tường đá, mái lợp đá phiến, nom khá vững chãi, nhưng kính hai ô cửa sổ nhỏ đều đã vỡ cả. Ông John Rowland đá cánh cửa nặng nề mở ra, loạng choạng bước vào trong, rồi khi đi ra thì con cừu không còn nằm trên vai ông nữa, ông thở hổn hển, đưa tay áo lên lau mặt.
Ông đóng cửa lại. “Nó ở đó sẽ không sao, cho đến khi bác cháu ta có thể quay lại đưa nó xuống, ông lên tiếng bảo Will. “Giờ thì không còn xa nữa đâu."
Chẳng mấy chốc họ đã xuống tới trại Clwyd. Will mở cánh cổng dẫn vào khoảng đồng cỏ rộng nơi cậu biết lũ cừu sẽ được nhốt, và hai con chó vừa dùng mõm thúc vừa sủa để lùa đám cừu vào. Trong một thoáng, đám cừu đi vơ vẩn, miệng không ngừng kêu be be; nhưng rồi chúng yên lặng dần và bắt đầu rào rào gặm lớp cỏ mơn mởn một cách tham lam. Ông John Rowlands đánh chiếc xe Land-Rover đến đưa Will đi cùng để đón con cừu bị thương; lúc họ sắp rời đi thì con chó Pen màu đen nhảy phóc lên xe và ngồi xuống giữa hai chân Will. Will vuốt ve cặp tai mịn mượt của nó.
“Chắc chắn là một con chó đã tấn công con cừu ấy, phải không ạ?” cậu hỏi trong lúc họ lái xe đi.
Ông Rowlands thở dài. “Bác hy vọng là không. Nhưng đúng là bác không thể tưởng tượng nổi có con thú hoang nào lại đi tấn công cả một bầy cừu có người và chó đi kèm như thế cả. Không con vật nào lại làm vậy, ngoại trừ sói, mà ở Wales này thì không còn sói đã từ hơn hai trăm năm nay rồi.”
Họ đỗ lại bên ngoài căn nhà. Ông Rowlands quay xe lại để đến được chỗ cửa sau dễ hơn, rồi bước vào căn nhà nhỏ bằng đá.
Ông chạy ra gần như ngay lập tức, tay không, lo lắng nhìn xung quanh mình. “Nó biến mất rồi!”
“Biến mất ấy ạ!”
“Chắc phải còn lại dấu vết gì đó - Pen! Tyrd yma!”
(*) (Lại đây)
John Rowlands đi quanh phía bên ngoài căn nhà, chăm chú nhìn kỹ bãi cỏ, từng bụi dương xỉ diều hâu, từng bụi kim tước, và con chó đen cũng đi loanh quanh bên cạnh ông, mũi dính xuống sát đất. Will cũng nhìn quanh vẻ khấp khởi hy vọng, nhìn xem có bụi cây nào bị đè bẹp, có thấy chút lông cừu, hay giọt máu nào không. Cậu chẳng nhìn thấy gì hết. Một tảng thạch anh trắng lởm chởm sáng lên lấp lánh dưới ánh nắng trước mặt họ. Một con chiền chiện núi cất tiếng hót. Rồi bất thình lình, Pen sủa một tiếng sắc gọn và lao đi đánh hơi, chân chạy đầy tự tin, đầu cúi xuống giữa đám cỏ.
Họ đi theo nó. Nhưng Will rất bối rối, và trên gương mặt nhăn nheo của John Rowlands cậu cũng thấy có thoáng băn khoăn - vì con chó đang lần theo dấu vết qua lớp cỏ còn nguyên vẹn, thậm chí không ngọn cỏ nào bị gập xuống vì bước chân của một con vật nhỏ, chứ đừng nói gì đến một con cừu. Có tiếng nước róc rách đâu đó phía trước họ, và chẳng mấy chốc họ đã đến bên một dòng suối nhỏ chảy xuống sông, những hòn đá nhô lên giữa lòng suối chứng tỏ vào mùa khô này mực nước thấp hơn mức bình thường đến thế nào.
Pen dừng lại nhìn ngược nhìn xuôi dòng suối một cách vô hiệu, rồi quay lại chỗ ông Rowlands, miệng rên ư ử.
“Nó để mất dấu rồi,” người chăn cừu nói. “Cho dù đó là cái gì đi chăng nữa. Tất nhiên, có thể đó chỉ là một con thỏ thôi - mặc dù bác chưa nghe nói có con thỏ nào mà đủ trí khôn để biết che giấu đường đi của mình bằng cách chạy qua chỗ nước chảy.
Will hỏi: “Nhưng còn con cừu thì sao ạ? Nó bị thương mà, nó không thể tự đi đâu được.”
“Nhất là lại qua một cánh cửa đóng kín nữa,” ông Rowlands khô khan nói.
“Đúng thế, tất nhiên rồi! Bác có nghĩ là con vật đã tấn công nó lại khôn đến mức biết quay lại đây và lôi nó đi không?”
“Có lẽ là cũng đủ khôn đấy,” ông Rowlands đáp, đưa mắt nhìn về căn nhà. “Nhưng không đủ khoẻ. Một con cừu một năm tuổi cũng phải nặng gần bốn mươi lăm cân, bác vác nó có một quãng thế mà cũng suýt gẫy cả lưng rồi. Để kéo được một con vật nặng như thế thì cần phải có một con chó cực khoẻ.”
Will bỗng nghe thấy mình lên tiếng, “Hay là hai con ạ?"
Ông John Rowlands quay sang nhìn cậu, mắt nheo lại. “Với một đứa trẻ không sinh ra và lớn lên ở trang trại thì phải nói là cháu có những ý nghĩ bất ngờ thật đấy, Will ạ... ừ, phải, hai con chó có thể tha nổi con cừu ấy đi. Nhưng làm sao chúng có thể làm vậy mà không để lại một dấu vết to tướng chứ? Và hơn nữa, hai, chứ hai mươi con chó, thì cũng làm sao mà mở nổi cánh cửa kia?”
“Có trời mới biết được ạ,” Will nói.
“Ờ - có khi không phải là thú vật thì sao. Có thể có ai đó lái xe qua và nghe thấy tiếng con cừu kêu nên đã đưa nó ra khỏi căn nhà và đem nó đi. Ý cháu là, làm sao mà họ biết được là bác cháu mình sẽ quay lại.”
“Ừ,” ông John Rowlands trả lời. Giọng ông không có vẻ gì là đã bị thuyết phục. “Thôi, nếu có người nào đã làm thế, thì khi về nhà bác cháu ta sẽ thấy con cừu ở đó, vì trên tai nó có đóng dấu của trại Pentref, và bất kỳ người nào trong vùng cũng biết cừu của Williams Pentref trú đông ở trại chúng ta. Đi thôi nào.” Ông huýt sáo gọi Pen.
Trên đường về nhà cả hai bác cháu đều im lặng, mỗi người chìm trong ý nghĩ lo ngại và phỏng đoán mơ hồ riêng. Will biết ông John Rowlands đang lo lắng về chuyện sớm tìm ra con cừu, để chăm sóc cho vết thương của nó. Còn cậu, Will, thì lại có những lo lắng của riêng mình. Mặc dù cậu không cho ông John Rowlands biết, và thậm chí còn gần như không dám nghĩ xem điều đó có nghĩa là gì, nhưng cậu biết, vào cái lúc con cừu bị thương loạng choạng ngã xuống bên cả bầy, cậu đã nhìn thấy một thứ rõ ràng hơn là thoáng chuyển động mờ ảo giữa đám dương xỉ, nơi con thú tấn công vừa bỏ chạy. Cậu đã nhìn thấy một tấm thân màu bạc vụt qua, và cái mõm của con vật nom giống hệt một con chó trắng.
* * *
Tiếng nhạc vang ra từ căn nhà chính của trang trại như một dòng suối vàng, tựa hồ chính mặt trời đang tỏa sáng từ trong những ô cửa sổ kia. Will kinh ngạc đứng sững lại lắng nghe. Ai đó đang chơi đàn hạc, những hợp âm kéo dài, ngân vang, vút lên như tiếng chim hót; rồi không hề ngừng lại, tiếng đàn lại chuyên sang một bản nhạc nghe như một bản sonat của Bach, mỗi nốt nhạc, mỗi quãng đều chính xác tựa một bông tuyết. John Rowlands cúi xuống nhìn cậu mỉm cười một thoáng, rồi đẩy cửa bước vào. Một cánh cửa bên đang mở, dẫn vào một phòng khách nhỏ mà Will trước kia chưa bao giờ để ý thấy; nom nó giống Căn Phòng Đẹp Nhất Trong Nhà, sạch sẽ ngăn nắp như lau như li, được đặt cách xa căn bếp chung với phòng khách chính nơi diễn ra những sinh hoạt thực sự của gia đình. Tiếng nhạc đang vang ra từ phòng khách này; ông Rowlands thò đầu ngó qua cánh cửa, và Will cũng làm theo. Ngồi trong đó, tay đang lướt trên những sợi dây của một cây đàn hạc cao gấp đôi người, chính là Bran.
Nó dừng lại, áp lòng bàn tay lên những sợi dây đàn để giữ chúng đứng yên. “Xin chào.”
“Khá hơn nhiều lắm,” ông John Rowlands nói. “Hôm nay cháu chơi khá hơn nhiều lắm rồi đấy.”
“Vâng ạ.”
Will nói, “Tớ không biết là cậu biết chơi đàn hạc đấy.”
“À,” Bran nghiêm trang đáp. “Có rất nhiều điều mà người Anh không biết. Bác Rowlands dạy tớ đấy. Bác ấy cũng dạy cả dì của cậu nữa, đây chính là đàn của dì cậu đấy.” Nó đưa một ngón tay vuốt dọc theo những sợi dây đàn, làm chúng vang lên réo rắt.
“Vào mùa đông trong phòng này lúc nào cũng lạnh ngắt, nhưng như thế thì giữ âm tốt hơn là trong buồng ấm... Ồ, Will Stanton ạ, cậu không biết cậu đang ở một nơi đặc biệt đến thế nào đâu. Đây là trang trại duy nhất trên toàn xứ Wales có đến hai cây đàn hạc. Bác Rowlands cũng có một cái trong nhà của bác ấy nữa mà.” Nó hất đầu về phía cửa sổ, qua đó có thể nhìn thấy một cụm ba căn nhà nhỏ, nằm phía bên kia khoảng sân. “Mọi khi tớ vẫn tập ở đấy. Nhưng hôm nay bác Rowlands gái đang bận lau dọn”
“Ông David Evans đâu rồi?” John Rowlands hỏi.
“Ở ngoài sân với anh Rhys ạ. Hình như là ở trong chuồng bò.”
“Diolch.” Ông vội vã đi ra ngay.
“Tớ tưởng cậu phải đi học,” Will nói.
“Được nghỉ nửa ngày. Tớ cũng chẳng nhớ là tại sao nữa.” Trong nhà, Bran vẫn phải đeo cặp kính màu bảo vệ mắt; chúng làm cho nó có vẻ thật lập dị và không thực, hai vòng tròn sẫm màu không thể dò thấu nổi ấy đã lấy hết mọi biểu cảm trên khuôn mặt tai tái của nó. Quần và chiếc áo len nó mặc cũng màu sẫm, làm cho mái tóc trắng của nó càng nổi bật và kỳ lạ hơn bao giờ hết. Will đột nhiên thầm nghĩ: hẳn là nó cố tình làm thế, nó thích tỏ ra khác người.
“Vừa xảy ra một chuyện khủng khiếp,” cậu nói, và kể cho Bran nghe về con cừu. Nhưng cậu vẫn không nhắc đến chuyện đã thoáng nhìn thấy con vật tấn công mà cậu nghĩ là một con chó trắng. Bran hỏi. “Cậu có chắc là con cừu còn sống khi bác John để nó lại đó không?”
“Ồ có chứ, tớ nghĩ là nó vẫn còn sống. Chắc có khả năng là người nào đó đã đi qua và đem nó đi. Tớ đoán là bác John đang kiểm tra xem sao.”
“Kỳ cục nhỉ,” Bran nói. Nó đứng dậy, vươn vai. “Tớ tập thế là đủ rồi. Muốn đi ra ngoài không?”
“Để tớ đi bảo với dì Jen đã.”
Trên đường ra, Bran xách cái cặp sách dẹt bằng da của nó đặt trên cái ghế cạnh cửa lên. “Tớ phải bỏ cái này vào nhà. Rồi đặt ấm đun nước cho bố nữa. Khoảng giờ này, nếu bố đang làm việc gần đây thì bố sẽ ghé về nhà uống một chén trà đấy.”
Will tò mò hỏi, “Thế mẹ cậu cũng phải đi làm à?"
“Ồ, mẹ tớ mất rồi. Mất từ hồi tớ còn bé tí, tớ không nhớ được gì về mẹ cả.” Bran ném cho cậu một cái liếc nhìn thật kỳ lạ. “Chưa ai kể cho cậu nghe về tớ à? Tớ với bố tớ là một hộ gia đình hai chàng độc thân mà. Bác Evans gái luôn rất tốt với bố con tớ. Vào cuối tuần bố con tớ ăn tối ở trang trại. Nhưng tất nhiên là cậu chưa ở đây dịp cuối tuần nào cả.”
“Tớ cảm thấy như mình đã ở đây hàng bao nhiêu tuần rồi ấy,” Will nói, ngẩng mặt lên dưới ánh nắng ấm. Có vẻ gì đó trong giọng điệu của Bran khiến cậu thấy lo ngại một cách lạ lùng, và cậu không muốn nghĩ quá kỹ về điều đó. Cậu đẩy ý nghĩ ấy vào sâu trong óc mình, cất nó vào cùng một chỗ với hình ảnh cái mõm trắng vụt qua giữa đám dương xỉ diều hâu.
“Cafall đâu rồi?” cậu hỏi.
“Ờ, nó ở ngoài kia với bố. Nó nghĩ tớ vẫn còn ở trường.” Bran cười. “Hồi Cafall còn bé, bố con tới phải vất vả lắm mới bảo cho nó hiểu được là trường học chỉ dành cho trẻ con thôi chứ không phải là cho chó con. Khi tớ đi học trường cấp một dưới làng, nó thường ngồi bên cổng trường cả ngày để đợi tớ tan học.”
“Thế bây giờ cậu học trường gì?”
“Trường trung học phổ thông Tywyn. Tớ đi học bằng xe buýt.”
Hai đứa dẫm qua lớp bụi của lối mòn dẫn xuống mấy căn nhà nhỏ, một lối đi được tạo ra bởi hai đường rãnh bánh xe, ở giữa là gờ cỏ rậm. Có ba căn nhà cả thảy, nhưng chỉ hai căn là có người ở; giờ khi đến gần hơn thì Will thấy căn nhà thứ ba đã được sửa thành ga ra để xe. Cậu nhìn qua mấy ngôi nhà, lên phía trên thung lũng, nơi rặng núi xanh mờ vươn cao, tuyệt đẹp trên nền trời quang đãng, và cậu rùng mình. Mặc dù chuyện con cừu mất tích một cách bí hiểm đã xâm chiếm ý nghĩ của cậu trong nỗi lo ngại lớn hơn, nằm sâu hơn trong thâm tâm cậu, giờ lại đang trào lên. Khắp xung quanh mình trên toàn vùng đất này, cậu có thể cảm thấy thế lực Bóng Tối thù địch đang lớn dần lên, dồn ép cậu. Thế lực đó không thể tập trung vào cậu, bám theo cậu như cái nhìn của một con mắt khổng lồ dữ dằn; một Cổ Nhân có khả năng che giấu bản thân sao cho sự hiện diện của mình không thể ngay lập tức bị phát hiện ra một cách chính xác. Nhưng rõ ràng là Vua Xám đã cảm thấy rằng chẳng bao lâu nữa, từ đâu đó, cậu sẽ xuất hiện. Phe Bóng Tối cũng có những lời tiên tri của riêng mình, giống như phe Ánh Sáng. Hàng rào ngăn cản đã được dựng lên, mỗi ngày một mạnh hơn. Bỗng nhiên Will cảm thấy thật lạ làm sao, khi cậu lại là kẻ xâm lăng; thật lạ khi Ánh Sáng lại tiến lên tấn công Bóng Tối. Trước kia, mọi trận chiến luôn luôn là ngược lại, với quyền năng Bóng Tối nổi dậy trong một cuộc tấn công đáng sợ, tràn tới những vùng đất yên bình của con người được bảo vệ bởi Ánh Sáng. Phe Ánh Sáng đã luôn luôn là đấng bảo hộ của loài người, là chiến sĩ của tất cả những gì mà phe Bóng Tối đang hòng lật đổ. Giờ đây thì một Cổ Nhân lại phải cố sức đảo ngược thói quen lâu đời của tâm trí; giờ đây cậu phải tìm được sức mạnh tấn công, thay vì sự phòng thủ vững chãi chắc chắn đã giữ không cho Bóng Tối thắng thế, tự bao đời nay.
Cậu thầm nhủ, nhưng tất nhiên cuộc tấn công này chỉ là một phần nhỏ trong toàn cuộc kháng cự, để xây dựng một hàng rào bảo hộ, chuẩn bị cho quãng thời gian cuối cùng và đáng sợ nhất, khi Bóng Tối sẽ lại nổi dậy một lần nữa. Đây là một sứ mệnh để đánh thức những đồng minh cuối cùng của Ánh Sáng. Và không còn nhiều thời gian nữa.
Bran đột ngột lên tiếng, thật kỳ lạ là nó lại nói đúng với dòng ý nghĩ cuối cùng của cậu, “Tối nay là Halloween rồi.”
“Ừ,” Will đáp.
Cậu chưa kịp nói gì thêm thì chúng đã đến cửa căn nhà; một cánh cửa thấp, nặng nề, gắn vào lớp đá xây tường, hơi hé mở. Nghe tiếng chân của Bran, con Cafall lao ra như một cơn lốc nhỏ màu trắng, nhảy bổ lên, miệng kêu ư ử mừng rỡ, thè lưỡi liếm tay thằng bé. Nhưng nó không hề sủa. Từ trong nhà, một giọng đàn ông gọi, “Bran đấy à?” và bắt đầu nói bằng tiếng Wales. Rồi khi Will theo Bran đi qua cánh cửa, người đàn ông mặc áo sơ mi đứng ở bên bàn đang nói dở câu liền quay lại và nhìn thấy cậu. Ông im bặt ngay tức thì và nghiêm trang nói, “Xin lỗi cháu.”
“Đây là Will,” Bran nói, thả cái cặp sách lên bàn. “Cháu của bác Evans đấy ạ.”
“Ừ. Bố cũng đoán thế. Xin chào cháu, chàng trai.” Bố của Bran tiến lên phía trước, tay chìa ra; mắt ông có cái nhìn rất thẳng, bàn tay ông nắm lấy Will rất vững chãi, mặc dù Will có một cảm giác kỳ dị là con người thật của ông đang không có mặt ở đó, đăng sau cặp mắt kia. “Chú là Owen Davies. Chú đã được nghe kể về cháu.”
“Chào chú, chú Davies,” Will đáp lại. Cậu đang cố không tỏ ra sửng sốt. Cho dù cậu đã tưởng tượng ra bố của Bran như thế nào đi chăng nữa thì ông cũng không giống với mong đợi của cậu chút nào: ông là một người hoàn toàn bình thường, không có chút gì đặc biệt, một người ta có thể đi ngang qua trên phố mà không biết là ông đang đứng đó. Một thằng bé kỳ dị như Bran lẽ ra phải có một ông bố cũng kỳ dị không kém. Nhưng tất cả mọi thứ ở Owen Davies đều thường thường bậc trung: chiều cao trung bình, mái tóc nâu vừa phải, không dày không mỏng; một khuôn mặt dễ mến, bình thường, với cái mũi hơi nhọn và đôi môi mỏng; một giọng nói cũng bình thường, không trầm quá hay cao quá, có cùng kiểu nhấn âm rõ ràng mà Will đã nhận thấy là người nào ở phía Bắc xứ Wales cũng có. Quần áo của ông cũng giống như quần áo của tất cả những người nông dân khác, áo sơ mi, quần dài và ủng. Ngay cả con chó đứng bên cạnh ông, lặng lẽ ngắm nhìn tất cả bọn họ, cũng là một con chó chăn cừu thông thường của xứ Wales, lưng đen, ngực trắng, đuôi đen, không có gì đáng chú ý. Chẳng giống như Cafall chút nào: cũng như bố của Bran chẳng giống Bran chút nào vậy.
“Trong ấm có trà đấy, Bran ạ, nếu hai đứa muốn uống,” ông Davies nói. “Bố đã uống rồi, bố phải đi ra đồng cỏ lớn đây. Và tối nay bố cũng đi vắng, ở nhà thờ có buổi lễ. Con ăn tối bên nhà Evans nhé.”
“Hay quá,” Will vui vẻ nói. “Thế thì bạn ấy có thể giúp cháu làm bài tập về nhà.”
“Bài tập về nhà ấy à?” Bran hỏi.
“Ừ. Tớ không được đi chơi không đâu, cậu biết đấy. Các thầy cô ở trường giao cho tớ đủ thứ bài tập để tớ không bị tụt lại. Hôm nay tớ có bài đại số. Và lịch sử nữa.”
“Thế thì tốt lắm,” ông Davies sốt sắng nói, rồi khoác áo gi lê vào, “miễn là Bran nhớ làm bài tập của riêng mình nữa. Tất nhiên, chú biết là nó sẽ làm vậy. Thôi, rất vui được gặp cháu, Will ạ. Gặp lại con sau nhé, Bran. Con Cafall ở lại cũng được.”
Rồi ông bước ra, gật đầu chào chúng một cách hòa nhã nhưng cũng cực kỳ nghiêm nghị, và Wil chợt nhận ra ông Owen Davies cũng có một vẻ không bình thường cho lắm; đó là ở ông không hề có một thoáng vui tươi nào.
Mặt Bran chẳng có chút biểu cảm gì. Nó dửng dưng nói, “Bố tớ là người quan trọng ở nhà thờ. Bố là người trợ tế, tuần nào cũng phải dự lễ hai, ba buổi. Còn Chủ nhật thì bố con tớ phải đi lễ hai lần liền”
“Ôi chao,” Will thốt lên.
“Ừ, ôi chao là đúng đấy. Cậu muốn uống trà không?”
“Không, cảm ơn cậu.”
“Thế thì mình ra ngoài thôi.”
Một cách cẩn thận nhưng lơ đãng, Bran tráng ấm trà rồi úp ngược gọn ghẽ lên giá để bát cho ráo nước. “Tyrd yma, Cafall. “ Con chó trắng vui vẻ nhảy cỡn bên cạnh hai đứa khi chúng đi qua cánh đồng, rời xa khỏi mấy căn nhà và khu trại, đi lên thung lũng, hướng về phía rặng núi và mỏm đá đơn độc gần đó. Mỏm đá ấy nhô theo một góc vuông so với ngọn núi phía sau nó, vươn lên nền thung lũng phẳng lì.
“Tảng đá nhô lên ấy nom lạ thật,” Will nhận xét.
“Craig yr Aderyn ấy à? Nó đặc biệt lắm, đấy là nơi duy nhất trên toàn vương quốc Anh nơi chim cốc làm tổ trong đất liền. Tất nhiên là không vào sâu trong đất liền cho lắm. Ở đây bọn mình chỉ cách biển có bốn dặm thôi. Cậu chưa đến đấy à? Thế thì đi thôi, bọn mình có thời gian mà.” Bran hơi đổi hướng một chút. “Từ trên đường cậu có thể thấy rõ bầy chim đấy.”
“Tớ tưởng đường đi ở phía kia cơ mà” Will vừa nói vừa chỉ.
“Thì đúng thế. Bọn mình có thể đi tắt sang đấy bằng lối này.” Bran mở cánh cổng dẫn vào một lối mòn, đi ngang qua đó rồi trèo tường để đi sang bên kia. “Chỉ có điều là, cậu phải đi nhẹ chân thôi,” nó nhe răng cười. “Đây là đất của Caradog Prichard mà.”
“Suỵt, Cafall,” Will quay đầu lại, làm điệu bộ thì thào. Nhưng con chó không có ở đó. Will băn khoăn dừng lại. “Bran này? Cafall đâu rồi?”
Bran huýt sáo. Cả hai đứa cùng đứng chờ đợi, dõi mắt nhìn khắp dãy tường đá phiến chạy dọc theo cánh đồng đầy gốc rạ. Không có gì chuyển động. Mặt trời vẫn tỏa nắng. Ở đằng xa, cừu lên tiếng gọi nhau. Bran lại huýt sáo, nhưng vô hiệu. Rồi nó quay lại, với Will bám sát phía sau, và chúng lại trèo qua bức tường, sau đó đi xuôi theo lối mòn chúng vừa đi qua.
Bran huýt sáo lần thứ ba, và gọi bằng tiếng Wales. Giọng nó có vẻ lo ngại.
Will nói, “Nó có thể đi đâu được chứ? Lúc tớ trèo qua bức tường thì nó ở ngay phía sau bọn mình mà”
“Nó chưa bao giờ làm thế này cả. Chưa bao giờ. Nó không bao giờ rời khỏi tớ khi không được cho phép, và không chạy đến khi được gọi.” Bran bồn chồn nhìn ngược xuôi lối mòn. “Tớ không thích thế này tí nào. Lẽ ra tớ không nên để nó đến gần đất của lão Prichard đến thế. Tớ với cậu là một chuyện, nhưng Cafall thì...”
Nó lại huýt sáo thật to, tiếng huýt nghe có vẻ tuyệt vọng.
“Cậu có nghĩ là...” Will lên tiếng. Rồi cậu ngừng lại.
“Là lão Prichard bắn nó, như lão đã dọa ấy à?”
“Không, tớ định hỏi là, cậu có nghĩ là Cafall không chịu chạy đến vì nó biết nó không được đi lên đất của ông Prichard không. Nhưng thật là ngớ ngẩn, làm gì có con chó nào lại nghĩ được đến thế.”
“Ồ,” Bran rầu rĩ nói, “chó có thể hiểu được những điều rắc rối hơn thế nhiều. Tớ không biết nữa. Thử đi đường này xem sao. Đường dẫn xuống sông đấy.”
Chúng đi dọc lối mòn, rời xa khỏi mỏm đá Craig yr Aderyn đang lù lù hiện ra trước mặt. Đây đó phía trước hai đứa, cách một quãng rất xa, một con chó cất tiếng sủa.
“Có phải là nó đấy không?” Will khấp khởi hỏi.
Mái đầu tóc trắng của Bran nghiêng sang một bên. Con chó lại cất tiếng sủa, gần hơn. “Không. Đó là con chó to của bác John Rowlands. Con Pen. Nhưng Cafall có thể chạy về hướng ấy nếu nó nghe thấy tiếng sủa...”
Hai đứa chạy vụt đi, xuôi lối mòn đầy cỏ và sỏi đá. Chẳng mấy chốc Will đã hết cả hơi và bị tụt lại phía sau. Bran biến mất sau một khúc quanh trên lối mòn, trước mặt cậu. Khi Will vòng qua khúc quanh ấy, có hai thứ cùng một lúc đập mạnh vào giác quan của cậu: đó là Bran - không có Cafall ở bên - đang nói chuyện với bố nó và ông John Rowlands, cùng với sự chắc chắn khủng khiếp rằng một điều xấu xa nào đó đã xâm chiếm và điều khiển tất cả những gì đang xảy ra trên Trang Trại Clwyd. Cậu nhận ra điều đó, như bất thình lình nghe thấy một âm thanh chói tai hay ngửi thấy một mùi gì rất gắt vậy. Cậu hổn hển đến gần họ, vừa kịp lúc Bran đang nói, “... nghe thấy Pen sủa, và nghĩ nó sẽ đi về đường này, nên bọn con chạy đến.”
“Và các con không nhìn thấy gì hết à?” ông Owen Davies hỏi. Mặt ông căng thẳng vì nỗi lo lắng vô cùng nào đó. Nhìn mặt ông, Will cảm thấy bụng mình thắt lại vì linh tính có điềm gở.
John Rowlands lên tiếng, chất giọng trầm của ông cũng hết sức căng thẳng, “Còn cháu, Will? Cháu có nhìn thấy ai, nhìn thấy cái gì, trên lối mòn ban nãy không?”
Will nhìn họ đăm đăm. “Không ạ. Lúc trước cháu chỉ nhìn thấy Cafall, và giờ thì nó đã lạc mất rồi.”
“Không có con vật gì khác chạy qua chỗ các cháu à?”
“Không có gì cả. Sao vậy ạ? Có chuyện gì thế bác?”
Ông Owen Davies lầm lầm nói, “Trên đồng cỏ lớn phía trên kia, bốn con cừu đã chết, bị cắn rách họng, mà không có cánh cổng nào mở, không có dấu hiệu của con vật gì đã có thể tấn công chúng cả.”
Will kinh hoàng nhìn John Rowlands. “Có phải cũng là...?”
“Ai mà biết được?” người chăn cừu chua chát đáp. Cũng giống như ông Davies, ông có vẻ vừa lo lắng vừa giận dữ. “Nhưng không phải là chó, bác nghĩ đó không thể là chó được. Trông chúng giống như là bị cáo cắn thì đúng hơn, nhưng sao ở đây lại có cáo thì bác cũng chịu.”
“Hay là bọn, từ trên núi,” Bran nói.
(*) milgwn
“Vớ vẩn,” bố nó gạt đi.
“Cái gì cơ?” Will hỏi.
“Bọn ” Bran đáp. Mắt nó vẫn đang lướt quanh để tìm Cafall, và nó trả lời như máy. “Cáo xám. Có nhiều nông dân nói rằng trên núi có những con cáo xám, to hơn và nhanh hơn loài cáo đỏ ở dưới miền xuôi.”
(*) milgwn,
Ông Owen Davies nói, “Đó là chuyện vớ vẩn. Làm gì có thứ gì như thế. Bố đã bảo con rồi, bố không muốn con nghe những chuyện bậy bạ nhảm nhí ấy nữa.”
Giọng ông rất gay gắt. Bran nhún vai. Nhưng trong đầu Will bỗng hiện ra một hình ảnh sáng rực, rõ ràng như một đoạn phim chiếu trên màn hình: cậu nhìn thấy ba con cáo lớn chạy thành một hàng, những con vật khổng lồ màu trắng xám với bộ lông dày mọc thành cỗ bờm rộng quanh cổ, và những cái đuôi xù như bàn chải. Chúng lao qua sườn đồi, giữa các tảng đá, và một con trong bọn bỗng quay lại nhìn thẳng vào cậu trong thoáng chốc, với cặp mắt sáng quắc không chớp. Trong khoảnh khắc ấy cậu có thể nhìn thấy chúng rõ ràng như nhìn thấy Bran vậy. Rồi hình ảnh ấy biến mất, những con cáo không còn đó nữa, và cậu lại đang đứng dưới ánh nắng, câm lặng, choáng váng, vì biết rằng trong một thông điệp ngắn ngủi các Cổ Nhân có thể truyền cho nhau - hiếm khi, chỉ rất hiếm khi thôi - mà không cần canh chừng gì, các chủ nhân của cậu đã gửi cho cậu một hình ảnh cảnh báo về những sinh vật của Vua Xám, thuộc hạ của Bóng Tối.
Bất thình lình cậu nói độp một cái, “Không phải là chuyện nhảm nhí đâu ạ. Bran nói đúng.”
Bran trố mắt nhìn cậu, kinh ngạc vì vẻ quả quyết dứt khoát trong giọng cậu. Nhưng ông Owen Davies chỉ lạnh lùng nhìn cậu một cách bất bình, hai khóe môi mỏng của ông trễ xuống. “Đừng ngớ ngẩn thế, nhóc,” ông nói, giọng giá băng. “Cháu thì biết gì về lũ cáo của vùng chúng tôi?”
Will sẽ không bao giờ biết cậu có thể trả lời như thế nào, vì một tiếng kêu to của John Rowlands đã vang lên, đầy cấp bách, phá vỡ sự im lặng căng thẳng của buổi chiều đầy nắng.
“ Tân Nhìn kìa! Trên núi có lửa! Cháy!”